VAI TRÒ BỘ MÁY TRA CỨU HIỆN ĐẠI VỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Khái niệm bộ máy tra cứu
Bộ máy tra cứu bao gồm các công cụ và phương tiện giúp tìm kiếm, cung cấp tài liệu, thông tin và dữ kiện liên quan đến đề tài của cơ quan thông tin - thư viện (TT-TV), nhằm đáp ứng nhu cầu của người dùng tin (NDT).
Bộ máy tra cứu có thể chia thành hai loại: BMTC truyền thống và BMTC hiện đại Bộ máy tra cứu bao gồm các bộ phận sau:
• Kho tài liệu tra cứu
• Hồ sơ trả lời câu hỏi
Trong BMTC hiện đại, các bộ phận này được sử dụng theo nhiều hình thức tổ chức khác nhau và không còn thực hiện bằng tay mà được thay thế bằng máy tính điện tử.
1.1.1 Bộ máy tra cứu truyền thống (hệ thống tìm tin bằng phương pháp thủ công)
* Kho tài liệu tra cứu: Là tập hợp đầy đủ các loại tài liệu tra cứu và tài liệu thư mục:
• Các tác phẩm kinh điển của Chủ nghĩa Mác-Lenin
• Các văn kiện của Đảng-Nhà nước
• Chỉ thị, Nghị quyết của các Bộ, Ngành
* Các tài liệu tra cứu:
• Bách khoa toàn thư: Tổng hợp, chuyên ngành
• Các loại từ điển: Ngôn ngữ, thuật ngữ, nhân vật,…
Các loại tra cứu khác bao gồm niên giám, niên biểu, sổ tay, cẩm nang, tiêu chuẩn, quy chế, tài liệu thống kê, sách chỉ dẫn và các sách giáo khoa thuộc nhiều ngành nghề khác nhau.
* Các tài liệu thư mục:
• Thư mục thông báo tài liệu mới
• Thư mục chuyên đề, chuyên ngành
Mục lục thư viện là bản kê khai các tài liệu có trong thư viện hoặc nhóm thư viện, được tổ chức theo trật tự nhất định Mục đích của nó là giới thiệu thành phần và nội dung của vốn tài liệu, giúp người dùng dễ dàng tìm kiếm và truy cập thông tin cần thiết.
* Các hình thức của mục lục:
• Mục lục đọc bằng máy
Căn cứ vào dấu hiệu chức năng, phân nhóm, loại hình tài liệu, cơ cấu tổ chức thư viện, mục lục được chia thành nhiều loại Cụ thể:
• Theo chức năng: Có mục lục bạn đọc, công vụ và mục lục tổng quát
• Theo phân nhóm: Mục lục chữ cái, phân loại và mục lục chủ đề
• Theo loại hình tài liệu: Mục lục sách, bài trích từ báo, tạp chí, mục lục bản đồ, bản nhạc, các tài liệu kỹ thuật đặc biệt,…
• Theo cơ cấu tổ chức thư viện: Mục lục phòng đọc, phòng mượn báo, tạp chí, tra cứu thư mục, sách hiếm, quí,…
Hiện tại có ba loại mục lục được sử dụng thông dụng đó là: Mục lục chữ cái, phân loại và chủ đề
Mục lục chữ cái là một dạng mục lục trong đó các phiếu mô tả tài liệu được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái, dựa trên tên tác giả và tên tài liệu.
Công dụng của việc biết tên tác giả và tác phẩm giúp người dùng dễ dàng tìm kiếm tài liệu Nó cũng hỗ trợ việc tập hợp các tài liệu từ một tác giả, bao gồm cả cá nhân lẫn tập thể, cùng với những người cộng tác.
Mục lục phân loại là danh sách trong đó các phiếu mô tả tài liệu được tổ chức theo các lĩnh vực tri thức tương ứng với một hệ thống phân loại cụ thể.
Công dụng: Giúp tìm những thông tin theo chuyên ngành
Mục lục chủ đề là danh sách các phiếu mô tả tài liệu được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái của tên gọi các đề mục chủ đề.
Chủ đề là những vấn đề chính trong tài liệu, có thể bao gồm sự vật, hiện tượng, nhân vật hoặc quốc gia Những yếu tố này tạo nên nội dung cốt lõi, giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung được trình bày.
