Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nhà ở truyền thống là chủ đề nghiên cứu quan trọng trong nhiều lĩnh vực như kiến trúc, dân tộc học, văn hóa học, khảo cổ học, lịch sử và mỹ thuật Nhiều tác giả nổi tiếng đã đóng góp vào nghiên cứu về kiến trúc và nhà ở truyền thống, với những tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự đa dạng và giá trị văn hóa của các kiểu nhà ở này.
Trong lĩnh vực kiến trúc xây dựng, có nhiều tài liệu quan trọng như cuốn "Lịch sử kiến trúc Việt Nam" của Ngô Huy Quỳnh (1986) do Nxb Xây dựng phát hành, và "Kiến trúc Việt Nam các dòng tiêu biểu" của Nguyễn Khởi (1991) từ ĐHKT TPHCM Ngoài ra, Nguyễn Bá Đang cũng có những sưu tập giá trị liên quan đến kiến trúc Việt Nam.
1999) “Bàn về vấn đề dân tộc và hiện đại trong kiến trúc”, Nxb Xây dựng; Vũ Tam Lang (1990), “Kiến trúc cổ Việt Nam” Nxb Xây dựng;
Võ Đình Diệp, Nguyễn Văn Tất, Nguyễn Hữu Thái (1984) “Nhà ở nông thôn Nam bộ”, Nxb TPHCM…
Về dân tộc học có: Nguyễn Khắc Tụng (1996), “Nhà ở cổ truyền các dân tộc Việt Nam tập I, II”, Nxb Xây dựng; Nguyễn Đức Thiềm
(2000) “Góp phần tìm hiểu bản sắc kiến trúc truyền thống Việt Nam”, Nxb Xây dựng…
Trong lĩnh vực mỹ thuật, có những tác phẩm tiêu biểu như "Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam" của Chu Quang Trứ (2003) do Nxb Mỹ thuật phát hành và "Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt" của Trần Lâm Biền (2001) do Nxb VHDT xuất bản.
Về liên ngành kiến trúc, lịch sử và bảo tồn cĩ: Trần Aùnh (2005)
Nhà gỗ Hội An là biểu tượng văn hóa đặc sắc, mang giá trị lịch sử và nghệ thuật cao Việc bảo tồn kiến trúc truyền thống này là cần thiết để gìn giữ bản sắc văn hóa địa phương Các nghiên cứu như "Nhà gỗ Hội An: Những giá trị và giải pháp bảo tồn" (NXB Trung tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An) và "Kiến trúc phố cổ Hội An" (NXB Thế giới) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản kiến trúc trong bối cảnh hiện đại Đồng thời, tài liệu "Kiến trúc cố đô Huế" cũng nhấn mạnh sự cần thiết trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa đặc trưng của Việt Nam.
Các bài viết về nhà ở truyền thống thường xuất hiện trên các tạp chí chuyên ngành như Kiến trúc, Kiến trúc và Đời sống, cũng như các tạp chí liên ngành như Nghiên cứu lịch sử, Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, Dân tộc học, Khảo cổ học và tạp chí Di sản Ngoài ra, Bản tin Trùng tu di tích của Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích thuộc Bộ Văn hóa Thông tin (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) cũng cung cấp thông tin quan trọng về lĩnh vực này.
Nghiên cứu nhà ở truyền thống tại tỉnh Đồng Nai từ năm 1998 đến 2000 đã được thực hiện với sự hợp tác của nhiều tổ chức, bao gồm Trường đại học nữ Chiêu Hòa Nhật Bản và Trường đại học Kiến trúc TP.HCM Quá trình khảo sát đã ghi nhận 401 ngôi nhà, trong đó 25 ngôi nhà tiêu biểu được đo vẽ chi tiết để phục vụ cho việc trùng tu và bảo tồn Tại hội thảo “Trùng Tu Nhà Cổ” ở Hội An vào tháng 2 năm 2001, KTS Trần Khang đã báo cáo về nhà ở truyền thống của Đồng Nai và Tiền Giang Bản báo cáo này cũng được trình bày tại hội thảo của JICA về phục hồi nhà ở cổ truyền tại Biên Hòa vào tháng 3 năm 2002 Tác giả đã thống kê và khái quát các kiểu thức kiến trúc truyền thống, đồng thời đánh giá giá trị kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trong nội thất, từ đó đề xuất phương hướng bảo tồn cho nhà ở truyền thống của tỉnh Đồng Nai.
