1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài tiểu luận tư TƯỞNG TRIẾT học của PHẬT GIÁO ở VIỆT NAM

48 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 48
Dung lượng 414,18 KB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • PHẦN MỞ ĐẦU1

  • Chương 1

  • NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ

    • 1.1 Phật giáo – những tư tưởng triết học chu

    • 1.2 Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

    • 1.2.1 Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ

    • 1.2.2. Việt Nam tiếp thu Phật giáo qua Trung Q

    • Chương 2

    • ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬ

    • 2.1 Phật giáo Việt Nam với hệ tư tưởng chính

    • 2.2 Phật giáo Việt Nam với nghệ thuật dân t

      • 2.2.1. Phật giáo với kiến trúc truyền thống

        • 2.2.2. Phật giáo với điêu khắc truyền thống

      • 2.2.3. Phật giáo với văn thơ truyền thống27

    • 2.3. Phật giáo Việt Nam với đạo đức dân tộ

  • Chương 3

  • MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG T

    • 3.1 Công cuộc đổi mới và hướng đi của Phật

    • 3.2 Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưở

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • 1. Lý do chọn đề tài

  • Chương 1

  • NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ

    • 1.1 Phật giáo – những tư tưởng triết học chu

    • 1.2. Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

    • 2.1 Phật giáo Việt Nam với hệ tư tưởng chính

    • 2.2. Phật giáo Việt Nam với nghệ thuật dân

      • 2.2.1. Phật giáo với kiến trúc truyền thống

        • 2.2.2. Phật giáo với điêu khắc truyền thống

      • 2.2.3. Phật giáo với văn thơ truyền thống

    • 2.3. Phật giáo Việt Nam với đạo đức dân tộ

  • Chương 3

  • MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG T

    • 3.1 Công cuộc đổi mới và hướng đi của Phật

    • 3.2 Một số giải pháp nhằm phát huy ảnh hưở

Nội dung

CDV Tài chính – Ngân hàng là một ngành khá là rộng, liên quan đến tất cả các dịch vụ giao dịch, luân chuyển tiền tệ. Vì vậy có rất nhiều các lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ngành Tài chính – Ngân hàng chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau: Chuyên ngành Tài chính, chuyên ngành Ngân hàng, chuyên ngành Phân tích tài chính, Quỹ tín dụng…

NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA PHẬT GIÁO VÀ SỰ DU NHẬP VÀO VIỆT NAM

Phật giáo – những tư tưởng triết học chủ yếu

Phật giáo, một trào lưu triết học tôn giáo, xuất hiện vào cuối thế kỷ VI trước công nguyên tại miền bắc Ấn Độ, gần biên giới với Nê Pan Đạo Phật ra đời như một phản ứng chống lại sự thống trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, nhằm lý giải nguồn gốc của nỗi khổ và tìm kiếm con đường giải thoát cho con người khỏi những khổ đau kéo dài trong xã hội nô lệ Ấn Độ.

Người sáng lập đạo Phật, Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Siddhattha (Tất Đạt Đa), thuộc dòng họ Cưu Đàm (Gautama), là con trai vua Tịnh Phạn (Suddhodana) của dòng họ Sakya, với kinh đô tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) Ông sinh ngày 8 tháng 4 năm 563 trước Công Nguyên và mất năm 483 trước Công Nguyên Ở tuổi 29, Thích Ca Mâu Ni quyết định từ bỏ cuộc sống vương giả để tu luyện nhằm tìm ra con đường diệt trừ nỗi khổ của chúng sinh Sau 6 năm tu luyện, ông đã "ngộ đạo" và tìm ra chân lý.

“Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên” Siddhatthan Gautama trã trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni Khi đó ngài vừa đúng 35 tuổi.

Tư tưởng triết lý Phật giáo bắt đầu từ truyền miệng và sau đó được ghi chép lại, tạo thành một kho tàng kinh điển phong phú, được gọi là “Tam tạng” (Tripataka), bao gồm ba bộ phận chính.

- Tạng kinh (Sutra-pitaka) ghi lời Phật dạy.

- Tạng luật (Vinaya—pitaka) gồm các giới luật của đạo Phật.

- Tạng luận(Abhidharma-pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải, bình chú về pháp giáo của các cao tăng, học giả về sau.

Trái với các triết thuyết như Vêda, Upanishad và đạo Bàlamôn, đạo Phật khẳng định rằng vũ trụ không có khởi đầu hay kết thúc, mà chỉ là dòng biến hóa vô thường, không do một vị thần nào sáng tạo Theo quan điểm Phật giáo, không tồn tại bản ngã hay thực thể cố định; mọi sự vật đều tuân theo quy luật nhân quả, liên tục biến đổi trong quá trình sinh, trụ, di, diệt Tất cả hiện tượng trong vũ trụ, từ nhỏ đến lớn, đều bị chi phối bởi luật nhân duyên, trong đó cái nhân chỉ có thể tồn tại nhờ cái duyên, tạo ra quả, và quả lại trở thành nhân cho những chuỗi nhân khác, tạo nên một vòng tuần hoàn vô tận của sự sống và biến hóa.

Con người được hình thành từ hai thành phần chính là thể xác và tinh thần, kết quả của sự kết hợp giữa ngũ uẩn Thể xác, hay sắc (rupa), bao gồm các yếu tố như địa, thủy, hỏa, phong, là những gì có thể cảm nhận được Trong khi đó, tinh thần, hay danh (nâma), bao gồm bốn yếu tố không có hình chất: thụ (vedana) là cảm giác về khổ và lạc; tưởng (samjna) là suy nghĩ và tư tưởng; hành (samskara) là ý muốn thúc đẩy hành động; và thức (vijnana) là nhận thức và phân biệt đối tượng tâm lý Đáng chú ý, sắc không chỉ bao gồm những gì có thể nhìn thấy mà còn cả những gì không nhìn thấy, nằm trong quá trình biến đổi, gọi là “vô biểu sắc”.