Từ khóa là một thuật ngữ hoặc cụm từ xuất hiện ở dòng đầu tiên của phiếu chính, tạo nên phiếu phụ trong hệ thống mục lục của thư viện Nó tóm tắt nội dung tài liệu nhằm giới thiệu cho độc giả Dưới mỗi tiêu đề, tất cả các tài liệu liên quan đến cùng một chủ đề sẽ được tập hợp, giúp độc giả dễ dàng tìm kiếm tư liệu theo chuyên đề.
Việc sử dụng ngôn ngữ tìm tin theo đề mục chủ đề giúp nhà đầu tư tiếp cận hiệu quả với kho tài liệu và thông tin liên quan Trong ngôn ngữ này, mối quan hệ giữa toàn thể và bộ phận là cực kỳ quan trọng Bằng cách áp dụng nguyên tắc chia nhỏ chủ đề và nguyên tắc diện hóa, các vấn đề được phân tích chi tiết thành nhiều bộ phận và các diện nghiên cứu đa dạng.
Mối quan hệ giữa chủ đề và phụ đề trong ngôn ngữ tìm tin theo chủ đề thể hiện sự liên kết giữa diện hóa và toàn thể bộ phận Điều này cho thấy cách thức mà các thành phần ngôn ngữ tương tác để tạo ra ý nghĩa rõ ràng và mạch lạc trong việc truyền tải thông tin.
Phương pháp tổ chức lưu trữ tài liệu theo chủ đề giúp tập trung vào một vấn đề cụ thể với các phụ đề, thể hiện nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau Cách tiếp cận này không chỉ phản ánh tài liệu một cách có hệ thống mà còn cho phép cập nhật các khái niệm mới và giới thiệu những vấn đề mới nổi.
Việc xây dựng ngôn ngữ tìm tin dựa trên ngôn ngữ tự nhiên và theo trật tự vần chữ cái giúp sắp xếp các đề mục trong mục lục chủ đề và bảng tra chữ cái trong các ấn phẩm thông tin Điều này cho phép dễ dàng bổ sung và cập nhật khái niệm mới, giúp người dùng tra cứu tài liệu liên quan một cách hiệu quả.
Công dụng: tập trung tài liệu theo chủ đề thuận tiện cho việc tìm tài liệu trong nghiên cứu
1.1.2 Bộ máy tra cứu hiện đại
Các phương tiện tìm tin điện tử giúp cán bộ TT-TV và NDT tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính xác, tiết kiệm thời gian và công sức mà vẫn đạt được hiệu quả cao.
Là hệ thống có khả năng lưu trữ, tìm lại và bảo trì thông tin được tin học hoá
* Cơ cấu bộ máy tra cứu hiện đại
Tổ chức BMTC hiện đại cho bất kỳ thư viện nào cũng phải tuân thủ những yêu cầu sau:
Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin ở một số trường đại học trên địa bàn
1.2.1 Đặc điểm người dùng tin
Theo Tiêu chuẩn Việt Nam về hoạt động thông tin và tư liệu: TCVN 5453 –
1991 “Người dùng tin là cá nhân hay tập thể, có nhu cầu và sử dụng thông tin trong hoạt động thực tiễn” [23, tr.4]
NDT, dù là cá nhân hay tập thể, thu thập và sử dụng thông tin để thực hiện chức năng và nhiệm vụ lao động theo sự phân công của xã hội.
NDT là một phần thiết yếu trong mọi hệ thống thông tin, thể hiện rõ nhu cầu thông tin của họ Nhu cầu này là nền tảng cho việc xây dựng và phát triển nguồn lực thông tin, cũng như tổ chức và khai thác chúng trong hoạt động của các cơ quan thông tin thư viện Do đó, NDT không chỉ là yếu tố cơ bản của các hệ thống thông tin mà còn là đối tượng phục vụ của công tác thông tin tư liệu; họ vừa là khách hàng của các dịch vụ thông tin - thư viện, vừa là nguồn cung cấp thông tin mới.
