1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học

68 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Bản Sắc Văn Hóa Dân Tộc M’NÔNG Ở Tỉnh Đăk Nông
Tác giả Nhóm
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Triết học
Thể loại tiểu luận
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 68
Dung lượng 1,92 MB

Cấu trúc

  • 1.1.1 Sự hình thành tỉnh Đắk Nông (7)
  • 1.1.2. Điều kiện tự nhiên (10)
  • 1.1.3 Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội (14)
  • 1.2. BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG Ở ĐAK NÔNG (20)
    • 1.2.1. Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa (20)
    • 1.2.2. Bản sắc văn hóa dân tộc M’Nông ở Đak Nông, thực trạng và những vấn đề đặt ra (21)
  • Chửụng 2 GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG Ở ĐAK NÔNG (46)
    • 2.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG (46)
    • 2.2. NHỮNG NỖ LỰC GÌN GIỮ VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG Ở ĐAK NÔNG (49)
      • 2.2.1. Trước khi tỉnh Đăk Nông được thành lập (49)
      • 2.2.2. Từ khi tỉnh thành lập dến nay (52)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (67)

Nội dung

CDV Tài chính – Ngân hàng là một ngành khá là rộng, liên quan đến tất cả các dịch vụ giao dịch, luân chuyển tiền tệ. Vì vậy có rất nhiều các lĩnh vực chuyên ngành hẹp. Ngành Tài chính – Ngân hàng chia thành nhiều lĩnh vực khác nhau: Chuyên ngành Tài chính, chuyên ngành Ngân hàng, chuyên ngành Phân tích tài chính, Quỹ tín dụng…

Sự hình thành tỉnh Đắk Nông

Vào cuối thế kỷ XIX, Đăk Nông là vùng xa xôi, hẻo lánh với dân cư thưa thớt, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sống theo cộng đồng Tuy nhiên, khu vực này được xác định có tiềm năng phát triển kinh tế và vị trí chiến lược về quân sự Các giáo sĩ phương Tây đã tiến hành khảo sát và vẽ bản đồ thổ nhưỡng để phục vụ cho việc truyền giáo và khai thác của thực dân Pháp Sau khi xâm lược Việt Nam, Pháp nhanh chóng thiết lập bộ máy cai trị tại Tây Nguyên, đặc biệt là Đăk Nông, bằng cách thành lập các đồn để nghiên cứu và kiểm soát dân chúng, tập trung chủ yếu ở Đăk Mil và Đăk Sông.

Năm 1959, chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập tỉnh Quảng Đức theo sắc lệnh số 24, cắt huyện Đăk Mil từ Đăk Lăk và một phần huyện Kiến Hòa để tạo ra các quận Đăk Lập, Kiến Đức và Khiêm Đức, với tỉnh lỵ đặt tại Gia Nghĩa Dân số lúc đó khoảng 37,000 người, chủ yếu là người M’nông, nhằm kiểm soát vùng cực nam Tây Nguyên và Đông Nam Bộ Trong những năm kháng chiến, tỉnh Quảng Đức được điều chỉnh theo yêu cầu chiến lược, và tháng 12 năm 1960, tỉnh được tái thành lập với mật danh B4 Đến giữa năm 1961, tỉnh thuộc khu VI, trong bối cảnh địch thực hiện nhiều cuộc càn quét lớn Đầu năm 1962, tỉnh Quảng Đức giải thể, huyện Khiêm Đức về Lâm Đồng, huyện Đức Lập và Đức Xuyên về Đăk Lăk, huyện Kiến Đức về Phước Long.