Ngũ uẩn tạo nên bản chất của mỗi con người, với danh sắc (nâma-runa) được hình thành từ nhân duyên Khi ngũ uẩn hợp nhất, đó là ta; khi chúng tan rã, ta không còn tồn tại, mà trở về với ngũ uẩn Các yếu tố của ngũ uẩn luôn biến đổi theo quy luật nhân quả, không ngừng nghỉ, dẫn đến sự thay đổi liên tục của vạn vật và con người Không có cái tôi vĩnh cửu, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay Sự biến hóa này được gọi là vô thường Trong kinh “Tăng Nhất A Hàm” có nói: “Pháp pháp tự sinh, pháp pháp tự diệt ”, cho thấy mọi thứ đều trở về với cái không: không ta, không người; không mệnh, không sĩ, không phu, không hình, không tưởng, không nam, không nữ.

Vì không nhận thức được bản chất biến ảo và vô thường của vạn vật, con người lầm tưởng rằng "cái tôi" tồn tại mãi mãi, dẫn đến sự khát khao và tham dục Hành động chiếm đoạt nhằm thỏa mãn dục vọng tạo ra nghiệp báo, khiến con người mắc vào vòng luân hồi và khổ đau (samsara) Đạo Phật lý giải rằng căn nguyên nỗi khổ của con người nằm ở sự mê ngộ về bản chất của chính mình Thích Ca Mâu Ni đã chỉ ra rằng chỉ khi nhận thức được sự biến đổi của vũ trụ và thế gian, con người mới có thể tìm ra nguồn gốc nỗi khổ và thoát khỏi sự chi phối của luật nhân duyên.

Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên là hai khái niệm cốt lõi trong đạo Phật, giúp giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau, nghiệp báo và vòng luân hồi Những tư tưởng này phản ánh triết lý nhân sinh sâu sắc của Phật giáo, nhấn mạnh sự cần thiết của việc hiểu biết và thực hành để đạt được sự giải thoát.

“Tứ diệu đế” là bốn chân lý (satya) chắc chắn, hiển nhiên, hoàn toàn cao hôn heát, goàm:

Khổ đế (Dukka) trong đạo Phật chỉ ra rằng thực tại nhân sinh đầy rẫy khổ ải Không chỉ chịu đựng nỗi khổ từ sinh, lão, bệnh, tử, con người còn phải đối mặt với những khổ đau do sự không ưa mà phải sống chung, hay mong muốn mà không đạt được Cuộc sống, vì thế, được ví như một bể khổ mà mọi người đều phải trải qua.

Tập đế (Samarudays) đề cập đến nguyên nhân gây ra nỗi khổ cho chúng sinh, chủ yếu xuất phát từ lòng tham, sân, si của con người Mặc dù con người khao khát sự tồn tại vĩnh cửu, nhưng thực tại luôn thay đổi, dẫn đến sự đau khổ do không có gì thực sự thuộc về ta Đức Phật đã giải thích căn nguyên của nỗi khổ này thông qua thuyết “Thập nhị nhân duyên”, bao gồm các yếu tố như Vô minh (avidya), Hành (samskara), Thức (vijnâna), Danh sắc (nâmarupa) và Lục căn.

(sandagatana), Xúc (sparacs), Thụ (vedana) , Aùi (trisna), Thủ (upadana), Hữu (bhava), Sinh (jati), Lão tử (jana-marana).

Diệt đế (Nirodha) là quá trình theo dõi thập nhị nhân duyên để tìm ra nguồn gốc của nỗi khổ và ái dục, nhằm chấm dứt mọi hình thức đau khổ từ gốc đến ngọn Qua đó, chúng sinh có thể thoát khỏi nghiệp chướng và luân hồi, đạt tới trạng thái Niết bàn (Nirvana).

Đạo đế (Marga) là con đường trung đạo mà Đức Phật chỉ ra nhằm diệt trừ đau khổ và phá bỏ sự hôn mê, giúp con người thoát khỏi vô minh Bằng việc thực hành các phép tu như Giới, Định, Tuệ và nỗ lực hành động, người tu luyện có thể nhận ra chân bản của vạn vật, đạt tới sự sáng tỏ và giải thoát khỏi khổ đau, luân hồi sinh tử Mục tiêu cuối cùng là đạt được Niết bàn, nơi không còn ham muốn, không còn phiền não, và chấm dứt mọi khổ đau.

"Niết bàn" được hiểu là trạng thái tâm linh đạt được khi con người từ bỏ mọi luyến ái đối với thế giới bên ngoài Để đạt được điều này, cần tuân theo "Bát chánh đạo", một con đường gồm tám bước có thể thực hiện trong mọi thời điểm và hoàn cảnh.

- Chính kiến (samyak-dristi) tức là hiểu biết đúng đắn.

- Chớnh tử duy(samyak-samkalpa) suy nghú chaõn chớnh.

- Chính nghiệp (samyak-karmata) hành động chân chính, không làm những việc tàn bạo, giả dối.

- Chính ngữ(samyak-vaca) lời nói chân chính, trung thực.

- Chính mệnh(samyak-ajiva) sống chân chính, không tham lam, vụ lợi xa rời nhân nghĩa.

- Chính tinh tiến (samyak-vyãyama) cố gắng nỗ lực chân chính.

- Chớnh nieọm(samyak-smritisati) suy nieọm chaõn chớnh.

Chánh định (samyak-samadhi) là sự kiên định và tập trung vào con đường chân chính, không bị lay chuyển hay phân tâm Trong tám yếu tố, chánh kiến và chánh tư duy thuộc về trí tuệ (Pannã); chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mệnh thuộc về giới luật (sila); chánh tinh tiến, chánh niệm và chánh định thuộc về định (samadhi) Đạo Phật cũng đề xuất các phương pháp tu luyện như Ngũ giới và Lục độ Trong những giai đoạn đầu, với vũ trụ quan nhân duyên, đạo Phật đã thể hiện yếu tố duy vật và tư tưởng biện chứng Về chính trị – xã hội, đạo Phật phản kháng chế độ đẳng cấp, tố cáo bất công xã hội, và kêu gọi tự do tư tưởng cùng bình đẳng Triết lý Phật giáo khuyến khích sống đạo đức, từ bi bác ái, nhưng vẫn có hạn chế trong tư tưởng về nhân sinh và con đường giải thoát, mang tính bi quan và chủ trương “xuất thế”, “siêu thoát” có phần duy tâm và không tưởng.

Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam

1.2.1 Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ

Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ trước khi nhận ảnh hưởng từ Trung Hoa, như được nêu trong sách “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Trần Quốc Vượng Lịch sử cho thấy văn hóa Ấn Độ đã du nhập vào Việt Nam từ sớm, nhờ vào sự hấp dẫn của các loại hương liệu như quế, tiêu, trầm hương và ngà voi Trong những thế kỷ trước Công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến tại Việt Nam, và để đảm bảo việc buôn bán diễn ra thuận lợi, các lái buôn thường đặt bàn thờ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát cùng các tượng thần Ấn Độ giáo trên thuyền, đồng thời mang theo các tăng sĩ để thực hiện các nghi lễ Qua quá trình này, người Chăm đã sớm phát triển cả Ấn Độ giáo lẫn Phật giáo.

Trong bối cảnh lịch sử, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến đảo Đồ Sơn, Việt Nam, để chờ gió mùa đông bắc trở về Họ đã xây dựng các Stupa thờ Phật trên bờ, từ đó hình thành tên gọi Đồ Sơn (núi tháp) hiện nay Theo tài liệu Thuỷ kinh chú từ thế kỷ IV, vào thế kỷ III trước công nguyên, vua A Dục đã cho xây dựng nhiều Phật tháp tại Việt Nam, phù hợp với truyền thuyết địa phương về việc xây dựng tháp thờ Phật của vua A Dục trên đảo Đồ Sơn.

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ sớm, với Luy Lâu (nay là vùng Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh) trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng Khi phong kiến Trung Hoa xâm lược và cai trị, Luy Lâu được chọn làm lỵ sở của chính quyền đô hộ, phản ánh vai trò nổi bật của vùng đất này trong lịch sử Việt Nam.

Phật giáo Ấn Độ đã du nhập vào Việt Nam từ sớm, tạo nên một mô típ văn hóa bản địa độc đáo Câu chuyện huyền tích trong tác phẩm Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngữ lục kể về hai nhà sư Ấn Độ, Ma La Kỳ Vực và Khâu Đà La, đã đến Luy Lâu để truyền bá đạo Phật.

La Kỳ Vực tiếp tục truyền đạo tại Trung Hoa, trong khi nhà sư Khâu Đà La tu luyện và hoằng pháp tại chùa Luy Lâu (chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh) Tại chùa Luy Lâu, có một cô gái tên Man Nương, là con gái của ông.

Tu Định, người làng Mãn Xá, đã đến chùa để học đạo Một đêm, Man Nương nấu cháo cho các nhà sư tụng kinh, mệt mỏi đã ngủ thiếp ở hiên Nhà sư Khâu Đà La trở về phòng và vô tình đi qua Man Nương, khiến nàng mang thai và sinh ra một bé gái Man Nương đã bế con đến gặp nhà sư Khâu Đà La, người đã đưa bé gái ngược sông Dâu lên rừng Phật Tích, đọc thần chú và gửi bé vào gốc cây dung thụ Gốc cây mở ra nhận bé gái rồi khép lại Khâu Đà La đã tặng cho Man Nương chiếc gậy thần và chiếc nón linh, dặn rằng khi gặp đại nạn, chỉ cần cắm gậy xuống đất và úp nón lên gậy, nước sẽ vọt lên từ dưới đất và mưa sẽ đổ xuống từ trên trời.

Khâu Đà La ra đi mãi mãi, và vào ngày 8 tháng 4, trời mưa to, cây dung thụ đổ trôi về bến sông Dâu, khiến dân làng không thể kéo lên, chỉ có bà Man Nương, lúc này đã già, đã vứt giải yếm xuống để cứu cây Từ hốc cây dung thụ, một bé gái xuất hiện và trở thành Thạch Quang Phật, được rước vào thờ tại chùa Luy Lâu Gỗ cây dung thụ được tạc thành bốn pho tượng, gọi là tượng Tứ pháp, được thờ ở các chùa xung quanh như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện, hay còn gọi là chùa bà Dâu, bà Đậu, bà Quân, bà Tướng Ngày 8 tháng 4 sau đó được coi là ngày Phật đản của Việt Nam, mặc dù sau này được cải chính thành ngày trăng tròn 15 tháng 4 Hiện tượng này đã dẫn đến sự hình thành nhiều ngôi chùa Tứ pháp ở đồng bằng Bắc Bộ, đánh dấu sự gia nhập và phát triển của Phật giáo từ Ấn Độ tại Việt Nam.

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng địa phương để phát triển Điều này cho thấy chỉ có Phật giáo từ Ấn Độ mới có thể tạo ra ngày Phật Đản riêng ở Việt Nam Nếu Phật giáo được truyền vào qua Trung Hoa, với chính sách phong kiến xóa bỏ các nền văn hóa bản địa, thì hiện tượng này chắc chắn sẽ không xảy ra.

1.2.2 Việt Nam tiếp thu Phật giáo qua Trung Quốc

Nước Văn Lang và Âu Lạc đã tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, bao gồm Phật giáo và Ấn Độ giáo, thông qua con đường biển Tuy nhiên, sự tiếp thu này không kéo dài lâu và nhanh chóng bị thay thế bởi những ảnh hưởng khác.

Việt Nam tiếp thu Phật giáo từ Trung Quốc bắt đầu vào năm 207 trước Công nguyên khi Triệu Đà xâm lược Âu Lạc và sát nhập vào nước Nam Việt Đến năm 111 trước Công nguyên, nhà Hán tiếp tục xâm lược Nam Việt, bao gồm cả Aâu Lạc Kể từ đó, văn hóa Trung Hoa, cùng với Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo Đại Thừa, đã nhanh chóng xâm nhập vào Việt Nam.