Bài viết “Những ngôi nhà 100 năm tuổi ở tỉnh Đồng Nai” của Nguyễn Thị Tuyết Hồng (Bảo tàng Đồng Nai) cùng với khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Kim Oanh về việc bảo tồn nhà cổ ở Biên Hòa – Đồng Nai (2005) đã góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu và bảo vệ di sản kiến trúc truyền thống của khu vực này.
Nhà truyền thống ở Cù Lao Phố đã được đề cập trong một số báo, tạp chí và sách, như cuốn “Lịch sử và Văn hóa Cù Lao Phố” (1998), với một mục nhỏ về nhà cửa ở khu vực này Những nghiên cứu này mang lại giá trị văn hóa, kiến trúc, lịch sử, tín ngưỡng và phong tục tập quán của cư dân Cù Lao Phố và Đồng Nai Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện có còn thiếu tính sâu sắc và chưa đưa ra được những đặc điểm cũng như phương hướng bảo tồn cụ thể cho nhà ở truyền thống của người Việt tại Cù Lao Phố.
Tác giả thể hiện lòng trân trọng và biết ơn đối với những thành tựu nghiên cứu của các học giả trước, nhờ đó đã thu thập được nhiều thông tin quý giá về nhà ở truyền thống Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã chọn lọc và trung thực kế thừa những nguồn tư liệu quý báu này.
Nhiệm vụ và mục tiêu của đề tài
Nhiệm vụ: - Khảo sát nhà ở truyền thống ở Cù Lao Phố
- Khảo tả, đo đạc những ngôi nhà đã chọn nghiên cứu
- Nghiên cứu những kết cấu về mặt kiến trúc
- Nghiên cứu những trang trí về mặt nội thất
Mục tiêu chính là bảo tồn và phát huy giá trị nhà ở truyền thống tại Cù Lao Phố, từ đó góp phần vào việc gìn giữ và phát triển nhà ở cổ truyền trên toàn tỉnh Đồng Nai.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, tác giả áp dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử và khảo cổ học như điền dã, khảo sát, và nghiên cứu thực trạng hiện trường từng ngôi nhà Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp kiến trúc, điều tra dân tộc học, so sánh, đối chiếu và mỹ thuật Các kỹ thuật như đo, vẽ, chụp ảnh cũng được áp dụng để thu thập dữ liệu.
Ýù nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu về nhà cổ truyền ở Cù Lao Phố giúp hiểu rõ hơn về kiến trúc nhà ở của người dân Đông Nam Bộ, đồng thời tạo ra sự liên hệ với nhà ở của người Việt tại Trung Bộ và Bắc Bộ Qua đó, ta có thể nắm bắt được những đặc điểm chung của nhà ở truyền thống của người Việt.
Nhà ở truyền thống đang đối mặt với nguy cơ mai một do tác động của thời gian và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ hiện đại Xu hướng xây dựng nhà kiểu mới ngày càng xa rời kiến trúc truyền thống, vì vậy việc nghiên cứu và bảo tồn nhà ở cổ truyền là cần thiết để gìn giữ và phát huy giá trị của nhà ở truyền thống.
Luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo quý giá cho nghiên cứu về nhà ở truyền thống của người Việt tại Cù Lao Phố, cũng như nhà ở truyền thống nói chung, phục vụ cho sinh viên các trường Đại học và Cao đẳng.
Bố cục của luận văn
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Cù Lao Phố, một cù lao lớn nằm giữa dòng sông Đồng Nai, hiện nay thuộc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai.
Cù Lao Phố nằm gần trung tâm thành phố Biên Hoà, cách trụ sở UBND tỉnh khoảng 1 km về phía tây nam Cù Lao Phố rộng khoảng
Con đường sắt xuyên Việt và quốc lộ I dài 600 ha chạy qua phía tây Cù Lao, kết nối với hai cầu Rạch Cát và cầu Gành được xây dựng vào năm 1903 Đây là tuyến giao thông quan trọng, giúp người dân Cù Lao dễ dàng di chuyển đến mọi nơi trong cả nước bằng cả đường bộ và đường sông.
Cù Lao Phố có địa hình bằng phẳng với đất phù sa bồi hàng năm, mặc dù lượng phù sa không nhiều Nơi đây có hai vùng trũng rộng lớn, chịu ảnh hưởng của thủy triều hàng ngày Địa chất của Cù Lao Phố là bãi phù sa (fluvisol) trên nền đá cứng, cấu tạo từ các núi Châu Thới và Bửu Long, với nền đất đỏ ở khu vực xúm Bỡnh Kớnh và lòng sông ngang bến đò Kho Ở những khu vực khác, lớp phù sa mới dày phủ kín nền đá sâu bên dưới Đất đai tại Cù Lao Phố rất thích hợp cho việc trồng lúa, hoa màu và cây ăn trái, trong khi lớp đất mặt có tầng sét mịn màu đỏ, lý tưởng cho sản xuất gốm và gạch.
Cù Lao Phố, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có nhiệt độ trung bình năm khoảng 27 độ C Vị trí gần xích đạo giúp nơi đây không có mùa đông lạnh như miền Bắc, tạo điều kiện khí hậu ấm áp Sông nước bao quanh cũng mang lại sự mát mẻ cho Cù Lao Phố, đặc biệt là trong những tháng nắng nóng của mùa khô, làm cho nơi đây trở thành điểm đến lý tưởng cho du khách.
Từ tháng 5 đến tháng 10, gió mùa tây nam mang theo hơi nước từ biển, gây ra mùa mưa với lượng mưa khoảng 1600 mm Đây cũng là thời điểm người dân Cù Lao trồng cây ăn trái và cây lương thực.
Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió đông bắc khô nóng từ áp cao chí tuyến bắc thổi thường xuyên, tạo nên mùa khô Cuối năm, khi gió mùa đông bắc mạnh lên, thời tiết trở nên mát mẻ hơn trong những ngày cuối tháng 12 và đầu tháng 1.
Ngoài Rạch Cát (Sa Hà) và sông Đồng Nai bao quanh, Cù Lao Phố chỉ có hai con rạch: rạch Ông Án có vài nhánh chính ăn vào giữa
Cù Lao có chiều dài tổng cộng 3km và rạch Lò Gốm dài khoảng 1km, cả hai rạch đều chảy ngoằn ngoèo và chịu ảnh hưởng của thủy triều từ dòng Đồng Nai Sự lên xuống của nước sông không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng trọt mà còn giúp đưa nước vào các cánh đồng trong lòng cù lao Với hệ thống sông bao quanh, Cù Lao Phố trở thành một điểm giao thông đường thủy thuận lợi từ Bắc vào Nam, lên Cao Miên và xuống miền Tây Nam Bộ.
1.1.5 Thực Vật Ở Cù Lao Phố nói riêng cũng như tỉnh Đồng Nai hệ cây trồng giống với những tỉnh khác ở miền Đông nam bộ Miền Đông nam bộ nổi tiếng với những đồn điền cao su, cà phê, hồ tiêu từ thời thuộc
Pháp nổi bật với những cánh rừng dầu, rừng gõ và rừng trắc bạt ngàn Dọc theo thượng lưu sông Đồng Nai, du khách có thể chiêm ngưỡng những khu rừng nhiệt đới ẩm thực sự với nhiều loại gỗ quý hiếm Đi về phía tây từ trung lưu sông Đồng Nai, một dải rừng tre lồ ô dày đặc chiếm diện tích rộng lớn, được nhiều người gọi là một trong những nét đặc trưng của vùng đất này.
Vùng trung lưu và hạ lưu đã chứng kiến sự thay thế của nhiều cánh rừng tự nhiên bằng các rừng trồng quy mô lớn như cao su, cà phê và các loại cây ăn quả nổi tiếng như chôm chôm, sầu riêng, xoài Cù Lao Phố từng được bao phủ bởi rừng rậm cách đây vài trăm năm Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, người Việt từ Đàng ngoài và Thuận Quảng đã di cư đến đây để sinh sống và làm ăn Đến nửa cuối thế kỷ XVII, nhóm người Hoa theo Trần Thượng Xuyên được chúa Nguyễn cho phép định cư tại Đồng Nai, cùng với người Việt, họ đã khai phá rừng, lập làng, xây dựng cảng Nông Nại Đại Phố để thu hút thương nhân đến buôn bán.
Rừng tại Cù Lao Phố đã bị thu hẹp đáng kể, đến năm 1945 chỉ còn lại một vạt rừng chồi ở khóm Tân Mỹ Hiện nay, rừng đã không còn, chỉ còn sót lại một số cây dầu và bằng lăng cổ thụ tại các đình chùa và trong vườn của các gia đình.
Cây trồng ở địa phương rất đa dạng, bao gồm lúa, hoa màu và cây ăn quả như bưởi, mít, xoài, mãng cầu, ổi Tuy nhiên, hiện nay, các loại cây ăn quả chủ yếu chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các hộ gia đình mà chưa tạo ra giá trị nông sản hàng hóa đáng kể.
Thực vật ở Đồng Nai đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu cho xây dựng các ngôi nhà gỗ truyền thống trên toàn tỉnh.
ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ
“Mặt hướng sông, lưng tựa núi” là hướng sống lý tưởng theo phong thủy, phản ánh sự gắn bó của con người với nguồn nước tự nhiên Sông Đồng Nai, với chiều dài 480 km và lưu lượng lớn thứ ba cả nước, đã chứng kiến sự phát triển văn hóa từ thời kỳ đồ đồng đến đồ sắt Các cù lao màu mỡ như Tân Triều, Rùa, và Phố được hình thành nhờ sông Đồng Nai, nơi đã nuôi dưỡng con người và đất đai từ xa xưa Những di tích khảo cổ học cho thấy dấu vết cư trú của con người từ thời kỳ đá cũ đến giai đoạn lịch sử sau này, với chủ nhân Văn hóa Đồng Nai sống trên ba vùng địa hình đặc trưng Các hiện vật khảo cổ như đồ đá, đồ đồng, đồ gốm và nhiều loại hình khác đã chứng minh sự đa dạng và thăng trầm của lịch sử vùng đất này, mặc dù quá trình nghiên cứu vẫn còn nhiều khoảng trống cần được lấp đầy.
Hơn 300 năm trước, trước khi Trần Thượng Xuyên và Dương Ngạn Địch xin chúa Nguyễn định cư ở Biên Hòa và Mỹ Tho, đã có người Việt khai khẩn vùng đất phía Nam, trong đó có cù lao Phố Cù Lao Phố, được ghi trong Gia Định Thành Thông Chí là “Đại Phố Châu” hay “Đông Phố”, nổi bật với địa hình uốn lượn giống như con cù bông Vùng đất này không chỉ màu mỡ mà còn thuận lợi cho giao thương nhờ hệ thống giao thông đường thủy phát triển, khiến cù lao Phố trở thành trung tâm buôn bán sầm uất và được mệnh danh là chốn Đại đô hội thời chúa Nguyễn.
Cù Lao Phố, một "xứ đô hội", đã trải qua nhiều thăng trầm trong quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt trong giai đoạn từ 1747 đến 1776 khi trở thành điểm nóng của các cuộc tranh chấp quyền lực và chính trị Tuy nhiên, sau khi Sài Gòn giành mất vai trò trung tâm thương mại, Cù Lao Phố vào năm 1789 đã chuyển mình thành các làng nông nghiệp với 10 thôn, mang đậm nét văn hóa – tín ngưỡng qua các đình, chùa, miếu mạo cổ kính Dù phố xá đã tàn lụi và thôn làng đã thay đổi, cái tên Cù Lao Phố vẫn được giữ lại như một biểu tượng của nỗi hoài vọng về thời xưa cũ.
Cù Lao Phố, mặc dù không còn là thương cảng quan trọng dưới triều đại chúa Nguyễn, vẫn giữ gìn những giá trị lịch sử quý báu Nơi đây là điểm hội tụ của các nét văn hóa và phong tục tập quán độc đáo của những cư dân đầu tiên trong quá trình khai phá vùng đất.
Cù Lao Phố, thuộc xã Hiệp Hòa, đang trên đà phát triển và có tiềm năng trở thành điểm du lịch xanh của thành phố Biên Hòa Khu vực này có thể kết hợp với các địa điểm du lịch nổi bật như làng Bưởi Tân Triều, khu du lịch Bửu Long, Văn Miếu trấn Biên và nhiều điểm du lịch khác trong tỉnh, tạo nên một hành trình khám phá đa dạng cho du khách.
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI
Cù Lao Phố là khu vực có lợi thế cho sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại, thu hút người Hoa từ Trần Thượng Xuyên đến định cư Từ những ngày đầu khai phá, nơi đây đã phát triển nhiều ngành nghề như canh tác lúa nước, trồng trọt hoa màu, chăn nuôi và các nghề thủ công như làm bột, dệt lụa, đúc và làm gốm Những hoạt động này đã để lại dấu ấn trong văn hóa địa phương với các địa danh như chợ Chiếu và rạch Lò Gốm Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Cù Lao Phố đã tạo nền tảng cho việc hình thành thương cảng Nông Nại đại phố, một trong những trung tâm thương mại hàng đầu của Nam bộ vào thế kỷ XVIII.
Cù lao Phố hiện nay đã chứng kiến nhiều thay đổi trong hoạt động kinh tế, phát triển theo thời gian Mặc dù vẫn còn những ruộng lúa xanh tốt và ruộng trồng hoa màu, nhưng diện tích đã thu hẹp đáng kể, chỉ còn lại một vài ruộng lúa thay vì những cánh đồng rộng lớn như trước Nghề nuôi cá, tôm cũng phát triển mạnh mẽ, với nhiều gia đình đào ao thả cá và mở dịch vụ câu cá giải trí, cùng với nhà hàng và quán ăn phục vụ đặc sản cá, tôm ngay tại địa phương Hoạt động này không chỉ đảm bảo kinh tế cho gia đình mà còn đáp ứng nhu cầu giải trí và ẩm thực của người dân.
Theo điều tra, ba ngôi nhà nghiên cứu cho thấy sự khác biệt trong nghề nghiệp của chủ sở hữu Nhà bà Nguyễn Thị Hòa có truyền thống làm nghề giáo, trong khi nhà ông Đinh Văn Trơn có nguồn gốc nông nghiệp Ngôi nhà của ông Nguyễn Bửu Khoa, con trai của một giáo viên tiểu học, được xây dựng từ vật liệu lấy từ đồn điền lâm sản của gia đình, cho thấy sự ảnh hưởng của điều kiện kinh tế và quan niệm thẩm mỹ đến kiến trúc Ông Khoa, nhờ mối quan hệ với người Pháp và những người có quyền lực, đã tạo ra một ngôi nhà mang đậm ảnh hưởng phương Tây, đặc biệt là từ người Pháp, khiến ngôi nhà trở nên nổi bật và đẹp đẽ vào thời điểm đó Điều này chứng tỏ rằng điều kiện kinh tế đóng vai trò quyết định trong quy mô và kiểu dáng của mỗi ngôi nhà.
Trước năm 1698, Cù Lao Phố chỉ có 3 xóm là Chợ Chiếu, Rạch Lò Gốm và xóm Chùa, là nơi cư trú và khai thác đầu tiên của người Việt, chưa phải là đơn vị hành chính chính thức Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đã vào kinh lược đất Đông Phố, tiến hành chia lập thôn ấp và thiết lập bộ đinh, bộ điền, đánh dấu sự hình thành đơn vị hành chính đầu tiên của chúa Nguyễn tại khu vực này.
Cù Lao Phố, thuộc xã Bình Hoành, huyện Phước Long, tỉnh Đồng Nai, đã phát triển từ những thôn cũ thành ba thôn chính: Nhất Hòa, Nhị Hòa và Tam Hòa, cùng với 12 ấp: Tân Mỹ, Hưng Phú, Thành Hưng, Bình Kính, Bình Tự, Tân Giám, Bình Quang, Long Quới, Hòa Quới, Bình Hòa, Bình Xương và Tân Hưng Các thôn tại Cù Lao Phố tạo thành một cộng đồng dân cư bền vững, có lịch sử chung và văn hóa tín ngưỡng riêng, với cơ cấu xã hội đa dạng từ các tộc họ Qua nhiều biến động lịch sử, từ triều Nguyễn đến thời kỳ cai trị của Pháp, vào năm 1928, ba xã Nhứt Hòa, Nhị Hòa, Tam Hòa đã được hợp nhất thành xã Hiệp Hòa.
Mỹ đã thực hiện những thay đổi trong tổ chức hành chính tại xã Hiệp Hòa để dễ dàng quản lý hơn trong thời kỳ thuộc địa Hiện nay, cù lao Phố là một đơn vị cấp xã thuộc thành phố Biên Hòa, với ủy ban nhân dân xã và hội đồng nhân dân xã hoạt động theo các quy định của pháp luật Việt Nam.
ĐIỀU KIỆN VĂN HOÁ
Dựa vào các yếu tố tự nhiên, lịch sử, kinh tế và xã hội, ta có thể nhận thấy điều kiện văn hóa đặc sắc của Cù Lao Phố Trên vùng đất mới khai phá, người Việt đã mang theo những truyền thống văn hóa và phong cách xây dựng nhà ở của miền Bắc và miền Trung vào miền Nam Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử đầy biến động, con người nơi đây đã tiếp thu, giao lưu và phát triển những giá trị văn hóa độc đáo, tạo nên bản sắc riêng biệt cho vùng đất này.
Mỗi vùng miền của đất nước Việt Nam đều mang đặc trưng địa lý riêng, ảnh hưởng đến cách người dân tương tác với môi trường tự nhiên Điều này không chỉ giúp họ sinh sống và khai thác tài nguyên, mà còn góp phần xây dựng và phát triển tương lai Văn hóa của người Việt ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam vì thế cũng có những nét đặc sắc và khác biệt.
Khi đến Nam Bộ, văn hóa nơi đây không còn thuần nhất như Bắc và Trung Sự kế thừa, giao lưu và tiếp xúc với các nhóm cư dân khác đã tạo nên một Nam Bộ mới, với những con người và nền văn hóa độc đáo, thể hiện rõ nét qua góc nhìn Địa - văn hóa.
GS Trần Quốc Vượng thì đó được gọi là “chất Nam bộ”
Phong tục, tập quán, tôn giáo và tín ngưỡng của mỗi vùng, mỗi thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc đến cách xây dựng nhà ở, đặc biệt là tại Cù Lao Phố, nơi giao thoa văn hóa giữa nhiều cộng đồng khác nhau Khu vực này đã đón nhận người Hoa từ Trần Thượng Xuyên vào năm 1679, và trong thời kỳ thuộc Pháp vào đầu thế kỷ XX, kiến trúc phương Tây đã du nhập, tạo nên những kiểu kiến trúc Việt Nam mang ảnh hưởng của kiến trúc Pháp.
Cù Lao Phố, một thương cảng sầm uất, thể hiện rõ nét tính giao lưu và hội nhập của con người nơi đây Họ không chỉ mang đức tính chung của dân tộc Việt Nam mà còn có cốt cách riêng của miền Đông Nam Bộ, thể hiện sự gian lao nhưng anh dũng Với vị trí huyết mạch tại ngã ba sông, người dân Cù Lao Phố luôn hướng tới sự “mở”, tạo điều kiện cho sự giao lưu và kết nối với thế giới bên ngoài.
Cù Lao Phố không sở hữu những khu phố cổ với hàng trăm ngôi nhà truyền thống như Hội An, do vị trí thương cảng nằm sâu trong nội địa Qua nhiều biến cố lịch sử, Cù Lao Phố đã mất đi vị trí quan trọng của mình, nhường chỗ cho Sài Gòn – Chợ Lớn Hiện nay, nơi đây chủ yếu là một làng nông nghiệp với nhiều thiết chế làng xã, cùng với sự xuất hiện của nhiều đình, chùa và miếu Những ngôi nhà gỗ cổ truyền vẫn hiện hữu, phản ánh nét văn hóa độc đáo của vùng đất này.
Trong suốt 100 năm qua, các ngôi nhà vườn, nhà mặt tiền sông và kiểu làng xóm quần tụ đã hình thành dựa trên các trục giao thông như đường sông và đường liên xã Điều này cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các yếu tố kinh tế, xã hội và lịch sử đến văn hóa, cũng như cách phân bố nhà cửa, phương thức xây dựng và lối sống của con người.
Cù Lao Phố không chỉ là một vùng đất giàu giá trị văn hóa và lịch sử, mà còn lưu giữ những truyền thống lao động sáng tạo của cư dân nơi đây Với những đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội và lịch sử đặc sắc, Cù Lao Phố đã trở thành một địa danh nổi tiếng trong vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai, khắc sâu trong lòng người dân và du khách.
NHỮNG NGÔI NHÀ Ở TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT Ở CÙ
NHÀ NGUYỄN BỬU KHOA
Ngôi nhà được xây dựng bởi cụ Trần Văn Huê (1891 – 1943), cha của ông Nguyễn Bửu Khoa (tên thật là Trần Tấn Khoa, sinh năm 1933) Cụ Huê khởi nghiệp là giáo viên tiểu học ở Biên Hòa Sau khi lập gia đình, cụ được bố vợ cho một mảnh vườn để dựng nhà Do thu nhập từ nghề dạy học thấp, gia đình gặp nhiều khó khăn, nhưng với tri thức và khả năng tiếng Pháp, cụ Huê đã kết giao với nhiều người có địa vị trong xã hội, bao gồm các chủ đồn điền người Pháp Cuối cùng, một chủ đồn điền đã nhượng lại cho cụ một đồn điền khai thác lâm sản ở Bảo Chánh - Xuân Lộc với giá rẻ trước khi trở về Pháp.
Văn Huê quyết định rời bỏ nghề dạy học để tập trung vào việc quản lý đồn điền, chuyên khai thác lâm sản, chủ yếu là gỗ Ông cung cấp gỗ cho công ty Hỏa xa, phục vụ cho việc xây dựng nhà ở và cung cấp củi đốt cho người dân địa phương.
Căn nhà được xây dựng hoàn toàn từ gỗ gõ, lấy từ đồn điền của gia đình Trần Văn Huê Năm 1920, bà Trần Thị Long, con gái đầu lòng của cụ Huê, ra đời khi kinh tế gia đình đã khá giả Để đánh dấu sự thịnh vượng, cụ Huê quyết định xây dựng một căn nhà mới khang trang, với sự giúp đỡ của nhóm thợ địa phương, công việc được thực hiện liên tục trong hai năm.
1922 ngôi nhà được hoàn tất
2.1.1 Cảnh quan, khuôn viên nhà
Từ trung tâm thành phố Biên Hòa, bạn di chuyển theo hướng quốc lộ I, qua cầu Rạch Cát, sau đó rẽ trái vào xã Hiệp Hòa Tiếp tục theo con đường liên xã, bạn sẽ đến ấp Nhứt Hòa, nơi có nhà Nguyễn Bửu Khoa tọa lạc tại số 72/1 ấp Nhứt Hòa, xã Hiệp Hòa.
Ngôi nhà tọa lạc tại TP Biên Hòa, T Đồng Nai, có diện tích 170m2 (16m x 10m), được xây dựng trên khuôn viên đất rộng 1580m2 (79m x 20m) Mặt tiền của ngôi nhà hướng về phía tây bắc, nhìn ra con đường phía trước.
Nhà Nguyễn Bửu Khoa tọa lạc trên mặt tiền đường liên xã, với khuôn viên xây dựng bằng tường gạch và cọc sắt Sân nhà lát nền xi măng, được thiết kế lệch sang trái để dành lối đi xuống vườn sau Ngôi nhà cao khoảng 50cm so với mặt đất, với hai bậc thềm Trước sân là khoảng đất rộng trồng cây cảnh và cây ăn trái như sơri và cây bàng, cùng với bàn thờ Thiên xây bằng gạch và bể nước trồng hoa sen, thể hiện yếu tố phong thủy "mặt hướng sông lưng tựa núi" Phía sau nhà chính khoảng 15m là ngôi nhà cấp bốn của con gái ông Khoa, trong khi phần đất cuối khuôn viên là nghĩa trang gia đình, nơi an táng tổ tiên, trong đó có hai cụ thân sinh của ông Vườn còn trồng nhiều loại cây ăn trái như xoài, ổi và samôchê.
2.1.2 Bố trí mặt bằng nhà
Ngôi nhà được thiết kế theo hình chữ nhất (-) với ba gian, có mái hai chiều và nền gạch tàu màu đỏ tươi Hầu hết kiến trúc vẫn giữ nguyên dáng vẻ ban đầu, ngoại trừ phần phụ phía sau được mở rộng bằng gạch và mái tôn Đây là sự kết hợp giữa kiến trúc và trang trí truyền thống với những yếu tố du nhập từ Châu Âu trong thời kỳ Pháp thuộc.
2.1.3 Cấu tạo bộ khung kết cấu nhà
Nhà Nguyễn Bửu Khoa được thiết kế theo kiểu nhà rường, hay còn gọi là nhà xuyên trính Kiến trúc xuyên trính không chỉ mang lại sự thông thoáng và không gian rộng rãi cho ngôi nhà mà còn có khả năng chịu lực tốt.
2.1.4 Kết cấu vì kèo, cột, gian
Nhà Nguyễn Bửu Khoa có thiết kế độc đáo với cấu trúc cột và tường gạch bao quanh, kết hợp với cột gỗ độc lập Tổng cộng, ngôi nhà sử dụng 26 cột, bao gồm cột gỗ, cột gạch và cột hiên, tạo nên một kiến trúc ấn tượng và bền vững.
Cột gạch trong ngôi nhà được thiết kế với kích thước 5m x 3m cho cột ngăn giữa bếp, phòng ăn và nhà tắm, trong khi cột ngưỡng của các khung cửa và tường trước hiên có kích thước 3,5m x 3m Hệ thống cột gạch có tiết diện hình vuông và chữ nhật, không chỉ chịu lực mà còn phân chia các gian, cửa trong nhà Ngôi nhà có bốn hàng cột và bốn cột cái ở giữa, được làm bằng gỗ gõ mật màu nâu đen bóng, cao 6m với đường kính 0,55m và chu vi 1,1m, đầu cột nhỏ hơn chân cột Chân cột được kê bằng đá tảng xanh chống lún, đặt chìm dưới nền nhà và được bao quanh bởi xi măng vuông vắn, nhô lên so với nền gạch tàu Bốn cột cái ở trung tâm mang ý nghĩa đặc biệt, được gọi là “Tứ trụ”.
Hệ thống cột gạch và tường gạch được xây dựng đồng thời với việc đặt chân tảng và dựng 4 cột gỗ trung tâm để chịu lực, sau đó mới tiến hành lắp đặt các cấu kiện còn lại trong ngôi nhà.
Cột hiên của ngôi nhà bao gồm 8 cột, trong đó có 4 cột vuông chịu lực và 4 cột tròn trang trí theo kiểu cột Korinth Cột Korinth, mang tên thành phố Korinthos, nổi bật với thiết kế mảnh mai và hoa lệ, tạo hình giống như lẵng hoa với các tầng lá acanthe Các cột vuông ở mặt đứng hiên được trang trí bằng các khối vuông đắp nổi có rãnh phân cách, tăng thêm tính thẩm mỹ cho ngôi nhà Kiểu thiết kế này phản ánh ảnh hưởng kiến trúc châu Âu vào Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, với niên đại xây dựng vào năm 1920.
Kèo là phần cấu trúc quan trọng trong việc xây dựng nhà, đóng vai trò kết nối giữa các cột cái và cột quân Sau khi hoàn thành hệ thống cột, các thanh kèo được đặt theo các khoảng cách giữa các cột, với mộng liên kết tại đầu cột Tại nhà Nguyễn Bửu Khoa, mỗi đoạn kèo có lá dung dài, tạo thành nhịp cầu nối giữa các đoạn kèo, giúp đảm bảo tính liên tục và vững chắc cho công trình, được gọi là “kèo chồng” Hệ thống kèo không có trang trí hoa văn, và phần nóc tam giác, nơi giao nhau của hai đầu kèo, được kết nối bằng đòn dông, tạo thành cấu trúc vững chãi.
Sau khi dựng hai hàng cột cái đầu tiên, người ta tiến hành lắp các thanh trính để liên kết bốn cột cái của gian trung tâm Nhà Nguyễn Bửu Khoa có hai thanh trính, được xây bằng cột và tường gạch mà không có hệ vì kèo sát tường Cây trính có hình dáng hơi cong lên phía trên, với thân cột được đục mộng để xuyên trính và lỗ mộng ở đầu trính để đóng chốt sau khi lắp vào cột Giữa thanh trính và dưới chỗ giao nhau của hai đầu kèo có cấu kiện gọi là bộ chày – cối, vừa đỡ đầu nối của hai thanh kèo vừa mang ý nghĩa dân gian là âm (cối) và dương (chày).
Cây đà xuyên, hay còn gọi là xà ngang, là thành phần quan trọng trong cấu trúc nhà, nối hai hàng cột cái theo chiều ngang để cố định bộ khung Hệ thống này bao quanh bốn cột, chia không gian thành ba gian nhà Cây xuyên thường được thiết kế đơn giản, không có hoa văn trang trí Hai hàng cột cái giúp chia mái nhà thành hai phần cân đối, đồng thời là điểm giao nhau của các vì kèo mái trước và mái sau Đòn dông, với tiết diện vuông tương đương với hoành, được đặt tại vị trí giao nhau của hai đầu kèo, đảm bảo tính ổn định cho toàn bộ kết cấu.