NDT trong các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho các cơ quan TT-TV, bao gồm lãnh đạo, quản lý, giáo sư, giảng viên và sinh viên Nhu cầu thông tin của họ phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học, giảng dạy và học tập Việc hiểu rõ nhu cầu thông tin của NDT tại thư viện các trường đại học là cần thiết để tổ chức và khai thác hiệu quả nguồn lực thông tin, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người dùng thư viện.
Thông tin và tài liệu là yếu tố thiết yếu trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu tại các trường học Mọi cán bộ, giáo viên và sinh viên đều trở thành người sử dụng thông tin thư viện tích cực, dẫn đến sự gia tăng số lượng độc giả thư viện Sự phát triển của số lượng sinh viên cũng kéo theo nhu cầu tra cứu thông tin ngày càng đa dạng và phong phú Điều này đòi hỏi các công cụ tra cứu thông tin hiện đại và chất lượng cao hơn Để hiểu rõ nhu cầu tra cứu thông tin tại một số trường đại học ở TP.HCM, có thể phân loại người dùng thư viện thành hai nhóm chính.
1 Nhóm I: Giảng viên/Cán bộ quản lý
Trong nghiên cứu này, tác giả phân chia đối tượng thành hai nhóm chính: nhóm giảng viên và cán bộ quản lý (GV/CBQL), bao gồm cán bộ quản lý, giảng viên và cán bộ nghiên cứu; và nhóm sinh viên (SV), bao gồm sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh Việc phân loại này được thực hiện do số lượng phiếu điều tra thu được hạn chế.
Sự phân chia nhóm NDT tại các trường đại học chỉ mang tính tương đối, vì nhiều cán bộ và giáo viên đều được xem là lãnh đạo, quản lý hay nhà nghiên cứu khi tham gia vào các hoạt động chuyên ngành Các học viên cũng đều là những người đã tốt nghiệp từ ít nhất một trường đại học, có kinh nghiệm làm việc tại các cơ quan hoặc trường học với vai trò lãnh đạo, giáo viên, nhà nghiên cứu hoặc sinh viên đang học tập và nghiên cứu Để khảo sát nhu cầu tin tức tại một số trường đại học, chúng tôi đã phát 150 phiếu khảo sát, trong đó 30 phiếu được gửi đến cán bộ quản lý và giáo viên các Khoa, còn 120 phiếu gửi đến học viên và sinh viên Nội dung phiếu khảo sát bao gồm các thông tin về giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn và nhu cầu về BMTC hiện đại, được đính kèm trong Phụ lục A và B.
Tổng số phiếu thu về của các trường như sau:
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh (ĐHKHTN TP.HCM)
130 phiếu trả lời đạt 86,67% (SV: 110 phiếu đạt 84,62%, GV/CBQL: 20 phiếu đạt 66,67%)
Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh (ĐHSP TP.HCM) 120 phiếu đạt 80% (SV: 105 phiếu đạt 80,77%, CBQL/GV: 15 phiếu đạt 50,0%)
Trường Đại học Bách khoa TP Hồ Chí Minh (ĐHBK TP.HCM) số phiếu thu vào 142 đạt 94,67% (SV: 120 phiếu đạt 100%, GV/CBQL: 22 phiếu đạt 73,33%)
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP Hồ Chí Minh (ĐHKHXH&NV TP.HCM) đã thu được 115 phiếu, đạt tỷ lệ 76,67% Trong đó, sinh viên đóng góp 104 phiếu, chiếm 86,67%, trong khi giáo viên và cán bộ quản lý chỉ đạt 11 phiếu, tương đương 36,67%.
Truờng Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh (ĐHKT TP.HCM) 109 phiếu trả lời đạt 72,67% (SV 100 phiếu đạt 83,33%, GV/CBQL: 9 phiếu đạt 30,0%)
Trường Đại học Công nghiệp TP Hồ Chí Minh (ĐHCN TP.HCM) 100 phiếu trả lời đạt 66,67% (SV: 87 phiếu đạt 72,5%, GV/CBQL: 13 phiếu đạt 43,33%)
Số lượng NDT của thư viện các trường đại học ở cà 2 nhóm được tóm tắt trong Bảng 1.1
Bảng 1.1: Nhóm người dùng tin
NDT ĐH Khoa học Tự nhiên ĐH Khoa học Xã hội
& Nhân văn ĐH Kinh tế ĐH Công nghiệp ĐH Sư phạm ĐH Bách khoa
Theo bảng số liệu, sinh viên (SV) là nhóm người dùng thông tin chủ yếu tại các thư viện trường đại học, chiếm tới 86,94%, trong khi đó, giáo viên và cán bộ quản lý (GV/CBQL) chỉ chiếm 13,06%.