Phật giáo Đại Thừa đã theo con đường tơ lụa đi qua Trung Á và Tây Tạng để đến Trung Quốc trong thời kỳ nhà Tần thống trị vùng Trung Nguyên Khi du nhập vào Trung Quốc, triết lý Phật giáo như Vô tạo giả, Vô thường, Vô ngã và Nhân quả đã được thảo luận sâu sắc Đến thời Tùy Đường, khi Phật giáo đạt đến đỉnh cao, cũng là lúc nó bắt đầu phân chia thành các trường phái khác nhau.

10 tông phái Mỗi một tông phái lấy một kinh của nhà Phật làm chủ thuyết.

Trong Phật giáo, có 10 tông phái chính bao gồm Duy thức tông, Luật tông, Tịnh độ tông, Thiền tông, Câu xá tông, Hoa nghiêm tông, Tam luận tông, Thành thật tông, Mật tông và Hoa nghiêm tông Trong số đó, Thiền Tông, Tịnh độ tông và Mật tông là ba tông phái có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam.

Vào thế kỷ III và IV, dưới sự thống trị của chính quyền phong kiến Trung Hoa, xứ Giao Châu chứng kiến sự tiếp biến văn hóa mạnh mẽ, với Nho giáo và Đạo giáo từ Trung Hoa cùng Phật giáo từ Ấn Độ được du nhập Trong bối cảnh này, cả hai dòng Phật giáo, dù là từ Ấn Độ hay Trung Hoa, đều phải sử dụng chữ Hán làm công cụ chính để dịch kinh và hoằng pháp Sự truyền bá Phật giáo, vốn mang đậm ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, lại diễn ra thông qua chữ Hán, một hệ thống văn tự chứa đựng nội dung của Nho giáo.

Trung Hoa là một yếu tố quan trọng trong văn hóa Việt Nam, có ảnh hưởng từ những thế kỷ đầu công nguyên và tiếp tục tồn tại xuyên suốt lịch sử văn hóa của đất nước này.

Vào thời nhà Tùy (581-618), Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ ở Giao Châu, mở rộng ra khắp vùng đất này Đây cũng là thời điểm Phật giáo Thiền tông từ Trung Quốc bắt đầu du nhập vào Việt Nam Theo sách Thiền uyển tập anh, một tăng sĩ Ấn Độ tên Tì ni da lưu chi (Vinitaruni) đã đến Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc phát triển Phật giáo tại đây.

ẢNH HƯỞNG CỦA NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI MỘT SỐ LĨNH VỰC TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THAÀN VIEÄT NAM

Phật giáo Việt Nam với hệ tư tưởng chính trị trong lịch sử dân tộc

Từ khi du nhập vào Việt Nam, đạo Phật với triết lý từ bi đã nhanh chóng hòa nhập vào đời sống cộng đồng, góp phần quan trọng trong việc củng cố tinh thần độc lập dân tộc, một tư tưởng chính trị chủ đạo của hệ tư tưởng truyền thống Việt Nam.

Phật giáo nhấn mạnh về cái bể khổ trong cuộc sống, bao gồm khổ do sinh, lão, bệnh, tử, cùng với những nỗi đau khác của người dân mất nước Triết lý về vô thường trong Phật giáo gợi mở hy vọng về sự chuyển biến tích cực trong cuộc đời Người dân cùng khổ luôn khao khát thay đổi, không muốn sống trong một trật tự mà kẻ thống trị khẳng định là vĩnh viễn Mặc dù chưa rõ cách thức đổi mới và diệt khổ, nhưng niềm tin vào sự đồng cảm và chia sẻ nỗi đau thương là điều cần thiết Phật giáo cũng đề cao bình đẳng, khẳng định rằng không ai là tiểu nhân hay quân tử, và mang đến một tinh thần từ bi bác ái, không có hận thù hay báo oán Điều này phù hợp với bản chất dân tộc Việt Nam Cuối cùng, Phật giáo kêu gọi tự giác và giác tha, không chỉ để giải thoát bản thân mà còn để cứu giúp nhân loại, từ đó mang lại triết lý tích cực rằng nỗi khổ hôm nay sẽ được bù đắp bằng hạnh phúc ngày mai.

Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với tư tưởng của người Việt, vì vậy, từ đầu thế kỷ, người Việt đã tiếp cận Phật giáo một cách cởi mở và tích cực.

Triết lý sống nhà phật phần nào đã góp phần củng cố thêm tinh thần dân tộc, ý thức dân tộc độc lập của người Việt.

Ngay từ thời kỳ Bắc thuộc, các nhà cai trị Giao Châu đã tìm đến Phật pháp nhằm củng cố quyền lực và thể hiện mong muốn tách rời sự lệ thuộc vào phương Bắc.

Sĩ Nhiếp (127 – 226) là nhà cai trị Giao Châu, người đã tiếp thu nền học vấn Trung Hoa và đạt được trình độ cao trong giáo dục này Ông khéo léo sử dụng Phật giáo để khơi dậy tinh thần dân tộc Việt Nam, nhằm củng cố thể chế chính trị Giao Châu Bằng cách này, Sĩ Nhiếp đã tập hợp dân chúng và xây dựng một chính quyền vững mạnh, có khả năng tách khỏi sự lệ thuộc vào phương Bắc.

Sĩ Nhiếp đã tích cực áp dụng đạo Phật vào hệ tư tưởng chính trị của Giao Châu, xây dựng các ngôi chùa như Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, và Pháp Điền, đồng thời trọng dụng giới tăng lữ Sự ảnh hưởng của đạo Phật đã mang đến cho Giao Châu một sắc thái mới, tạo nên một vùng đất yên bình và hài hòa trong xã hội đương thời.

Sĩ Nhiếp và nhân dân Việt Nam thời bấy giờ đã tiếp nhận Phật giáo như một đạo lý mới, có khả năng hòa nhập với tín ngưỡng truyền thống và vượt qua các tư tưởng tôn giáo từ Trung Hoa Phật giáo đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao hệ tư tưởng chính trị Giao Châu, giúp Việt Nam hình thành một nền văn hóa chính trị độc lập hơn, tạo tiền đề cho sự tách biệt khỏi sự phụ thuộc vào phương Bắc vào thế kỷ II.