Năm 1962, huyện Khiêm Đức và xã Đăng Gia thuộc huyện Đức Trọng được tách ra để thành lập huyện mới mang mật danh E25, do khu X chỉ đạo với đồng chí Nâm Nam làm bí thư và đồng chí Lê Đạo làm phó bí thư Năm 1963, tỉnh Quảng Đức được tái lập, huyện E25 giải thể và trở lại tên Khiêm Đức Dưới sự chỉ đạo của trên, nhiệm vụ là giữ vững căn cứ, phát triển lực lượng cách mạng, chống càn quét, gom dân và lập ấp, đồng thời đưa dân từ ấp chiến lược về vùng căn cứ cách mạng Tháng 10 năm 1963, khu X và tỉnh Quảng Đức bị giải thể, huyện Đức Lập và Đức Xuyên về lại tỉnh Đăk Lăk, Khiêm Đức về Lâm Đồng, còn Kiến Đức tiếp tục dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Phước Long Đến năm 1965, tỉnh Quảng Đức được tái lập với 4 huyện như cũ, trong khi đế quốc Mỹ gia tăng hoạt động chiến tranh cục bộ tại miền Nam, khiến bọn ngụy ở Quảng Đức hoạt động mạnh mẽ hơn với nhiều cuộc càn quét.

Trong giai đoạn 1965-1966, cuộc chiến tranh tại ấp chiến lược diễn ra rất căng thẳng, với sự tăng cường lực lượng Quảng Đức bao gồm C24 và D606 Để lãnh đạo và chỉ đạo hiệu quả các khu vực, năm 1966, khu X được tái thành lập và tỉnh Quảng Đức được tạm thời chia thành hai tiểu khu: Tiền phương A và B.

Tiền phương A bao gồm huyện Đức Lập và Đức Xuyên, với đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) giữ chức Bí thư và đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) làm Phó bí thư.

- Tiền phương B gồm huyện Khiêm Đức và Kiến Đức ,do đồng chi Nguyễn Xuân Khanh (Năm Khanh) làm Bí thư

- ẹầu thỏng 01 năm 1967 ,do nhiệm vụ chiến trường đặt ra, hai cơ quan tiền phương A và B hợp nhất thành tĩnh Quảng Đức như cũ.

Vào tháng 5 năm 1971, theo chủ trương giải thể tĩnh Quảng Đức, khu X cũng bị giải thể, đồng thời Giao Khiêm Đức và Kiến Đức được chuyển về Lâm Đồng dưới sự chỉ đạo của khu VI, còn Đức Xuyên và Đức Lập thuộc Đắk Lắk dưới khu V Đến tháng 8 năm 1974, Kiến Đức được cắt về Phước Long, trong khi Khiêm Đức và Gia Nghĩa vẫn thuộc Lâm Đồng Sự chỉ đạo của các huyện theo tổ chức mới này kéo dài cho đến ngày giải phóng.

Sau khi miền Nam được giải phóng hoàn toàn vào tháng 5 năm 1975, tỉnh Quảng Đức được thành lập lại theo chủ trương của chính quyền Tỉnh ủy đã chỉ đạo các cấp nhanh chóng ổn định tình hình, khôi phục sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân, đồng thời khắc phục hậu quả chiến tranh Mục tiêu là từng bước tiến tới xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, đến tháng 11 năm 1975, tỉnh Quảng Đức đã được sáp nhập vào tỉnh Đăk Lăk.

Tỉnh Đăk Nông được thành lập từ ngày 01 – 01 – 2004 theo nghị quyết số 22/2003 QH11 của Quốc hội, trên cơ sở chia tách từ tỉnh Đăk Lăk Tỉnh có diện tích 6.514,38 km² và dân số khoảng 392.070 người, với sự hiện diện của 31 dân tộc Đăk Nông bao gồm 06 đơn vị hành chính cấp huyện: Cư Jút, Đăk Mil, Đăk Song, Đăk R’Lấp, Krông Nô và Đăk Nông Vào tháng 6/2005, huyện Đăk Nông được đổi tên thành Glong, và vào tháng 1/2007, huyện Tuy Đức được thành lập từ Đăk Buk, tách ra từ huyện Đăk R’Lấp.

Tóm lại, hiện nay Đăk Nông có 8 đơn vị hành chính, 7 huyện và thị xãGia Nghĩa.

Điều kiện tự nhiên

Đăk Nông nằm ở phía Tây Nam của Tây Nguyên, tọa lạc giữa vĩ độ 13°04' và kéo dài từ kinh độ 107°13' đến 108°10' Tỉnh này giáp với Đăk Lăk ở phía Bắc, Bình Phước ở phía Nam, Lâm Đồng ở phía Đông và Đông Nam, với dãy Tà Đùng cao 1.982m tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Phía Tây của Đăk Nông giáp với Campuchia.