V ề gi ớ i tính: Qua kết quả phân tích phiếu điều tra, đối với trường ĐHKHTN
TP.HCM, số lượng NDT nam giới: SV là 48 người (chiếm 43,64%), GV/CBQL là
11 (55%), nữ giới: SV là 62 (56,36%), GV/CBQL là 9 (45%); đối với trường ĐHCN TP.HCM, nam giới: SV là 65 (74,71%), GV/CBQL là 10 (76.92%), nữ giới:
Tại các trường đại học ở TP.HCM, tỷ lệ sinh viên (SV) và giảng viên/cán bộ quản lý (GV/CBQL) theo giới tính có sự phân bố khác nhau Cụ thể, tại trường ĐHSP TP.HCM, nam giới chiếm 28,57% sinh viên và 33,33% GV/CBQL, trong khi nữ giới chiếm 71,43% sinh viên và 66,67% GV/CBQL Tại trường ĐHBK TP.HCM, nam giới có tỷ lệ 80,83% sinh viên và 68,18% GV/CBQL, còn nữ giới chỉ chiếm 19,17% sinh viên và 31,81% GV/CBQL Tại trường ĐHKHXH&NV TP.HCM, nam giới chiếm 34,62% sinh viên và 36,36% GV/CBQL, trong khi nữ giới chiếm 65,38% sinh viên và 63,64% GV/CBQL.
T ỷ l ệ %) ĐHKHTN ĐHSP ĐHKHXH&NV ĐHKT ĐHBK ĐHCN
BIỂU ĐỒ GIỚI TÍNH CỦA SINH VIÊN
Hình 1.1: Biểu đồ giới tính của sinh viên
T ỷ l ệ % ĐHKHTN ĐHSP ĐHKHXH&NV ĐHKT ĐHBK ĐHCN
BIỂU ĐỒ GIỚI TÍNH CỦA GV/CBQL
Hình 1.2: Biểu đồ giới tính của GV/CBQL
NGÔN NGỮ SỬ DỤNG CỦA SINH VIÊN
120 ĐHKHTN ĐHSP ĐHKHXH&NV ĐHKT ĐHBK ĐHCN
Việt Anh Pháp Đức Nga Khác
Hình 1.3: Ngôn ngữ sử dụng của sinh viên
NGÔN NG Ữ SỬ DỤNG CỦA GV/CBQL
100 ĐHKHTN ĐHSP ĐHKHXH&NV ĐHKT ĐHBK ĐHCN
Việt Anh Pháp Đức Nga Khác
Tại trường ĐHKT TP.HCM, tỷ lệ ngôn ngữ sử dụng của giảng viên và cán bộ quản lý (GV/CBQL) cho thấy sự khác biệt giữa nam và nữ Cụ thể, trong số sinh viên, nam giới chiếm 25% (25 sinh viên), trong khi giảng viên và cán bộ quản lý nam giới chiếm 44,44% (4 người) Ngược lại, nữ giới có tỷ lệ cao hơn với 75% (75 sinh viên) và 55,56% (5 người GV/CBQL) Thông tin chi tiết được cung cấp trong Phụ lục C, Bảng C.1.
Kết quả phân tích từ Hình 1.1 và Hình 1.2 cho thấy, nữ giới chiếm đa số trong số lượng người dùng thư viện (NDT), ngoại trừ hai trường ĐHCN TP.HCM và ĐHBK TP.HCM, nơi nam giới đông hơn Vấn đề giới tính này phản ánh sở thích nghề nghiệp của NDT và ảnh hưởng đến việc phục vụ nhu cầu thông tin của họ.
Trình độ khai thác và sử dụng thông tin của người dùng trong thư viện các trường đại học rất đa dạng, từ sinh viên mới bắt đầu làm quen với việc sử dụng bộ máy tra cứu đến giảng viên có kinh nghiệm sử dụng thành thạo các công cụ này.