Thời Lý, Phật giáo đóng vai trò chủ đạo trong việc cầm quyền, trở thành tinh thần xã hội quan trọng Sư Đa Bửu được Lý Công Uẩn mời tham gia vào quyết định chính sự, trong khi sư Viên Thông giữ chức quốc sư dưới triều Lý Thân Tông, ngang hàng với Thái Tử khi vào chầu Các sư Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Giác Hải, Minh Không cũng được triều đình tín nhiệm, và các vua quan nhà Lý thường xuyên tán dương công đức của các nhà sư.

Triều Lý, dưới sự lãnh đạo của Phật giáo thiền tông, đã có một vị trí quan trọng trong lịch sử Việt Nam kéo dài hơn 200 năm Tuy nhiên, vào cuối thời kỳ này, đạo Phật đã biến đổi từ một triết lý sống thành một tôn giáo uỷ mị, tràn ngập mê tín dị đoan, dẫn đến sự suy yếu và diệt vong của triều Lý, nhường chỗ cho nhà Trần.

Trong thời đại Trần, Phật giáo trải qua những chuyển biến tích cực khi được các vua và quý tộc ủng hộ Tuy nhiên, thế kỷ XIII cũng là thời kỳ đầy gian lao với các cuộc kháng chiến chống lại đế quốc Nguyên Mông, khi toàn bộ tinh lực dân tộc được dồn vào công cuộc dựng nước và bảo vệ Tổ quốc Những thiền sư uyên thâm như Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đã trở thành anh hùng, ghi dấu ấn với nhiều chiến công hiển hách Nhờ vậy, Phật giáo trong thế kỷ này trở nên trong sạch và gần gũi hơn với đời sống.

Tinh thần dân tộc đã mang đến một sức sống mới cho Phật giáo thời Trần, thể hiện qua tư tưởng thân dân và lấy dân làm gốc Điều này được minh chứng qua lời dạy của quốc sư Trúc Lâm dành cho Trần Thái Tông vào năm 1236, nhấn mạnh rằng người làm vua cần phải đồng cảm với ý muốn và tấm lòng của nhân dân Phái thiền Trúc Lâm, mặc dù có nguồn gốc từ các chi phái Vô Ngôn Thông thời Lý, đã được xây dựng thành một giáo hội thống nhất và hoàn toàn Việt Nam, phản ánh rõ nét ý thức dân tộc trong bối cảnh lịch sử.

Phật giáo Việt Nam thời Trần đã cung cấp một triết lý sống, chứ không phải là nhưng tín điều giáo điều.

Thời kỳ Lý Trần đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng chính trị dưới ảnh hưởng của Phật giáo Thiền tôn, giải quyết các vấn đề thực tiễn của đất nước và phù hợp với quy luật phát triển nội tại của tín ngưỡng Phật giáo Những tư tưởng này không chỉ phản ánh những vấn đề cấp bách trong công cuộc dựng nước và giữ nước mà còn mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam Các đại biểu Phật giáo thời kỳ này đã cung cấp những gợi ý sâu sắc cho tư tưởng người Việt, thúc đẩy sự phát triển văn hóa tinh thần dân tộc trong bối cảnh lịch sử đặc biệt này.

Sau triều đại Lý Trần, Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội Mặc dù vậy, Phật giáo vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến tư tưởng của các vua quan phong kiến.

Dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị nhiều chùa được xây dựng, trùng tu, nhiều tăng sư được cấp giới đạo và điệp độ.

Trong giai đoạn này, Phật giáo đã trở thành một chỗ dựa tinh thần cho một phần chính quyền phong kiến Giai cấp phong kiến lợi dụng tín ngưỡng, bao gồm cả Phật giáo, nhằm mục đích an dân và duy trì quyền lực.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, Phật giáo đã trải qua sự phân hóa tư tưởng do bối cảnh chính trị xã hội Một bộ phận phật tử đã tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân chống lại kẻ thù mới, trong khi một số khác lại tách rời khỏi cuộc chiến giải phóng dân tộc, thậm chí lợi dụng hình ảnh từ bi của Phật giáo để lên án chiến tranh một cách mơ hồ.

Phật giáo Việt Nam với nghệ thuật dân tộc

Nghệ thuật được coi là hình thức cao nhất của hoạt động thẩm mỹ, thể hiện cái đẹp và cái thẩm mỹ một cách tinh tế Trong nghệ thuật, cái thẩm mỹ không chỉ là nội dung mà còn là phương tiện và mục đích, tạo nên giá trị sâu sắc cho tác phẩm.

Nghệ thuật là sự nhận thức và cải tạo cuộc sống theo lý tưởng thẩm mỹ, phản ánh hiện thực qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo Nó thể hiện tư duy sáng tạo trong các hình tượng, khai thác và phân tích các mối quan hệ thẩm mỹ của con người trong bối cảnh xã hội và lịch sử cụ thể Hình tượng nghệ thuật chính là hơi thở, là cuộc sống của nghệ thuật.

Tôn giáo không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là sự phản ánh sâu sắc về tồn tại xã hội Sự hiện diện của tôn giáo trong đời sống được thể hiện đa dạng qua các hình tượng nghệ thuật, phản ánh nhiều khía cạnh của thực tế xã hội.

Nghệ thuật và tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ, đặc biệt là trong bối cảnh Phật giáo và nghệ thuật truyền thống Việt Nam Hai lĩnh vực này đã có sự ảnh hưởng lẫn nhau, góp phần vào sự phát triển của lịch sử văn hóa tinh thần Việt Nam.

Phật giáo và nghệ thuật đều không chỉ là hoạt động nhận thức mà còn chuyển hóa ý tưởng thành hình tượng cụ thể, tạo ra đối tượng thưởng thức và sùng bái Sự giao thoa giữa Phật giáo và nghệ thuật trong lịch sử văn hóa Việt Nam thể hiện sự kết hợp giữa giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật, cho thấy khả năng đan xen về mặt thẩm mỹ giữa hai lĩnh vực này.

Sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với nghệ thuật truyền thống có thể thấy rõ nhất trên ba loại hình sau: Kiến trúc, điêu khắc, và thơ văn.

2.2.1 Phật giáo với kiến trúc truyền thống

Người Việt đã sử dụng các vật liệu trong quá trình sản xuất không chỉ để xây dựng nhà ở mà còn để thỏa mãn nhu cầu tâm linh, thông qua việc xây dựng đền đài, chùa tháp Những công trình này nhằm "mời" các vị thần và đức Phật đến gần cộng đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc lễ bái và cầu nguyện.

Kiến trúc truyền thống Việt Nam là sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp và tính thực dụng, tạo ra không gian sống cho người dân Ở khía cạnh thực dụng, kiến trúc đáp ứng các nhu cầu vật chất như nhà ở, trong khi ở cấp độ sáng tạo, nó còn thỏa mãn nhu cầu văn hóa thông qua các công trình như đền, chùa và tháp.

Kiến trúc truyền thống Việt Nam rất đa dạng, nhưng chùa tháp vẫn nổi bật như một biểu tượng văn hóa có giá trị sâu sắc trong không gian sinh tồn tinh thần.

Chùa tháp là những công trình kiến trúc phục vụ nhu cầu tôn giáo của Phật giáo, trong đó các ý tưởng tôn giáo và triết lý nhà Phật đóng vai trò chủ đạo trong thiết kế và xây dựng.

Chùa Một Cột là một tác phẩm nghệ thuật, một công trình kiến trúc phản ánh triết lý tổng hợp của Phật giáo Việt Nam.

Chùa chính được xây dựng trên một cột đá cao, tạo nên hình ảnh giống như một bông sen vĩ đại đang nở trên mặt nước khi nhìn từ xa.

Hoa Sen, giống như cây trúc và cây thông, được các dân tộc Á Đông như Ấn Độ và Việt Nam coi là biểu tượng của một ý nghĩa siêu hình sâu sắc Hoa Sen thể hiện lý tưởng về một cuộc sống tâm linh kiên cường, không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xung quanh Dù xuất phát từ bùn lầy, hoa vẫn vươn lên để nở ra vẻ đẹp thanh tao, tự do và giải thoát.

Chùa Một Cột được xây dựng dựa trên giấc mộng của nhà vua, trong đó Phật bà Quan Thế Âm hiện ra trên đài sen, ban phước cho đồng tử nối dõi tông đường và kế thừa sự nghiệp lâu dài Giấc mộng này đã được thanh tao hóa và nghệ thuật hóa theo cách nhìn của trí thức thời bấy giờ, khiến hoa Sen trở thành biểu tượng tinh thần sâu sắc cho toàn thể dân tộc Việt Nam.

Chùa Một Cột, với hình ảnh hoa Sen nở trong đầm, biểu trưng cho tình mẫu tử vĩnh cửu và lòng từ bi vô hạn Công trình này không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo mà còn thể hiện tinh thần tổng hợp sâu sắc, dấn thân vào cuộc sống để giải thoát chúng sanh.

Trên khắp đất nước Việt Nam, chùa chiền xuất hiện ở mọi nơi, thể hiện vẻ đẹp hài hòa với cảnh quan thiên nhiên xung quanh như chùa Hương Tích, chùa Thầy, và chùa Dạm Kiến trúc của các ngôi chùa không thể tách rời khỏi núi non, sông nước, tạo nên cảnh “sơn thuỷ hữu tình” tôn vinh giá trị tâm linh và văn hóa Quan niệm thẩm mỹ của người Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Phật giáo, thể hiện sự hòa hợp giữa tâm linh và thiên nhiên, làm nổi bật ý nghĩa tôn giáo của Phật giáo trong đời sống.

Trước cửa chùa, cổng Tam Quan mang ý nghĩa sâu sắc trong triết lý đạo Phật, biểu trưng cho ba điều quan sát Thứ nhất, Không Quan khuyến khích ta không gắn bó với bản chất thực sự của sự vật Thứ hai, Đả Quan nhấn mạnh việc nhận diện sự biến đổi vô thường của mọi vật Cuối cùng, Trung Quan thể hiện sự cân bằng giữa Không và Đả, phản ánh con đường Trung Đạo dẫn vào cửa Phật.

Phật giáo Việt Nam với đạo đức dân tộc

Đạo đức bao gồm các quy tắc điều chỉnh và đánh giá hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội Những quy tắc này được hình thành từ niềm tin cá nhân, truyền thống văn hóa và ảnh hưởng của dư luận xã hội.

Các giá trị đạo đức phổ quát trong xã hội được hiểu qua những khái niệm cơ bản, trong đó cái thiện là khái niệm trung tâm, đối lập với cái ác Những khái niệm liên quan bao gồm ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc, lương tâm, danh dự và lẽ công bằng.

Quan niệm thiện ác cũng không ngừng phát triển gắn liền với quan niệm về tiến bộ xã hội.

Từ góc độ đạo đức xã hội truyền thống, Phật giáo chia sẻ nhiều giá trị đạo đức tương đồng, thể hiện sự giao thoa giữa các khái niệm thiện và ác Đạo đức truyền thống Việt Nam chủ yếu tập trung vào mối quan hệ giữa con người với nhau và với xã hội, đặc biệt trong bối cảnh bảo vệ độc lập dân tộc, để đánh giá các hành vi thiện ác.

Phật giáo Việt Nam đã đồng hành cùng dân tộc qua nhiều thăng trầm lịch sử, hòa quyện vào đời sống văn hóa như nước với sữa Như thi sĩ Hồ Dzếnh đã viết: “Trang sử Phật đồng thời là trang sử Việt, trải bao độ hưng suy, có nguy mà chẳng mất.” Điều này thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa Phật giáo và lịch sử dân tộc, khẳng định sức sống bền bỉ của tôn giáo này trong lòng người Việt.

Phật giáo Việt Nam, trong suốt hàng ngàn năm, đã hòa nhập với lịch sử, địa lý và văn hóa dân tộc, trở thành một phần gần gũi và thân thương với người Việt Hình ảnh ngôi chùa không chỉ che chở cho hồn dân tộc mà còn giữ gìn nếp sống truyền thống của tổ tiên Nếp sống của người dân Việt Nam từ xưa đã gắn liền với đời sống của nhà chùa, phản ánh sự giao thoa giữa tâm linh và cuộc sống thường nhật Chính sự hòa quyện này đã giúp người dân vượt qua những khó khăn trần tục, hướng tới những giá trị tâm linh cao cả.

Đạo Phật nổi bật với khả năng thích ứng, thể hiện sự cởi mở, không hẹp hòi và không giáo điều Đây là tôn giáo của trí tuệ và tình thương, mang tính nhân bản sâu sắc Đức Phật khuyên các đệ tử xuất gia nên tu hành vì lợi ích của chúng sanh, mang lại an lạc cho đời sống và thể hiện lòng thương tưởng đối với mọi loài Theo Đức Phật, một cuộc sống đạo đức chính là chìa khóa dẫn đến hạnh phúc, và hạnh phúc chỉ có được khi sống một cuộc đời có đạo đức.

Đức Phật khuyến khích nếp sống Trung Đạo, tránh xa sự ham mê dục lạc và khổ hạnh Đối với Phật tử tại gia, Ngài hướng dẫn sống theo năm giới và mười điều thiện, điều này mang lại an lạc và hạnh phúc trong cuộc sống.

Sống theo năm giới và mười điều thiện không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội mà còn là điều kiện cơ bản để sống xứng đáng với nhân phẩm và tái sinh làm người Năm giới Phật giáo được coi là chuẩn mực đạo đức của người phật tử, được các nhà đạo đức học đánh giá cao, trong đó có Albert Schweitzer, người đã khẳng định rằng Đức Phật đã tạo ra một nền đạo đức nội tâm hoàn thiện, mang giá trị phổ quát cho nhân loại Theo Phật giáo, đạo đức được hiểu là sự tuân thủ chánh pháp và không vi phạm các nguyên tắc tự nhiên, là nền tảng giáo lý mà mọi người nên theo.

Một tôn giáo của tình thương, nhân bản đã góp phần tạo nên nhân cách đạo đức con người Việt Nam.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ MẶT TIÊU CỰC CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Công cuộc đổi mới và hướng đi của Phật giáo Việt Nam

Trong những năm gần đây, Phật giáo đã phát triển song hành với sự biến đổi của xã hội, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới Sự thay đổi này không chỉ nâng cao nhận thức của con người mà còn đặt ra nhiều vấn đề về sự sống, cái chết và khái niệm về thời gian theo vòng tròn luân hồi Khi chưa có lời giải đáp rõ ràng cho những câu hỏi này, con người bắt đầu tìm kiếm những yếu tố tạo nên đức tin của riêng mình, dẫn đến sự xuất hiện của tôn giáo dưới những hình thức mới và phức tạp.

Phật giáo Việt Nam đang tìm kiếm một hình thức thể hiện mới, với sự phát triển của tình cảm tôn giáo theo hướng trừu tượng hóa lớn hơn và xuất hiện dưới dạng thánh thiện Tôn giáo này thể hiện tính hợp lý cao, nhấn mạnh sự hài hòa với thế giới và vũ trụ, đồng thời yêu cầu một tôn giáo có khả năng giao tiếp rộng rãi với đời sống, kết hợp giữa triết lý và đạo đức.

Trong bối cảnh hiện nay, Phật giáo cần tiếp thu nhiều tư tưởng và quy phạm đạo đức từ xã hội Việt Nam để hoàn thiện giới luật của mình Tôn giáo này ngày càng chú trọng đến đời sống hiện thực và mục tiêu cứu cánh có thể đạt được ngay trong kiếp sống này Phật giáo nhấn mạnh việc xây dựng một cuộc sống công bằng, bình đẳng và tốt đẹp, đồng thời gắn kết chặt chẽ các tín ngưỡng với việc cải thiện tình trạng xã hội, góp phần nâng cao đời sống của cộng đồng.

Phật giáo Việt Nam, mặc dù chú trọng đến đời sống hiện thực và theo đuổi chủ trương “Phật giáo trần gian”, vẫn không tách rời ý tưởng rằng “Phật pháp là đời sống, đời sống là Phật pháp” Trong một thời gian dài, người ta đã xem cuộc sống và tu hành như hai khía cạnh riêng biệt, dẫn đến việc Phật giáo rơi vào tình trạng lẩn tránh thực tại Hòa thượng Thanh Từ đã nhận định rằng đây là thời kỳ suy đồi của Phật giáo Việt Nam.

“Phật pháp là đời sống, đời sống là Phật pháp” thể hiện sự kết nối giữa tu hành và thực tại Chỉ khi nhận thức rõ điều này, chúng ta mới có thể hiện thực hóa “Niết Bàn” ngay trong cuộc sống hàng ngày.

Phật giáo ngày càng chú trọng đến mối quan hệ xã hội và tình cảm giữa con người, coi đó là nhu cầu tinh thần thiết yếu Tình cảm không chỉ là động lực thúc đẩy con người thực hiện các chuẩn mực đạo đức mà còn là yếu tố không thể thiếu trong tôn giáo Sự tôn kính và lòng thành kính đối với Phật, cùng với tình cảm chân thành và sự tin cậy giữa con người, tạo nên nền tảng vững chắc cho đạo đức Phật giáo Chính vì vậy, người ta tự giác tuân theo các giá trị đạo đức này, bởi chúng được thấm nhuần tình cảm tôn giáo sâu sắc.

Trong thời đại hiện nay, khi trình độ dân trí ngày càng cao, các giá trị truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành văn hóa mỗi quốc gia, đặc biệt là ảnh hưởng của tín ngưỡng tâm linh Nền văn hóa hiện đại là sự kết hợp giữa quá khứ và hiện tại, trong đó tín ngưỡng tâm linh giữ vai trò thiết yếu Sự phát triển của khoa học giúp khám phá nhiều khía cạnh tiềm ẩn trong thế giới tinh thần, nhưng vẫn còn những điều không thể lý giải Khoảng trống này dễ dàng hòa nhập với tín ngưỡng tôn giáo, và Phật giáo nổi bật với sức hấp dẫn trong việc kết nối với những điều không thể giải thích.

Nến nhìn vào khổ đau của con người trong cuộc sống, đặc biệt trong xã hội đầy bất trắc, tín ngưỡng Phật giáo vẫn giữ vững vị trí trong lòng một bộ phận dân chúng Đời sống tín ngưỡng này phản ánh khát vọng của những người tìm kiếm đức tin để lấp đầy khoảng trống về một thế giới siêu nghiệm Họ hướng tới cái thiện, cái cao cả và hy vọng vào những điều tốt đẹp để bù đắp cho những thiếu thốn trong cuộc sống.

Văn hóa tinh thần dân tộc Việt Nam nổi bật với niềm tin tín ngưỡng Phật giáo, hòa quyện trong các giá trị tinh thần và được truyền lại qua nhiều thế hệ Bất chấp thời gian, tín ngưỡng này vẫn trường tồn và phát triển cùng với lịch sử, tạo nên một tâm lý cộng đồng gắn kết và góp phần hình thành nét độc đáo trong văn hóa tinh thần Việt Nam.

Phật giáo không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh trong đời sống văn hóa tinh thần, mà còn thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người trong xã hội hiện đại.

Các trung tâm Phật giáo thường được xây dựng tại những địa điểm có phong cảnh đẹp, tạo nên sự hòa quyện giữa kiến trúc, điêu khắc và thiên nhiên, thể hiện những giá trị văn hóa và thẩm mỹ của nhân loại Các lễ hội Phật giáo diễn ra tại những nơi có giá trị thẩm mỹ cao không chỉ làm phong phú thêm văn hóa truyền thống mà còn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Những lễ hội này có vai trò quan trọng trong việc củng cố cộng đồng, tăng cường tình yêu quê hương, giao lưu văn hóa và nâng cao đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, thể hiện sự kết nối sâu sắc giữa nếp sống và nhịp sống hàng ngày với các hoạt động lễ hội.

Trong thời đại hiện nay, Phật giáo đặc biệt chú trọng đến đạo đức xã hội, coi đây là con đường dẫn đến hạnh phúc và an bình Được biết đến với tên gọi “Trung Đạo”, Phật pháp không chỉ là một hệ thống đạo đức triết học mà còn là một tôn giáo giải thoát và trí tuệ Tôn giáo này khuyến khích con người thực hành ba nguyên tắc chính: loại bỏ điều ác, thực hành hạnh lành và giữ tâm thanh tịnh bằng cách đoạn tuyệt ô nhiễm Phật giáo không áp đặt những giới cấm mà thay vào đó khuyến khích những giới luật tự nguyện như tránh sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối và uống rượu, giúp mỗi người có thể thanh lọc bản thân trong khi hỗ trợ người khác sống yên bình.

Lòng hướng thiện là bản chất con người, tồn tại trong mọi cộng đồng từ xưa đến nay Trong thời đại hiện nay, những giá trị “hành thiện” và “không hành ác” của nhà Phật phù hợp với nền đạo đức dân tộc, giúp người giữ năm giới đạt được sự bình tĩnh nội tâm và trí tuệ sáng suốt Điều này cho phép con người nhìn nhận sự vật một cách chân thực, sống hài hòa với bản thân, thiên nhiên và xã hội Chính trong sự hài hòa ấy, con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự.

Việc tu dưỡng đạo đức hiện nay là cực kỳ quan trọng cho cuộc sống cá nhân và xã hội Mặc dù xã hội Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể, vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm hơn để giải quyết Đặc biệt, chúng ta lo ngại rằng nếp sống văn hóa và đạo đức truyền thống đang bị suy giảm, ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ trẻ, những người sẽ định hình tương lai.

Nếp sống từ bỏ việc ác và thực hành điều thiện không chỉ nâng cao đời sống đạo đức của toàn dân mà còn làm cho Phật giáo trở nên hấp dẫn hơn trong xã hội hiện đại Thế tục hóa Phật giáo là hướng đi quan trọng nhằm xây dựng nền đạo đức xã hội, mang lại hạnh phúc và bình an cho con người Tuy nhiên, sự suy thoái trong một bộ phận Phật giáo Việt Nam đã dẫn đến việc thực hành tín ngưỡng trở nên xa rời giáo lý nguyên thủy, khiến chùa chiền trở thành nơi ẩn nấu cho những ai cảm thấy mệt mỏi trước những biến động của thời đại Nguy cơ lớn nhất của Phật giáo là sự quay lưng với thời đại, chỉ tìm kiếm nơi trú ẩn cho những người không muốn đối mặt với thực tại Hòa thượng Thanh Từ đã chỉ ra rằng nhiều người tu hành hiện nay là những người thất chí, thất tình, hay gặp khó khăn trong cuộc sống, dẫn đến việc họ tìm đến chùa để làm tăng ni.

Ngày đăng: 15/09/2021, 10:57

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Ngọc Thêm ,Cơ sở văn hoá Việt Nam , Nxb.Giáo dục, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hoá Việt Nam
Nhà XB: Nxb.Giáo dục
2. Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hoá Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Giáo dục
3. Nguyễn Tài Thư , Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. khoa học Xã hội Hà Nội, 1991 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử Phật giáo Việt Nam
Nhà XB: Nxb. khoa học Xãhội Hà Nội
4. Phật giáo ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay, Thông tin chuyên đề, trung tâm thông tin tư liệu học viện CTQG Tp. HCM, 1996 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phật giáo ở Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay
5. Đạo Phật ngày nay Nikkyo Niwao – Trần Tuấn Mẫn dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Nxb. Tp .Hồ Chí Minh, 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đạo Phật ngày nay
Nhà XB: Nxb. Tp .Hồ Chí Minh
6. Nguyễn Hồng Phong, Tìm hiểu tính cách dân tộc, Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội, 1993 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu tính cách dân tộc
Nhà XB: Nxb. Khoa họcXã hội Hà Nội
8. Nguyễn Đăng Duy, Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 1999 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phật giáo với văn hóa Việt Nam
Nhà XB: Nxb. Hà Nội
7. Thích Mãn Giác, Phật giáo và nền văn hoá Việt Nam, 1963 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w