Cao nguyên M’Nông, được biết đến như cao nguyên Trung tâm Nam Đông Dương, nằm tại "Ngã ba ranh giới" của ba vùng Trung Kỳ, Nam Kỳ và Cao Nguyên Địa thế của Cao Nguyên M’Nông giống như một mái nhà, với diện tích gần 4000 km² và độ cao trung bình 800m Từ đây, các sông ngòi chảy xuống, bao gồm sông Sêrêpốk, sông Prêktê và sông PrêkClông đổ về sông Mê Công, trong khi phía Đông Nam chảy ra sông Đồng Nai và sông Bé Tỉnh Đắk Nông có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị và an ninh, với quốc lộ 14 kết nối từ Bắc đến Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương với Thành Phố Hồ Chí Minh và các vùng lân cận Ngoài ra, quốc lộ 28 và các tuyến đường bộ khác cũng góp phần vào sự phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng của tỉnh.

Khí hậu Đăk Nông có đặc điểm của khí hậu cao nguyên nhiệt đới gió mùa, với thời tiết quanh năm mát mẻ và ôn hòa hơn so với nhiều tỉnh khác Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 22°C, nhưng vào tháng 1 và tháng 2, thời tiết trở nên lạnh hơn Tỉnh này nhận lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800 đến 2400mm, độ ẩm trung bình khoảng 85% và có khoảng 2.283,8 giờ nắng mỗi năm Ảnh hưởng của gió mùa cũng góp phần tạo nên đặc điểm khí hậu độc đáo của Đăk Nông.

Nông có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, với lượng mưa chiếm 85-87% cả năm, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp Thời gian canh tác và thu hoạch diễn ra từ tháng 5 đến tháng 6, cho phép thu hoạch hai mùa trong năm với các loại cây trồng ngắn ngày Mùa nắng kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, thời tiết khô hanh, lạnh hơn và thường có sương mù.

Sông ngòi Đăk Nông, nằm ở cuối dãy Trường Sơn trên cao nguyên 500m so với mực nước biển, có địa hình bị chia cắt mạnh với đồi núi liên tiếp và xu hướng thấp dần từ Đông sang Tây, từ Nam đến Bắc Hệ thống sông suối dày đặc không chỉ cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp mà còn có tiềm năng thủy điện lớn Các sông đầu nguồn như Đông Nai và Sêrêpôk có thể xây dựng các công trình thủy điện với tổng công suất khoảng 1500 MW, trong khi các nhà máy thủy điện trên sông Krông Nô và sông Đông Nai đã được khởi công Ngoài ra, Đăk Nông còn nổi bật với nhiều thắng cảnh du lịch đẹp như thác Diệu Thanh (Kpal Rpu), thác Trinh Nử, thác Gia Long và thác Đray Sáp.

Hồ Doãn Văn – Đăk Wai (Đăk R’Lấp); thác thủy điện Đăk Nông cao hơn 80m, từ lâu đã thành nguồn cung cấp điện năng cho thị trấn Gia Nghĩa.

Tỉnh Đăk Nông, với địa hình đồi núi và nằm trong vùng đất đỏ Bazan, có độ phì nhiêu cao, rất thích hợp cho việc phát triển nông nghiệp Tổng diện tích đất nông nghiệp hiện tại là 163.324,4 ha, trong đó 93.416,2 ha là đất trồng cây lâu năm, chủ yếu là các loại cây công nghiệp dài ngày Cà phê và cao su là hai loại cây chủ lực, phù hợp với điều kiện tự nhiên, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển vùng chuyên canh, thể hiện thế mạnh của tỉnh.

Rừng Đăk Nông có diện tích 382.519 ha, chủ yếu là rừng tự nhiên với nhiều loại gỗ quý như cầm lai, giáng hương và trắc Hệ động vật phong phú với nhiều loài quý hiếm như voi, báo và tê giác Tỉnh còn có đồng cỏ và thung lũng như Đăk Kel và Đăk R’Tíh, thuận lợi cho chăn nuôi và phát triển cây lương thực, cây công nghiệp.

Đăk Nông sở hữu nguồn khoáng sản phong phú, nổi bật là mỏ quặng Bôxít tại Quảng Sơn với trữ lượng 5,4 tỷ tấn, trong đó 2,6 tỷ tấn là nguyên liệu Ngoài ra, mỏ đá quý Saphia ở xã Trường Xuân đang được khai thác, cùng với mỏ Volfram ở Đăk R’Măm, mỏ thiếc ở Đăk Nia và đá thạch anh tại chân núi Nâm Nung Vàng cũng được tìm thấy rải rác ở Đăk Ha, Đăk R’Măm và thị trấn Gia Nghĩa.

Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Dắk Nông là vùng hoang sơ với đồng bào dân tộc thiểu số chủ yếu sống bằng nương rẫy và du canh du cư, trong đó săn bắn và hái lượm đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày Phương thức sản xuất đơn giản, sử dụng công cụ thô sơ như xà gạt, rìu, cuốc và liềm, cho đến năm 1979 – 1980 mới bắt đầu trồng lúa nước Tuy nhiên, nhờ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ giúp năng suất mùa vụ không quá thấp, mặc dù nền kinh tế chủ yếu mang tính tự cung tự cấp và trao đổi còn hạn chế.

Cư dân tại khu vực chủ yếu là người M’Nông, cùng với một số đồng bào S’Tiêng và Mạ, với các nhóm M’Nông như Gar, Chil, Biệt, Preh, R’lam, và Noong mang những nét văn hóa đặc trưng riêng Đặc biệt, M’Nông Tibiri ở bắc đường 14 thuộc huyện Cư Jút vẫn duy trì nếp sống văn hóa gần gũi với người Êđê Ngoài ra, còn có một số dân tộc thiểu số từ các tỉnh phía Bắc di cư vào Đắk Nông để sinh sống Nơi đây cũng nổi bật với các nghề thủ công tinh tế như dệt sợi, thêu nhuộm hoa văn, đan lát đồ dùng bằng tre mây, và nghề rèn để cải tiến, sửa chữa công cụ lao động cũng như chế tạo vũ khí.

Tình hình xã hội hiện nay đang diễn ra quá trình phân chia giàu nghèo và đẳng cấp, nhưng chưa đến mức đối kháng giai cấp Mặc dù có sự phân hóa, chênh lệch tài sản giữa người khá giả và số đông vẫn khó nhận biết Trong gia đình và xã hội, thị tộc mẫu hệ vẫn được duy trì, với vai trò quyết định của người phụ nữ trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội Các gia đình trong buôn, bon có mối quan hệ thân tộc, tạo nên sự bền vững cho cộng đồng Tập quán truyền từ đời này sang đời khác trở thành nét đẹp truyền thống, giúp đồng bào sẵn sàng hỗ trợ nhau trong sản xuất và hoạn nạn, cũng như kết nghĩa với các dân tộc khác.

Phong tục và tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số tại Đắk Nông còn lưu giữ nhiều dấu ấn của thời kỳ nguyên thủy, với đời sống tổ chức theo từng nhóm sắc tộc và sản xuất tập thể Sự phát triển kinh tế - xã hội của họ vẫn còn lạc hậu Vào giữa thế kỷ 20, thực dân Pháp đã xâm nhập vào Tây Nguyên, thiết lập các đồn điền như Sở Trà và trồng cà phê tại Đắk Mil, nơi người dân tộc thiểu số làm việc theo mùa vụ Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, Mỹ nhanh chóng can thiệp miền Nam Việt Nam, thiết lập chính quyền và quân đội tay sai để đàn áp phong trào yêu nước, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, trong đó Đắk Nông là một trong những vùng chịu ảnh hưởng nặng nề.

Vào những năm 1957-1958, My – Diệm đã tiến hành di cư hàng loạt từ miền Trung lên Tây Nguyên để khai thác kinh tế, quân sự và chính trị, với mục đích tách đồng bào khỏi quê hương cách mạng Trong giai đoạn này, khoảng 150 người Kinh từ các huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Bình Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi đã được đưa lên Đăk Nông, đánh dấu sự hiện diện đầu tiên của họ tại đây, trong khi chỉ có một vài hộ gia đình M’Nông sinh sống dọc theo suối Đắk Nông Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và đất nước thống nhất, Đắk Nông đã tiếp nhận một nguồn dân cư đa dạng từ nhiều địa phương khác nhau, bao gồm cả một số dân tộc thiểu số từ các tỉnh phía Bắc.