Ngôn ngữ mà NDT sử dụng phản ánh trình độ chuyên môn và nhu cầu đào tạo ngành nghề Kết quả điều tra cho thấy, NDT tại thư viện các trường đại học chủ yếu sử dụng tiếng Việt và tiếng Anh, trong khi các ngôn ngữ khác không đáng kể Tỷ lệ sử dụng ngoại ngữ cao nhất thuộc về nhóm NDT là giáo viên và cán bộ quản lý, trong khi sinh viên có tỷ lệ sử dụng ngoại ngữ khá thấp Tiếng Anh được sử dụng nhiều nhất, điều này dễ hiểu vì nó là ngôn ngữ quốc tế phổ biến hiện nay Số liệu chi tiết được thể hiện trong Hình 1.3 và Hình 1.4 (xem Phụ lục C, Bảng C.2).
1.2.2 Đặc điểm nhu cầu tin của NDT tại thư viện các trường đại học trên địa bàn TP.HCM
Nhu cầu tin là “Nhu cầu khách quan của NDT về những thông tin cần thiết cho công việc cụ thể của mình” [20, tr.4]
Nhu cầu thông tin là rất quan trọng đối với con người, vì nó giúp giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống hàng ngày Việc tiếp cận thông tin cần thiết là yếu tố không thể thiếu để đưa ra quyết định đúng đắn và hiệu quả.
Nhu cầu thông tin của độc giả rất đa dạng và phụ thuộc vào từng đối tượng cụ thể, bao gồm các yếu tố như lĩnh vực hoạt động, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn và giới tính Hoạt động thông tin cần phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của người dùng thông tin (NDT).
Nhu cầu đối với bộ máy tra cứu hiện đại ở thư viện các trường đại học
Thông tin và tài liệu đóng vai trò quan trọng trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu tại các trường học Mọi cán bộ, giáo viên và sinh viên đều trở thành người sử dụng thông tin thư viện tích cực, dẫn đến sự gia tăng số lượng bạn đọc Sự phát triển của số lượng sinh viên cũng làm tăng nhu cầu tra cứu thông tin, yêu cầu các trường đại học cung cấp công cụ tra cứu hiện đại và chất lượng cao hơn để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của người dùng.
Trước khi khám phá nhu cầu của người sử dụng (NSD) thư viện tại một số trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh đối với bộ máy tìm tin hiện đại, cần tìm hiểu về đặc điểm và vai trò của từng bộ phận trong hệ thống này.
1.3.1 Đặc điểm, vai trò của các bộ phận của bộ máy tìm tin hiện đại
Mục lục trực tuyến (OPAC) là hệ thống thư viện hiện đại, kết hợp tiêu chuẩn biên mục và công nghệ thông tin - truyền thông, mang lại tiện ích cho người dùng trong việc truy cập và tìm kiếm tài liệu.
OPAC (Online Public Access Catalog) là hệ thống cơ sở dữ liệu chứa các biểu ghi thư mục mô tả tài liệu như sách, báo, tạp chí, tài liệu nghe nhìn và bản đồ của một thư viện hoặc hệ thống thư viện Qua OPAC, người dùng có thể nhanh chóng truy cập và tìm kiếm tài liệu cần thiết thông qua các thiết bị đầu cuối hoặc trạm tra cứu máy tính tại thư viện.
OPAC là mục lục được máy tính hóa thay thế cho thế hệ thứ ba dựa trên web được gọi là WebPAC
Module OPAC cung cấp các khả năng tìm kiếm mạnh với giao diện được thể hiện dưới dạng một mẫu định sẵn
Người dùng có thể tìm kiếm theo nhiều tiêu chí khác nhau với sự hỗ trợ của các toán tử tìm kiếm Hệ thống cung cấp hai chế độ tìm kiếm: cơ bản và nâng cao.