Tỉnh Đắk Nông hiện có 31 dân tộc anh em sinh sống, bao gồm Kinh, M’nông, Ê Đê, Tày, Nùng, Mường, Giao, San Dìu, Sờ Tiếng, Gia Rơi, Khơ Me, tạo nên một bức tranh đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam Sự đoàn kết và giao lưu giữa các dân tộc không chỉ giúp họ phát triển mà còn làm phong phú thêm nền văn hóa nơi đây Mỗi dân tộc mang đến những nét văn hóa độc đáo, đồng thời văn hóa các dân tộc thiểu số tại Đắk Nông cũng thể hiện những giá trị chung của người Việt Nam.

Dân tộc tự nhân bản ở Đắk Nông là một trong những dân tộc thiểu số tiêu biểu, thể hiện sự đặc sắc và phong phú của văn hóa các dân tộc Việt Nam.

Hình ảnh: Lễ hội đi cà kheo

Hình ảnh: Lễ hội ném còn

Trước khi thực dân Pháp xâm lược, cộng đồng người dân tộc bản địa ở Việt Nam vẫn duy trì tính ngưỡng nguyên thủy và đa thần, với các thần linh ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống và lao động của họ Sự xâm lược của thực dân Pháp đã đưa các tôn giáo mới vào nước ta, với việc xây dựng nhà thờ Thiên Chúa giáo tại Đắk Mil và bon Biton dưới sự quản lý của linh mục người Pháp Đồng thời, đạo Tin lành cũng xuất hiện nhằm thu hút người dân tham gia, phục vụ cho chính sách cai trị của thực dân Tuy nhiên, đạo Tin lành chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ quân Mỹ chiếm đóng Tây Nguyên Sau giải phóng miền Nam, khi cả nước thống nhất và thực hiện công cuộc đổi mới, một số bon, ấp đã bị kẻ xấu lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tuyên truyền và dụ dỗ đồng bào dân tộc thiểu số tham gia vào các giáo phái mới, gây ra những phức tạp trong công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Kinh tế, văn hóa và xã hội của tỉnh Đắk Nông hiện nay đang có sự phát triển mạnh mẽ và đổi mới đáng kể, góp phần nâng cao đời sống của người dân trên mọi phương diện.

1 Xem: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Đak Nông, lịch sử Đảng bộ tỉnh Đak Nông, Đak Nông 2006, tr 14 – 18

Tỉnh Đắk Nông, như nhiều tỉnh Tây Nguyên khác, có dân cư thưa thớt và chủ yếu sống bằng nông nghiệp Các dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống ở nông thôn, trong khi khu vực trung tâm thị trấn tập trung nhiều người Kinh làm nghề buôn bán Nền kinh tế phát triển chậm, với sự ứng dụng hạn chế của khoa học kỹ thuật trong sản xuất Mối quan hệ truyền thống giữa các dân tộc vẫn còn tồn tại mạnh mẽ, đặc biệt là quan hệ công xã nông thôn.

Năm 2007, mặc dù tỉnh gặp nhiều khó khăn như giá vật tư, phân bón và nhiên liệu tăng mạnh, cùng với thiệt hại do lũ lụt ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống, nhưng nhờ sự nỗ lực của toàn Đảng và nhân dân, tỉnh đã vượt qua thử thách Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục âm mưu "diễn biến hòa bình" và tổ chức biểu tình, tuy nhiên, tỉnh đã tập trung phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, hoàn thành các chỉ tiêu theo Nghị quyết số 11 - NQ/TU ngày 05/12/2006.

Nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng 15,74% theo giá so sánh năm 1994, với nông lâm nghiệp tăng 10,13%, công nghiệp xây dựng tăng 33,51%, và dịch vụ tăng 21,62% Cơ cấu GDI có sự chuyển dịch tích cực, trong đó tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp giảm từ 58,1% năm 2006 xuống 60,68%, trong khi dịch vụ tăng từ 21,1% lên 24,07%.

Thu nhập bình quân đầu người đạt 9,86 triệu đồng, vượt chỉ tiêu 9 triệu đồng; tổng thu ngân sách đạt trên 300 tỷ đồng, cao hơn mức 265 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt 165 triệu USD, trong khi nhập khẩu là 38,8 triệu USD Tổng mức bán lẻ hàng hóa trên địa bàn tỉnh cũng ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể.

Năm 2006, vốn đầu tư xã hội đã huy động được 2000 tỷ đồng, tăng 25,7% so với năm trước đó, trong khi tổng vốn đầu tư đạt khoảng 3000 tỷ đồng, tăng 50% Mặc dù tốc độ tăng trưởng này cao hơn mức bình quân chung của cả nước, nhưng vẫn chưa thật sự ổn định.

Trình độ dân trí của các dân tộc ở Đắc Nông đã được nâng cao thông qua sự giao lưu văn hóa giữa các vùng Nhân dân biết chọn lọc và học hỏi những giá trị tốt đẹp từ các nền văn hóa tiên tiến, từ đó loại bỏ dần các tập tục và nghi lễ lạc hậu Đắc Nông không ngừng phát triển và đổi mới, nâng cao đời sống người dân, đồng thời xây dựng nền văn hóa tiên tiến mà vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc.

BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG Ở ĐAK NÔNG

Khái niệm văn hóa, bản sắc văn hóa

Từ "văn hóa" mang nhiều nghĩa khác nhau trong Tiếng Việt, được sử dụng phổ biến để chỉ học thức hay trình độ văn hóa Ngoài ra, nó còn có nghĩa chuyên biệt để chỉ mức độ phát triển của một giai đoạn, như văn hóa Đông Sơn Trong ý nghĩa rộng hơn, văn hóa bao quát tất cả các khía cạnh của đời sống, từ những sản phẩm tinh xảo đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống và lao động.

2 Theo: Phó trưởng ban tuyên giáo huyện Krông Nô Phạm Hữu Châu, Báo cáo về tình hình kinh tế xã hội ẹak Noõng, Kroõng Noõ, 2008

Trên thế giới, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa, và để định nghĩa một khái niệm, cần xác định những đặc trưng cơ bản của nó Những đặc trưng này là các nét riêng biệt và tiêu biểu, giúp phân biệt khái niệm này với khái niệm khác Qua việc phân tích các cách tiếp cận văn hóa hiện nay, như coi văn hóa là tập hợp, hệ thống, giá trị, hoạt động, kí hiệu, thuộc tính nhân cách và thuộc tính xã hội, có thể xác định được bốn đặc trưng cơ bản, từ đó đưa ra một định nghĩa tổng quát về văn hóa.

Văn hóa là tập hợp các giá trị vật chất và tinh thần mà con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội.

Bản sắc văn hóa là những đặc điểm độc đáo và đặc trưng của một dân tộc, thể hiện qua phong tục, tập quán và các hoạt động sinh hoạt trong đời sống đa dạng của họ.

Bản sắc văn hóa dân tộc M’Nông ở Đak Nông, thực trạng và những vấn đề đặt ra

Văn hóa có thể được phân chia thành nhiều thành tố khác nhau, thường được chia thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần Ngoài ra, một số cách phân chia khác bao gồm văn hóa vật chất, văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần; hay văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và văn hóa nghệ thuật Các lĩnh vực như sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt tri thức cũng được coi là các thành phần của văn hóa Một số tác giả còn mở rộng phân loại thành bốn yếu tố: văn hóa sản xuất, văn hóa xã hội, hoạt động tinh thần và hoạt động nghệ thuật.

Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm "Cơ sở văn hoá Việt Nam" (1999) đã tiếp cận văn hóa dân tộc M’Nông từ hai khía cạnh quan trọng: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.

M’Nông là một tộc người thuộc nhóm Môn – Khơme, hay còn gọi là nhóm Bahnar nam, cư trú chủ yếu ở phía Nam Tây Nguyên, bao gồm các vùng như Krông Nô, Đắk Nông, Đắk Mil, Đắk R’lấp và Đắk Song, với dân số khoảng 67.340 người Tộc người này có nhiều nhóm địa phương, được chia thành hai bộ phận: bộ phận phía Bắc Krông Nô gồm các nhóm Gar, Kuênh, Rlâm, BuDâng, Chil, và bộ phận phía Nam Krông Nô gồm các nhóm Nong, Preh, Prâng, Bunơr Mặc dù có nhiều phương ngữ, sự khác biệt giữa chúng là không đáng kể, ngoại trừ nhóm M’Nông Gar ở huyện Lắc, có thổ âm khác biệt, còn lại các phương ngữ đều dễ hiểu lẫn nhau.

Người M’Nông, một trong những cư dân tiêu biểu của Tây Nguyên, chủ yếu thực hiện canh tác nông nghiệp bằng cuốc với kinh tế nương rẫy Ruộng nước chỉ có ở những khu vực gần đầm hồ hoặc ven sông suối Lúa tẻ là cây lương thực chính của đồng bào, và gạo được chế biến bằng cách giã bằng cối gỗ và chày tay.

Cơm của người M’Nông được nấu trong nồi đất nung và thường được đổ ra thung tre khi ăn Họ có thói quen ăn cháo chua vào bữa trưa, mang theo trong vỏ quả bầu khô khi đi làm nương rẫy Gạo nếp hiếm khi được sử dụng, chủ yếu dành cho cúng bái, làm bánh trong dịp lễ hội hoặc khi có khách Lương thực phụ bao gồm ngô, sắn, khoai lang Trong bữa ăn hàng ngày, gia đình quây quần bên bếp lửa, tạo nên không khí ấm cúng và đoàn kết.

Trước đây, đồng bào chủ yếu ăn bốc do thiếu thốn đồ gia dụng, thức ăn thường được đựng trong máng tre Ngày nay, việc sử dụng đũa và bát đã trở thành thói quen phổ biến ở hầu hết mọi nơi.

Trong gia đình, người phụ nữ thường đảm nhiệm hầu hết các công việc nội trợ như giã gạo, lấy nước, kiếm củi và hái rau Chỉ khi có bữa ăn trọng thể hoặc khi chế biến thịt gia súc, gia cầm, người đàn ông mới tham gia vào việc nấu nướng.

Thức ăn chủ yếu của đồng bào M’Nông bao gồm muối, cá kho, thịt thú săn và nhiều loại rau rừng Họ chăn nuôi trâu, lợn, gà, vịt nhưng thường chỉ hiến sinh trong các dịp lễ cầu cúng Đồng bào M’Nông ưa chuộng các gia vị như hành, gừng, sả và đặc biệt là ớt, có thể ăn tươi, phơi khô hoặc chế biến thành tương cay.

Trước đây, người M’Nông thường sử dụng nước lã từ vỏ bầu khô làm nước uống hàng ngày Đôi khi, họ nấu nước với loại cây rừng gọi là “ska” để phòng tránh đau bụng Hiện nay, việc sử dụng nước đun sôi đã trở nên phổ biến trong cộng đồng.

Rượu cần là một nhu cầu không thể nào thiếu đối với đồng bào Nam, nữ, già, trẻ ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn.

Vào các dịp lễ hàng năm, người M’Nông truyền thống làm nhiều loại bánh đặc sắc như bánh nếp sắn, bánh nếp chuối, bánh chưng và bánh bắp Ngoài việc làm bánh chay, họ còn thường sử dụng nhân thịt xào hành để tăng thêm hương vị cho món ăn.

Rừng Đăk – Nông hàng năm cung cấp cho đồng bào M’Nông một lượng ong mật đáng kể, thường được sử dụng cho trẻ sơ sinh, người ốm yếu và người già Mật ong thường được ăn kèm với xôi nếp, đặc biệt là nếp cẩm hoặc nếp nương Ngoài mật ong, người M’Nông còn có các nguồn ngọt khác như mía và trái cây trong vườn như chuối, mít, dứa, xoài, đu đủ, và dưa hấu Đồng bào M’Nông có tập quán cưa răng cửa và xâu lỗ tai để đeo trang sức, với hoa tai có thể là ngà voi, vàng óng hoặc gỗ quý Dái tai của một số người lớn tuổi thường xệ xuống chạm vai, được coi là đẹp và thể hiện sự sang trọng Ngoài ra, họ còn thực hiện các phong tục như nhuộm răng đen và ăn trầu.

Đàn ông M’nông thường mặc khố và áo chui đầu dài quá mông, trong khi phụ nữ mặc váy cuốn dài đến mắt cá chân và áo chui đầu ôm sát Trang phục của họ thường được thêu dệt hoa văn truyền thống trên nền chàm sẫm Tuy nhiên, lớp thanh niên ngày nay đã bắt đầu ưa chuộng y phục hiện đại, như áo sơ mi và váy chui đầu, đặc biệt là các cô gái M’Nông ở vùng ven huyện, thị.

Người M’Nông yêu thích trang sức như vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai và nhẫn làm từ đồng, kền hoặc bạc Phụ nữ M’Nông đặc biệt ưa chuộng những chuỗi hạt cườm ngũ sắc đeo quanh cổ Những chiếc vòng đồng, phổ biến trong cộng đồng, không chỉ là kỉ vật của các lễ hiến sinh và lễ kết nghĩa, mà còn tượng trưng cho giao ước với thần linh và lời hứa hôn của các đôi bạn trẻ.

Hiện nay, cư trú của đồng bào M’Nông bao gồm hai loại nhà chính: nhà sàn và nhà trệt Nhà trệt phổ biến trong các làng của nhóm Nông, Gar, Prâng, Preh, trong khi nhà sàn chủ yếu thuộc về các nhóm Chil, Kuênh, Rlâm Các ngôi nhà của người M’nông Nông, M’nông Gar, và M’nông Preh vẫn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống Kiến trúc nhà sàn hiện nay của các nhóm M’nông chịu ảnh hưởng từ kiểu nhà của người Êđê, thể hiện rõ trong cách bày trí nội thất và quy chế sinh hoạt bên trong Đặc biệt, nhà sàn của người M’nông Rlâm ở vùng ven hồ Lắc là một ví dụ điển hình.

Nhà của người M’nông thường là nhà dài với chiều dài từ 20 đến 30 mét, có những ngôi nhà lên tới 40 mét Kiến trúc đặc trưng của nhà dài M’nông là chỉ sử dụng kết cấu cột mà không có kèo Khi nhìn từ bên ngoài, ngôi nhà dài M’nông có vẻ thấp và không có hiên, xung quanh được bao kín.

4 Luật tục M’nông tập quán Pháp, Viện Nghiên cứu văn hoá dân gian, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội,

GIỮ GÌN VÀ PHÁT TRIỂN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC M’NÔNG Ở ĐAK NÔNG

Ngày đăng: 15/09/2021, 10:48

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình ảnh: Lễ hội đi cà kheo - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Lễ hội đi cà kheo (Trang 17)
Hình ảnh: Lễ hội ném còn - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Lễ hội ném còn (Trang 17)
Hình ảnh: Chiếc gùi – dụng cụ lao động người M’nông - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Chiếc gùi – dụng cụ lao động người M’nông (Trang 26)
Hình ảnh: Lễ hội cúng bến nước - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Lễ hội cúng bến nước (Trang 32)
Hình ảnh: Bộ chiêng 6 chiếc lớn - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Bộ chiêng 6 chiếc lớn (Trang 33)
Hình ảnh: Bộ chiêng 6 chiếc nhỏ - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
nh ảnh: Bộ chiêng 6 chiếc nhỏ (Trang 33)
hình ảnh: Nhóm đề tài phỏng vấn già làng Y Thi chọn ra để chơi,…”5 - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
h ình ảnh: Nhóm đề tài phỏng vấn già làng Y Thi chọn ra để chơi,…”5 (Trang 34)
Ngoài ra còn có những điển hình khác, chẳng hạn già làng Y Thi bon Gia Rá, xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, ông đã được nhà nước cấp tặng bằng khen về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. - Bài tiểu luận bản sắc văn HOÁ dân tộc MMÔNG ở TỈNH ĐAKNONG khoa triết học
go ài ra còn có những điển hình khác, chẳng hạn già làng Y Thi bon Gia Rá, xã Nâm Nung, huyện Krông Nô, ông đã được nhà nước cấp tặng bằng khen về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (Trang 58)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w