Hỗ trợ tra cứu liên thư viện thông qua giao thức Z39.50
Quản lý thông tin người dùng và cung cấp diễn đàn để người dùng có thể trao đổi thông tin cho nhau
Cung cấp các dịch vụ trực tuyến: trợ giúp, xem thông tin người dùng, thông báo sách mới, đăng ký mượn và xin gia hạn qua mạng
• Tra cứu tìm tin theo nhiều phương thức khác nhau
• Truy nhập thông tin theo Từ điển từ chuẩn (Thesaurus)
• Tra cứu liên thư viện theo chuẩn Z39.50
• Đăng ký mượn tài liệu qua mạng
• Xem thông tin người dùng, xin gia hạn
• Liên kết với các trang Web để tìm tin trên Internet
• Gửi thư góp ý cho Thư viện
MLTT cung cấp quyền truy cập trực tuyến vào thư mục và thông tin của các nguồn lực thư viện, cho phép người dùng dễ dàng tìm kiếm và sử dụng tài nguyên từ nhiều địa điểm khác nhau.
CSDL là một tập hợp có cấu trúc các dữ liệu liên quan đến đối tượng, được lưu trữ trên các thiết bị điện tử và quản lý theo cách thống nhất Điều này giúp việc tìm kiếm thông tin trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn.
Cơ sở dữ liệu là tập hợp các biểu ghi hoặc tệp có mối quan hệ logic, được lưu trữ trong bộ nhớ máy tính.
CSDL là tập hợp các biểu ghi được tổ chức theo cách thống nhất, cho phép máy tính đọc và tìm kiếm thông tin bằng giọng nói Nhiều hệ thống tìm kiếm trực tuyến trên toàn cầu sử dụng thuật ngữ "file" để chỉ một CSDL trong hệ thống của họ.
CSDL được thiết kế với tiêu chí thân thiện, dễ sử dụng và khai thác hiệu quả, cho phép người dùng tìm kiếm tài liệu chính xác Hệ thống cũng hỗ trợ việc cập nhật thông tin nhanh chóng và tạo lập CSDL mới khi có nhu cầu Ngoài ra, CSDL quản lý đa dạng loại hình tài liệu và cho phép chia sẻ thông tin qua việc khai thác trực tuyến.
CSDL được xây dựng để thu thập, lưu trữ, khai thác và phổ biến thông tin, với sự quản lý của phần mềm hệ quản trị Phần mềm này bao gồm các chương trình hỗ trợ quản lý và khai thác thông tin trong CSDL Một trong những ưu điểm nổi bật của CSDL là thông tin chỉ cần được xử lý một lần, nhưng có thể sử dụng nhiều lần cho các mục đích khác nhau.
Biểu ghi là tập hợp dữ liệu có cấu trúc, bao gồm các thành phần gọi là trường (field) Trong cơ sở dữ liệu thư mục, biểu ghi chứa dữ liệu được tổ chức, trong đó mỗi thuộc tính mô tả một đối tượng quản lý của cơ sở dữ liệu được xác định qua một trường cụ thể.
Trường là phần cơ bản của biểu ghi, thường được xác định bằng nhãn trường Nhãn trường là một dãy ký tự liên tiếp, dùng để mô tả tiêu thức hoặc thuộc tính của đối tượng.
CSDL là một phần thiết yếu của hệ thống tìm tin tự động hóa, cho phép lưu trữ nhiều dịch vụ thông tin trong máy tính Nhiều CSDL kết hợp tạo thành ngân hàng dữ liệu, thường được gọi là các nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến hoặc dịch vụ tìm tin.
CSDL được quản lý và khai thác thông qua phần mềm máy tính, hay còn gọi là hệ quản trị CSDL Hệ thống này giúp người sử dụng thực hiện các chức năng như mô tả, cập nhật, bảo trì và tìm kiếm dữ liệu trong thư viện.
Giúp cho việc tra tìm tài liệu được dễ dàng, nhanh chóng
• Tra cứu thông tin, dịch vụ hỏi đáp
• Tìm tin, phổ biến thông tin (phổ biến thông tin hiện tại, phổ biến thông tin chọn lọc,…)
• Biên soạn thư mục chuyên đề, chuyên ngành kể cả việc tạo ra các CSDL khác
Lựa chọn, bổ sung các nguồn tin khác
* Xét theo các tổ chức để phản ánh hệ thống thông tin về đối tượng thì CSDL tại các trường đại học có 2 loại chính: