1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu tỉnh an giang tiếp cận văn hóa học

197 28 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Một Số Làng Nghề Thủ Công Truyền Thống Tiêu Biểu Tỉnh An Giang Tiếp Cận Văn Hóa Học
Tác giả Mã Lan Xuân
Người hướng dẫn TS. Võ Công Nguyện
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Văn hóa học
Thể loại Luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2008
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 197
Dung lượng 2,68 MB

Cấu trúc

  • 1- Lý do chọn đề tài (5)
  • 2- Mục đích nghiên cứu (7)
  • 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề (8)
  • 4- Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (10)
  • 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn (10)
  • 6. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu (11)
  • 7. Bố cục của luận văn (13)
  • CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG (15)
    • 1.1 Cơ sở lý thuyết (15)
      • 1.1.1 Khái niệm nghề thủ công và làng nghề thủ công (15)
      • 1.1.2. Các tiêu chí cơ bản và các đặc trưng của văn hoá được vận dụng để nghiên cứu làng nghề thủ công (17)
      • 1.1.3. Lý thuyết địa – văn hoá và lý thuyết vùng văn hoá (19)
      • 1.1.4. Đặc trưng văn hóa của làng nghề (19)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn (21)
      • 1.2.1. Điều kiện địa lý tự nhiên ở tỉnh An Giang (21)
      • 1.2.2. Các nghề và làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang (27)
  • CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA TỈNH AN GIANG (35)
    • 2.1 Làng nghề mộc - chạm khắc gỗ của người Việt ở Chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới (gọi tắt làng mộc Chợ Thủ) (35)
      • 2.1.1 Chủ thể văn hóa (36)
      • 2.1.2 Thời gian văn hóa (40)
      • 2.1.3 Không gian văn hóa (42)
    • 2.2 Làng nghề dệt của người Chăm ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang (gọi tắt làng dệt Châu Phong) (64)
    • 2.3 Làng nghề gốm của người Khmer ấp An Thuận, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (gọi tắt làng gốm Châu Lăng) (97)
      • 2.3.1 Chủ thể văn hóa (98)
      • 2.3.2 Thời gian văn hóa (101)
      • 2.3.3 Không gian văn hóa (104)
  • CHƯƠNG 3: TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỀN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TỈNH AN GIANG (119)
    • 3.1. Tiềm năng phát triển làng nghề (119)
      • 3.1.1. Yếu tố truyền thống của các làng nghề (119)
      • 3.1.2. Nguồn nguyên liệu (120)
      • 3.1.3. Lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, thời gian nông nhàn lớn (122)
      • 3.1.4. Cơ sở hạ tầng (122)
      • 3.1.5. Tiềm năng thị trường (122)
      • 3.1.6. Phát triển du lịch làng nghề (123)
    • 3.2. Triển vọng phát triển làng nghề (124)
      • 3.2.1. Định hướng phát triển (125)
      • 3.2.2. Xây dựng các dự án phát triển làng nghề (0)
    • 3.3. Các giải pháp phát triển làng nghề thủ công truyền thống tỉnh An Giang (127)
      • 3.3.1. Xây dựng vùng nguyên vật liệu cho làng nghề (127)
      • 3.3.3. Bảo tồn làng nghề truyền thống kết hợp với phát triển du lịch văn hoá dân tộc (128)
      • 3.3.2. Phát triển thị trường tiêu thụ (130)
      • 3.3.4. Các giải pháp về đào tạo nghề và tập huấn nâng cao tay nghề (132)
      • 3.3.5. Giải pháp về phát triển cơ sở hạ tầng cho làng nghề (133)
      • 3.3.6. Các giải pháp về cơ chế chính sách (134)
      • 3.3.7. Thành lập quỹ khuyến công và tăng cường các hoạt động khuyến công.136 KẾT LUẬN (136)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu các giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội trong phát triển của một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu tại tỉnh An Giang Nhiệm vụ chính của luận văn là phân tích và làm rõ những giá trị này nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các làng nghề.

Điều kiện tư nhiên và môi trường sinh thái đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống tại tỉnh An Giang Việc nghiên cứu những yếu tố này giúp hiểu rõ hơn về cách mà chúng ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và duy trì các nghề truyền thống, từ đó bảo tồn giá trị văn hóa và phát triển kinh tế địa phương.

Nghiên cứu văn hóa làng nghề tại tỉnh An Giang bao gồm việc tìm hiểu về chủ thể văn hóa, thời gian hình thành và phát triển, cũng như không gian văn hóa đặc trưng của các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu Những yếu tố này không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa địa phương mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Tìm hiểu đặc trưng văn hoá làng nghề thông qua các sản phẩm thủ công độc đáo và kỹ thuật sản xuất đặc thù Điều này bao gồm tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và kỹ xảo trong hoạt động nghề nghiệp, cũng như lối sống, phong tục, tập quán, tục lệ, tín ngưỡng và kiêng kỵ của gia đình và cộng đồng tại một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh.

Tìm hiểu giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa những giá trị này với cả nước, vùng Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long Các làng nghề không chỉ góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương, tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống cho người dân Việc so sánh các giá trị này với các khu vực khác sẽ làm nổi bật sự đa dạng và đặc trưng của làng nghề An Giang trong bức tranh chung của nền văn hóa và kinh tế Việt Nam.

Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu, cần đề xuất một số giải pháp cơ bản Phát triển làng nghề thủ công cần kết hợp với việc khai thác hiệu quả mô hình kinh tế văn hóa du lịch, từ đó tạo điều kiện và tiền đề cho sự phát triển bền vững của các làng nghề truyền thống trong tỉnh.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Làng nghề và nghề thủ công truyền thống là chủ đề nghiên cứu quan trọng trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn như sử học, dân tộc học, văn hóa học, kinh tế học và xã hội học.

Nghề nông và nghề thủ công ở Nam Bộ đã được ghi chép trong nhiều tài liệu cổ, nổi bật là tác phẩm “Chân Lạp phong thổ ký” của Châu Đạt Quan.

Các tài liệu lịch sử sớm như “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn, “Gia Định thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức, và “Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam Việt)” của Quốc sử quán triều Nguyễn đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống ở Nam Bộ, đặc biệt là tại tỉnh An Giang.

Gần đây, nhiều công trình khoa học, luận văn Thạc sĩ và luận án Tiến sĩ đã được thực hiện, tập trung vào nghiên cứu về làng nghề và nghề thủ công trên toàn quốc, ở nhiều vùng và địa phương khác nhau.

Một số chuyên khảo “Làng nghề thủ công truyền thống Việt

Bùi Văn Vượng trong tác phẩm “Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam” đã giới thiệu tổng quan về các làng nghề và nghề thủ công truyền thống của Việt Nam, đặc biệt là những làng nghề và nghề thủ công đặc trưng ở khu vực Nam Bộ.

Tác phẩm "Kinh tế thủ công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn" của Bùi Thị Tân và Vũ Huy Phúc nghiên cứu sâu về chính sách của triều Nguyễn đối với ngành thủ công nghiệp Tác giả phân tích các công xưởng, nghề thủ công dân gian, phường nghề và làng nghề tại Việt Nam, đặc biệt là ở Nam Bộ và tỉnh An Giang trong thời kỳ triều Nguyễn và giai đoạn lịch sử cận đại.

Tác phẩm “Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ” của

Phan Thị Yến Tuyết đã khắc họa một bức tranh sinh động về các xóm nghề và nghề thủ công truyền thống tại Nam Bộ, đặc biệt là những bài viết về nghề gốm, dệt và nấu đường thốt nốt ở tỉnh An Giang.

Công trình “Làng nghề thủ công truyền thống tại thành phố Hồ Chí

Tôn Nữ Quỳnh Trân và nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu sâu về 56 xóm nghề và làng nghề truyền thống tại Thành phố Hồ Chí Minh, khám phá các khía cạnh lịch sử, kinh tế, xã hội và văn hóa trong bối cảnh Đông Nam Á Đặc biệt, nghiên cứu về "Nghề dệt Chăm truyền thống" tại tỉnh An Giang đã thu thập nhiều tài liệu quý giá liên quan đến kỹ thuật sản xuất, hoa văn sản phẩm cùng các giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của làng nghề.

Tỉnh An Giang hiện có 82 làng nghề, nổi bật với các làng nghề thủ công truyền thống như làng mộc và chạm khắc gỗ ở Chợ Thủ (huyện Chợ Mới), làng dệt của người Chăm tại Phũm Soài (huyện Tân Châu), và làng gốm của người Khmer ở ấp An Thuận (huyện Tri Tôn) Những nghề truyền thống này đã được giới thiệu trong phần III, chương II, “Địa chí An Giang” của Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang.

Nghiên cứu các làng nghề thủ công truyền thống tại tỉnh An Giang từ góc độ văn hóa học vẫn còn mới mẻ, với nguồn tài liệu và số liệu liên quan đến các làng nghề này còn hạn chế và chưa đầy đủ.

Ngoài các tài liệu thư tịch đã đề cập, tư liệu thu thập từ khảo sát thực địa tại các làng nghề thủ công truyền thống ở tỉnh An Giang là nguồn thông tin quan trọng giúp hoàn thiện luận văn này.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Luận văn này khám phá và xây dựng bức tranh tổng thể về các nghề thủ công truyền thống tiêu biểu của người Việt, người Khmer và người Chăm tại tỉnh An Giang, từ góc nhìn văn hóa học và tiếp cận liên ngành như dân tộc học, nhân học, sử học, kinh tế học và xã hội học.

Luận văn này phân tích và lý giải về chủ thể văn hóa, thời gian và không gian văn hóa của làng nghề, đồng thời khám phá các giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của làng nghề, cùng với bản sắc văn hóa đặc trưng của tỉnh An Giang.

Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu tại tỉnh An Giang, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách phát triển kinh tế - xã hội Nghiên cứu này cũng đề xuất các giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của các làng nghề, đồng thời hỗ trợ quy hoạch phát triển bền vững.

Luận văn này có thể được chuyển giao cho các cơ quan như Sở Khoa học - Công nghệ, Sở Thương mại, Sở Du lịch, Sở Công nghiệp, Sở Văn hóa - Thông tin, và Ban Dân tộc tỉnh An Giang Mục đích là để ứng dụng vào các hoạt động khuyến công, các chương trình và dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, cũng như khai thác tiềm năng du lịch văn hóa và du lịch sinh thái tại địa phương.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu

Luận văn này áp dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Áp dụng các phương pháp thu thập, xử lý thông tin và phân tích dữ liệu liên quan đến làng nghề và nghề thủ công truyền thống, bài viết tập trung vào việc hệ thống hóa các nguồn tài liệu và số liệu khảo sát cụ thể Nghiên cứu này hướng đến một số làng nghề thủ công tiêu biểu tại tỉnh An Giang, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về đặc điểm và giá trị văn hóa của các nghề truyền thống trong khu vực.

Áp dụng các phương pháp lịch sử, so sánh, phân loại hình hoá và biểu tượng, bài viết nghiên cứu nguồn gốc và quá trình phát triển của làng nghề thủ công truyền thống tại tỉnh An Giang Nghiên cứu này còn phân loại các sản phẩm, hoa văn, công cụ và kỹ thuật sản xuất đặc trưng của một số làng nghề tiêu biểu trong khu vực.

Áp dụng các phương pháp như quan sát tham dự, phỏng vấn chiến lược, phỏng vấn sâu và phỏng vấn hồi cố, bài viết nhằm tìm hiểu vai trò của cộng đồng, dòng họ và gia đình trong việc phát triển làng nghề thủ công truyền thống Nghiên cứu cũng khám phá tri thức, kinh nghiệm, bí quyết và kỹ năng lao động, cũng như lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng và kiêng kỵ trong hoạt động sản xuất của một số làng nghề thủ công tiêu biểu tại tỉnh An Giang.

Áp dụng phương pháp so sánh vùng để nghiên cứu các mối quan hệ văn hóa, kinh tế và xã hội của các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở An Giang, bài viết sẽ làm nổi bật sự giao lưu và trao đổi trong bối cảnh Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ và toàn quốc.

Phương pháp phân tích chính sách được áp dụng để nghiên cứu tác động của chính sách đến việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của các làng nghề Nghiên cứu tập trung vào một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu tại tỉnh An Giang.

Nguồn tư liệu trong luận văn này chủ yếu được thu thập từ các tài liệu, số liệu thứ cấp của tỉnh An Giang, huyện Chợ Mới, xã Long Điền A, huyện Tân Châu, xã Châu Phong, huyện Tri Tôn và xã Châu Lăng Đặc biệt, dữ liệu chính để hoàn thành luận văn được thu thập qua các khảo sát thực địa, áp dụng phương pháp quan sát tham dự, phỏng vấn chiến lược, phỏng vấn sâu và phỏng vấn hồi cố với lãnh đạo địa phương, nghệ nhân và thợ lành nghề tại các làng nghề mộc và chạm khắc gỗ Chợ Thủ, làng nghề dệt ấp Phũm Soài và làng nghề gốm ấp An Thuận.

Bố cục của luận văn

Luận văn được chia làm 3 chương:

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận và khái niệm về làng nghề cùng nghề thủ công truyền thống, đồng thời khám phá các lý thuyết nghiên cứu từ góc nhìn văn hóa học Chương này cũng tập trung vào cơ sở thực tiễn, phân tích điều kiện tự nhiên và môi trường sinh thái ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của làng nghề thủ công truyền thống Cuối cùng, chương giới thiệu khái quát về làng nghề, đặc trưng văn hóa và nghề thủ công truyền thống tại tỉnh An Giang.

Chương 2: Nghiên cứu chuyên sâu về các làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang, bao gồm làng nghề mộc và chạm khắc gỗ của người Việt, làng nghề dệt của người Chăm, và làng nghề gốm của người dân địa phương.

Bài viết tập trung vào việc phân tích các yếu tố văn hóa, bao gồm chủ thể văn hóa, thời gian và không gian văn hóa, cùng với các giá trị văn hóa, kinh tế và xã hội của làng nghề Khmer.

Chương 3 tập trung vào việc khám phá tiềm năng và triển vọng phát triển của một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu tại tỉnh An Giang Bài viết cũng đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, kinh tế, xã hội của những làng nghề này, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của quy hoạch phát triển bền vững cho các làng nghề trong khu vực.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

Cơ sở lý thuyết

1.1.1 Khái niệm nghề thủ công và làng nghề thủ công

Nghề thủ công, theo từ điển Bách khoa Encarta, được định nghĩa là nghề sản xuất các vật dụng trang trí hoặc tiêu dùng chủ yếu bằng tay, đòi hỏi kỹ năng tay chân và nghệ thuật Điều này cho thấy nghề thủ công chủ yếu sử dụng đôi tay và các công cụ đơn giản, chưa được thay thế bởi máy móc trong nhiều khâu sản xuất Sự tinh xảo của sản phẩm thủ công phụ thuộc vào sự khéo léo và kỹ năng của người thợ lành nghề.

Nghề thủ công truyền thống được định nghĩa là các hoạt động sản xuất chủ yếu bằng tay với công cụ đơn giản, đã tồn tại và phát triển lâu dài, có sự tham gia của nhiều thế hệ nghệ nhân và thợ lành nghề với kỹ thuật ổn định, cùng với nguyên liệu chủ yếu được cung cấp tại chỗ Để được công nhận là nghề thủ công truyền thống, một nghề cần đảm bảo các yếu tố như tính bền vững, kỹ thuật sản xuất ổn định và nguồn nguyên liệu địa phương.

- Được hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời

- Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề

- Kỹ thuật, công nghệ sản xuất thủ công khá ổn định

- Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, trong nước hoàn toàn hoặc chủ yếu

Sản phẩm thủ công độc đáo và tiêu biểu không chỉ có giá trị và chất lượng cao mà còn có tiềm năng trở thành di sản văn hóa phi vật thể, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.

Nghề nghiệp này không chỉ nuôi sống một bộ phận cư dân đông đảo mà còn đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước, thể hiện vai trò quan trọng của nó trong cộng đồng.

Nghề thủ công truyền thống là một nghề có bề dày lịch sử, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong gia đình và cộng đồng Những thợ thủ công lành nghề và nghệ nhân đông đảo tập trung tại các khu vực dân cư, tạo thành các xóm nghề, làng nghề, phố nghề hoặc vùng nghề đặc trưng.

Làng nghề thủ công là một cộng đồng cư dân cùng chung nghề, gắn bó với nhau trên một địa bàn cụ thể, thường mang tên theo địa danh hoặc hiệu danh của nghề truyền thống đã tồn tại, hoạt động và phát triển qua thời gian.

Làng nghề thủ công truyền thống được xác định bằng những yếu tố sau đây:

- Nghề này có thao tác chủ yếu hay một phần bằng tay

Chủ thể văn hóa của làng nghề bao gồm cộng đồng cư dân, những người thợ, hộ gia đình và các cơ sở sản xuất, tất cả cùng tham gia vào một nghề chung.

Không gian văn hóa của làng nghề không có ranh giới rõ ràng, có thể trùng hoặc không trùng với ranh giới hành chính, và có thể trải dài qua nhiều đơn vị hành chính khác nhau Điều này cho thấy rằng không gian này có thể chỉ nằm trên một phần của một đơn vị hành chính Hơn nữa, không gian văn hóa của làng nghề chịu sự chi phối mạnh mẽ từ bối cảnh địa lý và khí hậu, ảnh hưởng đến sự phát triển và đặc trưng của các làng nghề.

Thời gian văn hóa của làng nghề, xóm nghề, phố nghề, hay vùng nghề được truyền nối qua nhiều thế hệ, tạo nên sự kế thừa giá trị văn hóa độc đáo Sự truyền nối này không chỉ diễn ra bên ngoài mà còn được quy tụ tại địa phương, trải qua vài ba thế hệ Đồng thời, thời gian văn hóa của làng nghề không có ranh giới rõ ràng và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ bối cảnh lịch sử và xã hội của nền văn hóa.

1.1.2 Các tiêu chí cơ bản và các đặc trưng của văn hoá được vận dụng để nghiên cứu làng nghề thủ công

1.1.2.1 Các tiêu chí cơ bản

Luận văn này nghiên cứu một số làng nghề thủ công truyền thống tiêu biểu ở tỉnh An Giang, dựa trên các tiêu chí xác định làng nghề theo Quyết định số 3195/2005/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang Quyết định này ban hành các tiêu chí xét công nhận làng nghề truyền thống tại địa phương.

- Là làng nghề tiểu thủ công nghiệp

- Được hình thành từ nhiều năm và được lưu truyền ít nhất từ 3 thế hệ hoặc từ 75 năm trở lên

- Tạo ra sản phẩm có tính riêng biệt

- Nổi tiếng ở địa phương được nhiều người biết đến

- Có nghệ nhân được cơ quan có thẩm quyền phong tặng

1.1.2.2 Các đặc trưng của văn hoá

Theo GS.TS Trần Ngọc Thêm trong tác phẩm “Tìm về bản sắc văn hoá”, có bốn đặc trưng văn hoá được áp dụng để nghiên cứu các làng nghề thủ công, đặc biệt là một số nghề thủ công truyền thống tại tỉnh An Giang.

Văn hóa có đặc trưng hệ thống, với mọi hiện tượng và sự kiện trong nền văn hóa liên quan chặt chẽ Tính hệ thống này giúp văn hóa tổ chức xã hội hiệu quả, đồng thời tăng cường sự ổn định cho xã hội Văn hóa cung cấp các phương tiện cần thiết để xã hội thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội xung quanh.

Văn hóa được đặc trưng bởi tính giá trị, phản ánh cái đẹp và các giá trị đa dạng Các giá trị văn hóa có thể phân loại thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần Trong đó, giá trị tinh thần bao gồm giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ Giá trị đạo đức và thẩm mỹ thuộc về lĩnh vực tinh thần, đồng thời cũng bao hàm những tư tưởng có giá trị sử dụng, thể hiện cách thức sáng tạo giá trị mà nhân loại đã tích lũy qua nhiều thế hệ.

Tính nhân sinh là đặc trưng quan trọng của văn hóa, vì văn hóa không chỉ là một hiện tượng xã hội mà còn là sản phẩm từ những hoạt động thực tiễn của con người.

Tính lịch sử là đặc trưng quan trọng của văn hóa, thể hiện qua quá trình hình thành và tích lũy qua nhiều thế hệ Nó được duy trì nhờ vào truyền thống văn hóa, một cơ chế giúp truyền đạt và tích lũy kinh nghiệm trong cộng đồng Truyền thống văn hóa bao gồm những giá trị ổn định, phản ánh kinh nghiệm tập thể, được tái tạo qua không gian và thời gian, và được cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp và dư luận.

1.1.3 Lý thuyết địa – văn hoá và lý thuyết vùng văn hoá

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Điều kiện địa lý tự nhiên ở tỉnh An Giang

Tỉnh An Giang, nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, là một trong 13 tỉnh, thành phố của khu vực này Tỉnh giáp với tỉnh Đồng Tháp ở phía đông và đông bắc, có đường biên giới dài 96,6 km với Campuchia ở phía tây bắc, và tiếp giáp với tỉnh Kiên Giang ở phía nam và tây nam, cũng như thành phố Cần Thơ ở phía đông nam.

Tỉnh An Giang có diện tích tự nhiên là 3.406 km², bao gồm 11 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã và thành phố Các đơn vị này gồm thành phố Long Xuyên, thị xã Châu Đốc, cùng với các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu và An Phú Toàn tỉnh có tổng cộng 154 đơn vị hành chính cấp xã, phường và thị trấn.

Tỉnh An Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27°C, trong khi lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 1.130mm, có năm lên tới 1.700mm.

Tỉnh An Giang có khí hậu thuận lợi cho nông nghiệp với lượng mưa trung bình đạt 800mm và độ ẩm từ 80-85%, có sự biến đổi theo mùa Điều này tạo điều kiện tốt cho hoạt động sản xuất của các nghề thủ công.

Tỉnh An Giang sở hữu nguồn nước mặt và nước ngầm phong phú, với hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu chảy song song từ tây bắc xuống đông nam, dài gần 100km và có lưu lượng trung bình hàng năm đạt 13.800m³/s Ngoài ra, tỉnh còn có 280 tuyến kênh rạch và sông lớn nhỏ, với mật độ 0,72km/km², tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển, vận chuyển và trao đổi hàng hóa qua đường thủy.

Chế độ thủy văn tại tỉnh An Giang chịu ảnh hưởng lớn từ sông Mêkông, dẫn đến khoảng 70% diện tích tự nhiên bị ngập lũ hàng năm trong thời gian 3-4 tháng Mặc dù tình trạng ngập lũ mang lại lợi ích như cung cấp phù sa màu mỡ cho đất và cải thiện vệ sinh ruộng đồng, nhưng cũng gây ra những tác động tiêu cực đến đời sống và sản xuất của cư dân địa phương Tỉnh An Giang sở hữu 156.507 ha đất phù sa, chiếm 44,27% tổng diện tích, chủ yếu tập trung ở các huyện như Châu Thành, Châu Phú, Phú Tân, An Phú, Tân Châu, Thoại Sơn, Chợ Mới và Châu Đốc, với loại đất này rất phù hợp cho việc trồng lúa và hoa màu.

Tỉnh An Giang sở hữu nhóm đất cồn bãi chủ yếu ven sông Tiền, sông Hậu và một phần nhỏ trên sông Vàm Nao, với các doi sông và cồn sông lý tưởng cho việc trồng hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày, bao gồm cả trồng dâu Trước đây, cư dân địa phương đã khai thác những cồn bãi này để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, đặc biệt tại các huyện Tân Châu, Phú Tân và Chợ Mới, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.

Tài nguyên khoáng sản của tỉnh An Giang rất phong phú, gồm 2 nhóm vật liệu chính, đó là:

- Nhóm vật liệu xây dựng gồm có đá xây dựng với trữ lượng dự báo là

11 triệu m 3 , cát sông với trữ lượng trong phạm vi cấp phép khai thác gần 20 triệu m 3 , đất sét làm gạch ngói có trữ lượng ước tính lên đến 40 triệu m 3 [62:158-161]

Nhóm vật liệu trang trí bao gồm các loại đá như granite, aplite, than bùn, vỏ sò, đá quý, ngọc, quặng kim loại và đất sét Đặc biệt, trữ lượng đất sét cao lanh tại An Giang được ước tính lên đến 381.607 tấn, chủ yếu tập trung ở vùng Bảy Núi Đất sét cao lanh chứa khoáng sét kaolinite, hình thành từ quá trình phong hóa của các đá mang khoáng tại các ngọn núi như Cấm, Dài, Cô Tô, Nam Qui và Tà Pạ, là nguồn nguyên liệu lý tưởng cho ngành gốm.

- Hệ thống sông rạch tỉnh An Giang đã góp phần tạo thành 72% diện tích đất phù sa hoặc có nguồn gốc phù sa do bồi đắp hàng năm

Tỉnh An Giang sở hữu hơn 583 ha rừng tự nhiên thuộc loại rừng ẩm nhiệt đới, chủ yếu là cây lá rộng, với 154 loài cây quý hiếm thuộc 54 họ Rừng tập trung chủ yếu ở vùng Bảy Núi, không chỉ tạo nên phong cảnh đẹp mà còn chứa đựng nhiều di tích văn hóa - lịch sử Bên cạnh đó, An Giang còn có 14.034 ha rừng trồng phục vụ cho khai thác và phát triển sản xuất tại địa phương.

An Giang không chỉ nổi bật với hai con sông lớn là sông Tiền và sông Hậu, mà còn sở hữu một hệ thống rạch tự nhiên phong phú, phân bố rộng rãi trên toàn địa bàn.

Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2006 cho biết, khu vực này có nhiều rạch với chiều dài từ vài kilômét đến 30 km, độ rộng từ vài mét đến 100 m và uốn khúc quanh co Các rạch giữa sông Tiền và sông Hậu thường lấy nước từ sông Tiền để chuyển sang sông Hậu, trong khi các rạch nằm ở hữu ngạn sông Hậu lại lấy nước từ sông Hậu để đưa vào nội đồng vùng trũng Tứ giác Long Xuyên.

An Giang có nhiều rạch lớn như Mương Khai, Cái Đầm, Cái Tắc (huyện Phú Tân), Ông Chưởng và Cái Tàu Thượng (huyện Chợ Mới), Long Xuyên (thành phố Long Xuyên), Chắc Cà Đao, Mặc Cần Dưng (huyện Châu Thành) và rạch Cần Thảo (huyện Châu Phú) Trong số đó, rạch Ông Chưởng và rạch Long Xuyên nổi bật với chiều dài, độ rộng và độ sâu vượt trội so với các rạch khác.

Hệ động vật tự nhiên ở An Giang rất đa dạng, đặc biệt là tại vùng rừng Bảy Núi, nơi có nhiều loại chim và thú rừng như hổ, báo, nai, hưu, vượn và khỉ Khu vực này cũng là nơi sinh sống của nhiều loài bò sát, bao gồm các loại rắn như rắn nước, rắn bông súng, rắn ri voi, và rắn hổ Ngoài ra, trăn cũng là một loài bò sát quan trọng, với da trăn được xuất khẩu và các sản phẩm từ trăn như mật, xương và mở được sử dụng trong y dược.

Chuột là loài động vật quen thuộc với nhà nông, xuất hiện khắp nơi từ đồng ruộng đến trong nhà Chúng gây hại cho các loại cây trồng như lúa, hoa màu và cây ăn trái, đồng thời có thể xâm nhập vào kho chứa lúa gạo Với khả năng sinh sản nhanh chóng (một con cái có thể đẻ từ 4-6 lứa mỗi năm) và thói quen hoạt động vào ban đêm trong phạm vi rộng từ 300-500m, chuột trở thành một mối đe dọa lớn cho nông nghiệp Ngoài chuột, khu vực An Giang còn có sự hiện diện của dơi, một loài động vật khác cũng đáng chú ý.

Tại các xã An Phú (Tịnh Biên), Khánh Bình, Quốc Thái (An Phú), Hội An (Chợ Mới), và Mỹ Đức, Mỹ Phú (Châu Phú), người dân chủ yếu sống bằng nghề nuôi và thu gom phân dơi Phân dơi được biết đến là loại phân bón rất hiệu quả cho cây trồng, đặc biệt là cây tiêu và dưa hấu.

MỘT SỐ LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU CỦA TỈNH AN GIANG

Làng nghề mộc - chạm khắc gỗ của người Việt ở Chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới (gọi tắt làng mộc Chợ Thủ)

An Giang là một vùng đất độc đáo với địa hình đa dạng, bao gồm đất rộng, sông dài và nhiều cồn bãi, cù lao nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, chiếm 30% diện tích Khu vực biên giới Việt Nam - Campuchia có núi rừng phong phú, trong khi bờ tây sông Hậu là vùng bán sơn địa rộng lớn, với khu tứ giác Long Xuyên chiếm 69,9% diện tích Đất đai màu mỡ, hệ thống kênh rạch phong phú cùng khí hậu ôn hòa đã tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với những người lưu dân lần đầu đặt chân đến đây.

Người Việt có thể đã đến An Giang từ rất sớm, với khả năng cao là nơi cư trú ban đầu của họ nằm ở cù lao Giêng và các cồn lân cận Đây là những khu vực có địa hình cao ráo, thuận lợi cho việc định cư và phát triển cuộc sống.

" Bao phen quạ nói với diều

Cù lao ông Chưởng (1) có nhiều cá tôm"

Câu ca dao truyền tụng ghi nhớ dấu ấn cư trú ban đầu của người Việt tại cù lao ông Chưởng, hay cù lao Giêng, thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang Từ vùng ven sông này, cư dân đã mở rộng khai phá đến Mỹ Luông và Chợ Thủ Ngoài nghề nông, người dân địa phương còn trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa, đóng xuồng ghe và làm mộc, tạo ra các sản phẩm như giường, chõng, tủ, bàn, ghế, từ đó hình thành những làng nghề thủ công nổi tiếng trong khu vực.

Vào thế kỷ XVIII và XIX, Chợ Thủ, thuộc huyện Chợ Mới, trở thành một trung tâm dân cư sôi động với sự gia tăng dân số, nhiều ngôi nhà khang trang và các công trình chùa chiền.

Cù lao ông Chưởng, thuộc huyện Chợ Mới, nổi bật với các miếu, đình làng được xây dựng để cầu nguyện và thờ phụng Nơi đây cũng là cái nôi của nhiều làng nghề thủ công như ươm tơ, dệt lụa và làm mộc, trong đó làng nghề mộc ở Chợ Thủ đã trở nên nổi tiếng trong vùng đồng bằng sông Cửu Long và vẫn được gìn giữ cho đến ngày nay.

Vào năm 1929, tỉnh Long Xuyên có tổng cộng 49 xưởng thủ công, bao gồm 35 xưởng mộc và 14 xưởng đóng ghe xuồng, chủ yếu tập trung tại quận Chợ Mới với 39 xưởng Tại xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, Chợ Thủ nổi bật với nhiều cơ sở mộc chuyên sản xuất tủ, bàn ghế, đi văng và các tác phẩm chạm khắc gỗ, nơi đây quy tụ nhiều thợ mộc lành nghề và nghệ nhân nổi tiếng khéo léo trong khu vực.

Long Điền, Chợ Thủ quê anh Trai chuyên làm tủ, gái sành cửi canh

Làng nghề mộc tại Sa Đéc được hình thành từ truyền thống "cha truyền con nối," bắt nguồn từ ông Tám Dinh, người di cư từ miền Trung Ông Tám Dinh đã đặt nền móng cho nghề mộc ở Chợ Thủ và truyền nghề cho người em vợ là ông Chín Sếu Tiếp theo, ông Chín Sếu đã truyền dạy cho nhiều học trò, góp phần duy trì và phát triển nghề mộc trong cộng đồng.

Tư Chia (Hồ Văn Lai) đóng vai trò quan trọng trong việc gìn giữ và phát triển nghề mộc gia dụng cùng với nghề mộc mỹ nghệ (chạm khắc gỗ) tại Chợ Thủ cho đến hiện tại.

Cư dân huyện Chợ Mới, đặc biệt là Chợ Thủ, thường xây nhà hướng ra sông, nhưng ở những nơi có đường lộ thuận lợi, mặt tiền nhà lại quay ra đường Địa hình trũng thấp và ngập nước vào mùa lũ khiến họ thường chọn nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất, giúp khắc phục tình trạng ngập lụt Nhà cửa được xây dựng khang trang, với nội thất chủ yếu bằng gỗ và thường có vách ngăn ở giữa Khu vực chính giữa nhà là nơi thờ cúng, trong khi không gian còn lại bày trí bàn ghế và giường chõng Các ngôi nhà cổ còn lưu giữ nhiều cổ vật mỹ thuật tinh xảo Về trang phục, cư dân vẫn sử dụng bộ đồ bà ba đen truyền thống khi làm ruộng, nhưng ngày càng ít phổ biến Bữa ăn hàng ngày chủ yếu gồm cơm với cá, tôm sông và các loại canh rau, trong đó món canh chua cá linh với bông điên điển là đặc sản phổ biến trong mùa nước nổi.

Cư dân người Việt tại Chợ Thủ, huyện Chợ Mới, sống trong môi trường sông nước, thường xuyên đối mặt với thiên tai như lũ lụt, hạn hán và dịch bệnh, do đó họ cần một chỗ dựa tinh thần và sự che chở từ các lực lượng siêu nhiên Đời sống tinh thần và tâm linh của họ rất đa dạng, bao gồm nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian của cư dân nông nghiệp, cũng như các tôn giáo thế giới như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, và các tôn giáo địa phương như đạo Phật Hòa Hảo, đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa và đạo Cao Đài Đặc biệt, đạo Phật Hòa Hảo có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần của các tầng lớp cư dân địa phương.

Huyện Chợ Mới, với vị trí địa lý thuận lợi giữa sông Tiền và sông Hậu, sở hữu đất đai màu mỡ và nguồn nước ngọt dồi dào, tạo điều kiện lý tưởng cho nông nghiệp, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản Diện tích đất nông nghiệp của huyện lên tới 22.500 ha, trong khi diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 187,55 ha, với 196 bè cá, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng GDP địa phương Hoạt động công nghiệp tiểu thủ công nghiệp cũng phát triển mạnh mẽ với 4.565 cơ sở sản xuất, tạo việc làm cho hơn 20.000 lao động Tại xã Long Điền A, nghề mộc gia dụng và chạm khắc gỗ là nguồn sinh kế chính của cư dân, với 1.369 hộ chuyên về nghề này, cung cấp việc làm cho gần 700 lao động.

2.1.2 Thời gian văn hóa Địa bàn Chợ Thủ, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới vào năm 1836 thuộc thôn Tú Điền, tổng An Hòa, huyện Đông Xuyên, phủ Tuy Biên Đến năm 1917, địa bàn Chợ Thủ thuộc xã Long Điền, tổng Định Hòa, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên Địa danh Chợ Thủ được biết đến từ thời Minh Mạng (1835) Lúc đó, quân Xiêm tràn qua xâm lấn biên cương, đi theo dòng sông Tiền từ vùng Thuận Cảng (Vàm Nao) đến Chiến Sai và bị quân ta đánh bại tại Chợ Thủ hay Thủ Chiến Sai (Thủ là đồn kiểm soát sông rạch) Người Khmer gọi Chợ Thủ là Kiến Sai (Kien Svai) nghĩa là Chòm cây Xoài, sau vì nói trại mà thành Chiến Sai Tại đây chợ búa được lập nên, đời sống cư dân khá sung túc, các làng nghề hoạt động nhộn nhịp, trong đó có làng nghề mộc và chạm khắc gỗ

Làng mộc Chợ Thủ, xã Long Điền A, có bề dày lịch sử gắn liền với sự khai phá vùng đất An Giang Nghề mộc ra đời cùng với những cư dân người Việt đầu tiên, tập trung vào xây dựng nhà cửa và sản xuất đồ dùng sinh hoạt, trang trí, cũng như vật phẩm thờ cúng Sự phát triển của nghề mộc đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong xây dựng với các vật liệu kiên cố, bền vững và trong đời sống hàng ngày với những sản phẩm chắc chắn, tinh xảo.

Tuy nhiên làng mộc Chợ Thủ từ trước đến nay trong hoạt động vẫn mang tính chất gia đình, cha truyền con nối, sản phẩm làm ra bán ở địa

Theo báo cáo của Sở Công nghiệp, hoạt động tiểu thủ công nghiệp tại tỉnh An Giang năm 2006 chủ yếu dựa vào nguyên liệu là cây gỗ, được cung cấp từ thành phố Hồ Chí Minh, địa phương hoặc thậm chí từ Campuchia.

Tại đây, các sản phẩm nổi bật như tủ áo, tủ thờ, tủ ly, đi văng, sa lông, giường, bàn, ghế và tủ chén được bày bán phong phú với kiểu dáng đẹp và trang nhã Những khúc gỗ thô ráp qua bàn tay khéo léo của người thợ đã biến thành những sản phẩm tinh xảo, được nhiều khách hàng yêu thích Vào dịp lễ, tết hay khi xây dựng nhà cửa, các mặt hàng như tủ thờ, bàn ghế gỗ chạm khắc thường được đặt hàng và vận chuyển đi khắp nơi Đôi khi, người thợ còn phải đến tận nơi để thực hiện những yêu cầu riêng của khách hàng.

Làng nghề dệt của người Chăm ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang (gọi tắt làng dệt Châu Phong)

Người Chăm An Giang, có nguồn gốc từ Chăm pa và Mã Lai, đã di cư từ quê hương để tìm vùng đất mới từ thế kỷ 17 - 18, ban đầu định cư tại các vùng đất thuộc Chân Lạp tiếp giáp với An Giang ngày nay Sự gắn kết giữa người Chăm và người Việt được ghi nhận khi một số gia đình Chăm theo đoàn quân của Nguyễn Hữu Cảnh về Châu Giang (Châu Phong) và đã truyền lại qua 7 - 8 đời Lần di cư thứ hai vào khoảng năm 1840, khi quan đại thần nhà Nguyễn là Lê Văn Đức và Trương Minh Giảng bảo hộ Chân Lạp, đã có nhiều người Chăm theo về Châu Đốc làm binh lính và cư trú dọc theo sông Hậu, trong đó có làng Chăm ấp Phũm Soài thuộc xã Châu Phong.

Hoạt động kinh tế của người Chăm An Giang bao gồm buôn bán, đánh bắt thủy sản, mua bán nhỏ, sản xuất nông nghiệp và dệt thủ công Theo truyền thống, nam giới thường đảm nhận việc mua bán, đánh bắt thủy sản và sản xuất nông nghiệp, trong khi phụ nữ chịu trách nhiệm chăm sóc nhà cửa và dệt vải do luật tục quy định.

Cộng đồng Chăm thường sinh sống dọc theo các con sông, dẫn đến nghề đánh bắt thủy sản trở nên phổ biến Tuy nhiên, do nguồn lợi thủy sản giảm sút gần đây, nghề này chỉ còn phát triển mạnh mẽ ở một số khu vực có lợi thế như An Phú, Châu Phú và Tân Châu.

Nghề mua bán dạo là một hoạt động phổ biến trong cộng đồng Chăm, với việc sử dụng ghe xuồng và xe máy để vận chuyển hàng hóa Trước năm 1945, người Chăm chủ yếu buôn bán muối, gạo, trái cây và hàng thổ cẩm sang Campuchia, đồng thời nhập khẩu gỗ, trâu bò và các sản phẩm khác Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động thương mại của họ đã giảm sút do không cạnh tranh nổi với người Việt và người Hoa Hiện tại, người Chăm chuyển sang mua bán dạo bằng xe đạp và xe gắn máy, tập trung vào các mặt hàng như vải vóc, xoong nồi, thực phẩm và một số dược liệu truyền thống.

Người Chăm đã tham gia vào sản xuất nông nghiệp từ những ngày đầu khẩn hoang và lập ấp cùng với người Việt Tuy nhiên, do điều kiện cư trú và tập quán đặc thù, hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Chăm vẫn còn hạn chế và không đáng kể.

Nghề dệt thủ công vốn được xem là thế mạnh của cộng đồng Chăm

Theo thư tịch cổ Trung Quốc, người Chăm đã biết làm ruộng và trồng dâu nuôi tằm từ thế kỷ VI, với sản xuất lúa hai mùa và dệt vải từ bông Đến thế kỷ VIII - IX, sản phẩm bông và hàng dệt của Champa đã được xuất khẩu sang nhiều nước láng giềng, bao gồm Nhật Bản và Miến Điện, cho thấy nghề dệt của người Chăm đã tồn tại và phát triển mạnh mẽ trong suốt thời kỳ hưng thịnh của vương quốc Champa.

Người Chăm đã mang nghề dệt truyền thống đến An Giang, nơi có nhiều vùng trồng bông và dâu, đặc biệt là phía tây sông Hậu và các cù lao ven sông Tiền như Cù lao Giêng và Tân Châu Tân Châu nổi bật với nhiều làng trồng dâu nuôi tằm, nhờ đất đai và khí hậu thuận lợi cho sự phát triển của cây dâu và con tằm, làm cho nghề tằm tơ trở thành một nghề truyền thống quan trọng Nhiều gia đình ở đây kết hợp trồng dâu, nuôi tằm và dệt lụa, trong khi người Chăm sống dọc sông Hậu đã hợp tác với người Việt để phát triển nghề dệt một cách nhanh chóng.

Nghề dệt Chăm từng rất phát triển tại nhiều làng ở huyện Phú Tân, huyện Tân Châu và huyện An Phú Trong số đó, làng dệt Chăm ấp Phũm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu nổi bật với sản phẩm dệt Chăm nổi tiếng và được nhiều người biết đến.

Cộng đồng người Chăm tại An Giang hiện có hơn 2.290 hộ và gần 12.500 người, chiếm 0,59% tổng dân số Họ chủ yếu sinh sống dọc theo sông Hậu, tập trung ở các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân, Châu Phú, Châu Thành và thành phố Long Xuyên.

Làng (palei) của người Chăm An Giang không chỉ là đơn vị cư trú mà còn là tổ chức xã hội cơ bản và nơi thực hành tín ngưỡng Hồi giáo Mỗi làng có một Thánh đường lớn, cao ráo và khang trang, đóng vai trò trung tâm cho hoạt động tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng Bên cạnh đó, trong làng có thể có một hoặc nhiều Surao (tiểu thánh đường) để tín đồ thực hiện lễ hàng ngày Vào ngày thứ sáu hàng tuần, tất cả tín đồ phải đến thánh đường để làm lễ, tuy nhiên, không phải mỗi ấp (puk) đều cần lập Surao, nhất là khi các ấp gần thánh đường thuận tiện cho việc lễ bái Kiến trúc Surao tương tự như ngôi nhà của người Chăm.

Cộng đồng người Chăm ở An Giang có mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng Hồi giáo Đông Nam Á, đặc biệt là người Hồi giáo Malaysia Việc học chữ Ảrập và đọc kinh Quran để cầu nguyện, cùng với hành hương đến thánh địa Mecca, là những yếu tố quan trọng trong tín ngưỡng Islam, đã thúc đẩy cộng đồng Chăm An Giang mở rộng quan hệ với các cộng đồng Hồi giáo bên ngoài.

Người Chăm ấp Phũm Soài duy trì đời sống vật chất và văn hóa dân tộc cao, sống trong những palei riêng và nhà sàn cao khoảng 2,5m để tránh lũ lụt Trang phục của nam giới thường gồm áo ngắn, xà rông và mũ kapeak, trong khi phụ nữ mặc áo dài bít tà và đội khăn tự dệt hoặc mua từ vải công nghiệp, nhằm bảo tồn trang phục truyền thống Tuy nhiên, do sự giao thoa văn hóa với người Việt và sự đa dạng của hàng hóa dệt may, nhu cầu về vải mặc của họ đã có sự thay đổi.

Theo luật tục tôn giáo, người Chăm kiêng tuyệt đối ăn thịt heo Họ chỉ tiêu thụ thịt từ gia súc, gia cầm và chim sau khi tự tay giết mổ và đọc kinh Ngoài ra, người Chăm cũng kiêng uống các loại rượu Những món ăn phổ biến trong cộng đồng này bao gồm cà ri dê nước dừa và lạp xưởng bò.

Người Chăm thường sống dọc theo các con sông lớn và các tuyến đường giao thông, do đó, họ chủ yếu sử dụng các phương tiện di chuyển như ghe, xuồng, xe gắn máy, ô tô và xe lôi.

Người Chăm tại đây theo đạo Hồi, thực hiện nghiêm túc giáo luật và tin vào Đấng Allah, sứ giả Mohamad cùng kinh Quran Họ sống hòa thuận trong các xóm, làng, mỗi làng có thánh đường và một giáo cả (hakêm) do cộng đồng bầu lên Dưới quyền giáo cả là Naib, người hỗ trợ lãnh đạo cộng đồng và thay thế khi giáo cả vắng mặt Mọi tranh chấp trong cộng đồng đều được giải quyết bởi vị Hakêm.

Làng nghề gốm của người Khmer ấp An Thuận, xã Châu Lăng, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (gọi tắt làng gốm Châu Lăng)

Cộng đồng người Khmer An Giang hiện nay chủ yếu tập trung tại các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn, Châu Phú và Châu Thành, với số lượng đông đảo nhất ở Tri Tôn và Tịnh Biên Có giả thuyết cho rằng cư dân Khmer thuộc Vương quốc Chân Lạp đã di cư đến vùng đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ XVII, trước khi người Việt xuất hiện Một số di tích cổ như chùa Soayton ở Tri Tôn, được xây dựng hơn 300 năm trước, và chùa Camboprak ở Ba Thê từ thế kỷ XVI vẫn còn tồn tại Ban đầu, người Khmer định cư ở vùng đồng bằng, khai phá ruộng lúa và hình thành các xóm làng, trong khi người Việt di cư vào vùng đất thấp gần đó Cả hai cộng đồng đều là nông dân nghèo, tôn trọng phong tục tập quán của nhau và cùng nhau phát triển nông nghiệp, với khu vực cư trú ban đầu của người Khmer hiện nay có thể xác định là các huyện Thoại Sơn, Châu Phú và Châu Thành.

Nhóm thứ hai là cộng đồng người Khmer sinh sống tại vùng đồi Bảy Núi thuộc hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên (chiếm hơn 90% dân số Khmer tại

Người Khmer tại An Giang là di dân từ Campuchia, chọn nơi đây sinh sống vì cảnh quan tương đồng với quê hương Đặc trưng của vùng đất này là dãy thốt nốt và những đồi núi nhỏ ít bóng cây Họ xây dựng phum, sóc trên sườn đồi để tránh lũ lụt hàng năm Tại An Giang, người Khmer nổi bật với nghề đục đá, làm cối đá, chế tác thuyền gỗ từ cây sao, cây dầu và nghề gốm.

Người Khmer ở An Giang hiện nay được chia thành hai nhóm cư dân, một nhóm sống trong vùng đồng bằng cùng với người Việt tại các huyện Châu Thành, Châu Phú, Thoại Sơn, chủ yếu làm nông nghiệp, chăn nuôi và đánh bắt thủy sản Nhóm thứ hai, chiếm hơn 90% dân số Khmer tại An Giang, sống tập trung ở miền núi tại hai huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, và phát huy các lợi thế tự nhiên để triển khai các hoạt động kinh tế riêng Cư dân Khmer ở đồng bằng ven chân núi chủ yếu sống bằng nghề nông, với kỹ thuật thủy lợi cao, sản xuất lúa gạo chất lượng, đặc biệt là giống lúa sóc nổi tiếng Ngoài nông nghiệp, họ còn tham gia vào các hoạt động tiểu thủ công nghiệp như làm gốm, dệt vải, chằm lá lợp nhà và nấu đường thốt nốt, tất cả đều dựa trên nguồn sản vật địa phương Nghề làm gốm tại ấp An Thuận, xã Châu Lăng được xem là độc đáo nhất, bảo lưu kỹ thuật làm gốm nguyên thủy mà ít dân tộc còn gìn giữ.

Cộng đồng người Khmer tại An Giang hiện có khoảng 85.600 người, chiếm 4% tổng dân số tỉnh, chủ yếu cư trú tại hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với hơn 80.000 người Số còn lại phân bố rải rác ở các huyện như Châu Phú, Châu Thành và Thoại Sơn Người Khmer sống gắn bó và hỗ trợ lẫn nhau về cả vật chất lẫn tinh thần trong các Phum Sóc của họ.

Về mặt tinh thần, người Khmer có chung tôn giáo là Phật giáo tiểu thừa (Nam tông), với ngôi chùa không chỉ là trung tâm sinh hoạt tôn giáo mà còn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa và giáo dục của cộng đồng.

Người dân tôn sùng Tam bảo: Phật - Pháp - Tăng, vì vậy họ có trách nhiệm đối với nhà chùa và luôn tôn kính, phục vụ các sư Trong tinh thần thuần túy của đạo Phật, họ không ngại đóng góp công sức và tiền bạc để tu bổ chùa và chăm lo cho các sư, coi các sư là điểm tựa tinh thần Điều này thể hiện rõ trong các lễ hội tôn giáo và dân gian như lễ mừng năm mới, lễ rước nước, lễ dâng y, cũng như các lễ giỗ, cưới, tang Họ mang lễ vật đến chùa để cúng dường Tam bảo hoặc mời sư về nhà tụng kinh cầu phước, với nguyện vọng được may mắn và tốt đẹp.

Người Khmer thể hiện tính hòa nhập cộng đồng cao nhờ vào giáo dục tại chùa, nơi mà con trai từ 10-13 tuổi thường phải tu hành trong một khoảng thời gian nhất định, có thể từ vài năm đến suốt đời Mục đích của việc xuất gia là rèn luyện nếp sống thuần phác và nhân bản, góp phần gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc Khmer Chính vì vậy, trật tự và tôn ti trong cộng đồng người Khmer luôn được duy trì một cách nề nếp.

Người Khmer An Giang sinh sống tập trung trong các đơn vị cư trú truyền thống gọi là phum sóc Hầu hết các phum sóc này có lịch sử lâu đời và thường nằm ven chân núi, bìa rừng tại vùng Bảy.

Núi ở Tri Tôn, Tịnh Biên và một số khu vực khác trong tỉnh An Giang là nơi sinh sống của người Khmer, những người thường xây dựng nhà nền đất với vách lá hoặc tranh, mặc dù một số hộ giàu có đã chuyển sang sử dụng gạch và tole Trang phục truyền thống của người Khmer thường chỉ được mặc trong các dịp lễ hội và tiệc cưới Ẩm thực của họ rất phong phú với nhiều món ăn độc đáo như mắm bồ hốc, bún nước lèo, càri và canh sim lo Tuy nhiên, do sự giao thoa văn hóa lâu dài với người Việt, cách chế biến món ăn của người Khmer đã bị ảnh hưởng và lợt đi so với bản gốc.

Cộng đồng Khmer An Giang sở hữu nền văn hóa nghệ thuật đặc sắc với các chùa Khmer lớn có giàn ngũ âm, kèn, trống và đàn, cùng nghệ thuật di kê và các điệu múa lăm thôn, múa cung đình Hàng năm, người Khmer An Giang tổ chức nhiều lễ hội tôn giáo và dân gian, trong đó nổi bật nhất là lễ Chol Chnăm Thmây (đón năm mới) và lễ Dolta (xá tội vong nhân) gắn liền với lễ hội đua bò Phong tục cưới xin vẫn mang dấu ấn chế độ mẫu hệ, trong khi phong tục ma chay tiến bộ hơn với việc hỏa táng và lưu giữ tro cốt tại chùa Về họ tên, nam giới thường mang họ Chau, còn nữ giới mang họ Néang.

Người Khmer Tri Tôn chủ yếu sống bằng nghề thuần nông, trồng giống lúa "Néang Nhen" nổi tiếng, và chăn nuôi bò, heo tại nhà Họ cũng tham gia vào các nghề thủ công như làm đường thốt nốt, dệt vải và làm gốm để tăng thêm thu nhập.

Trước thế kỷ 17, người Khmer ở xã Châu Lăng sống trong các vùng rừng núi hoang vu, mỗi hộ gia đình tự sản xuất các vật dụng cần thiết cho sinh hoạt hàng ngày, với việc trao đổi thực phẩm và hàng hóa giữa các hộ Các mặt hàng phổ biến trong trao đổi bao gồm gạo, muối, hàng vải, mắm bò hóc, đường thốt nốt và đồ gốm Khi nhu cầu sinh hoạt ngày càng đa dạng, chợ phiên bắt đầu hình thành, thường nằm ở vị trí trung tâm cách xa các phum sóc từ vài ba đến hàng chục km, với phương tiện di chuyển chủ yếu là đi bộ trên những con đường mòn hiểm trở Đến thế kỷ 18, cuộc sống của các lưu dân tại đây ổn định hơn, chợ phiên phát triển thành thị tứ, hình thành các cơ sở thương nghiệp với nhiều mặt hàng tiêu dùng Sự chuyển biến này đã dẫn đến việc chuyên môn hóa sản xuất, tạo nền tảng cho sự hình thành các làng nghề thủ công truyền thống của người Khmer sau này.

Làng nghề gốm Châu Lăng hình thành từ năm 1832 khi vua Minh Mạng lập tỉnh An Giang, với nhiều làng được xác định vị trí hành chính Thời điểm này, giao thông thủy bộ thuận lợi giúp sản phẩm gốm được giao lưu trong và ngoài địa phương, tạo nên sự nhộn nhịp cho làng gốm với gần 100 hộ làm gốm Nghề làm gốm của người Khmer ở Tri Tôn cũng rất phát triển, thu hút ghe từ khắp nơi đến bến sông Tri Tôn để mua hàng gốm.

Me [61:165] Đồ gốm của Tri Tôn lúc bấy giờ không chỉ bán khắp các tỉnh miền tây mà còn sang tận Campuchia, cạnh tranh với đồ gốm Kôngpông

Chnăng là nơi sản xuất đồ gốm nổi tiếng của Campuchia Chất lượng sản phẩm gốm của người Khmer Tri Tôn rất được nhiều nơi ưa thích

Trước năm 1975, thị trường Việt Nam chứng kiến sự đa dạng hóa hàng hóa và nguyên vật liệu, với nhiều sản phẩm được nhập khẩu và sản xuất trong nước, chủ yếu tại Sài Gòn Sự phát triển này đã ảnh hưởng lớn đến làng gốm Châu Lăng, khi các sản phẩm gốm bị thay thế bởi hàng hóa có chất lượng tốt hơn và dễ sử dụng hơn Hệ quả là nhiều mặt hàng gốm dần mai một, dẫn đến sự chững lại trong hoạt động sản xuất nghề gốm, khiến một số hộ gia đình phải bỏ nghề và chuyển sang các hoạt động khác như buôn bán, chăn nuôi hay làm thuê.

Sau khi giải phóng, An Giang đã thực hiện hợp tác hóa trong suốt 10 năm, với các ngành nghề hoạt động qua tổ hợp tác và hợp tác xã Tuy nhiên, làng gốm Châu Lăng không áp dụng mô hình này do đặc thù kỹ thuật sản xuất, vì làng gốm không có chương trình dạy nghề hay học nghề, mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống.

TIỀM NĂNG VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỀN LÀNG NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG TỈNH AN GIANG

Ngày đăng: 14/09/2021, 20:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nguyễn Xuân Bách (2003), "Làng nghề công nghiệp - thủ công nghiệp với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo ở Nam Định", Tạp chí Lao động và xã hội, (số 216) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng nghề công nghiệp - thủ công nghiệp với vấn đề giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo ở Nam Định
Tác giả: Nguyễn Xuân Bách
Năm: 2003
2. Nguyễn Phương Bắc (2000), "Hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy và phát triển bền vững khu vực kinh tế làng nghề", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (số 7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy và phát triển bền vững khu vực kinh tế làng nghề
Tác giả: Nguyễn Phương Bắc
Năm: 2000
3. Phan Xuân Biên (chủ biên) (1991), Văn hóa Chăm, NXB Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa Chăm
Tác giả: Phan Xuân Biên (chủ biên)
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
Năm: 1991
4. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (1990), Văn hóa và cư dân đồng bằng Sông Cửu Long, ,NXB Khoa học Xã hội, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa và cư dân đồng bằng Sông Cửu Long
Tác giả: Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường
Nhà XB: NXB Khoa học Xã hội
Năm: 1990
5. Lê Thanh Bình (2000), "Từ Bát Tràng suy nghĩ về sự phát triển các làng nghề hiện đại", Tạp chí Khoa học Công nghệ Môi trường, (số 11) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ Bát Tràng suy nghĩ về sự phát triển các làng nghề hiện đại
Tác giả: Lê Thanh Bình
Năm: 2000
6. Trần Ngọc Bút (2002), "Phát triển làng nghề thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (số 7) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển làng nghề thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
Tác giả: Trần Ngọc Bút
Năm: 2002
8. Nguyễn Sinh Cúc (2001), "Phát triển làng nghề ở nông thôn", Tạp chí Cộng sản, (số 12) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển làng nghề ở nông thôn
Tác giả: Nguyễn Sinh Cúc
Năm: 2001
9. Phạm Văn Dũng (2002), "Làng nghề Hà Nội với việc giải quyết việc làm", Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, (số 2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng nghề Hà Nội với việc giải quyết việc làm
Tác giả: Phạm Văn Dũng
Năm: 2002
10. Phan Đại Doãn (1993), "Về làng nghề và công nghiệp hóa nông thôn hiện nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (số 6) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về làng nghề và công nghiệp hóa nông thôn hiện nay
Tác giả: Phan Đại Doãn
Năm: 1993
11. Phan Đại DZoãn, Nguyễn Quang Ngọc (1998), Những bàn tay tài hoa của cha ông, NXB Giáo dục,Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bàn tay tài hoa của cha ông
Tác giả: Phan Đại DZoãn, Nguyễn Quang Ngọc
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1998
12. Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận (1997), Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, NXB Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống
Tác giả: Nguyễn Văn Đại, Trần Văn Luận
Nhà XB: NXB Nông nghiệp
Năm: 1997
13. Trịnh Hoài Đức (1998), Gia định thành thông chí, NXB Giáo dục, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gia định thành thông chí
Tác giả: Trịnh Hoài Đức
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1998
14. Mạc Đường (chủ biên) (1991), Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long, NXB KHXH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long
Tác giả: Mạc Đường (chủ biên)
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 1991
15. Trần Kim Hảo (1996), "Một số ý kiến về đảm bảo vốn cho phát triển làng nghề", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (số 8) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số ý kiến về đảm bảo vốn cho phát triển làng nghề
Tác giả: Trần Kim Hảo
Năm: 1996
16. Trần Kim Hảo (2002), "Những vướng mắc cần tháo gỡ trong xây dựng khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (số 12) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những vướng mắc cần tháo gỡ trong xây dựng khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề
Tác giả: Trần Kim Hảo
Năm: 2002
17. Nguyễn Hữu Hiệp (2003), An Giang văn hóa một vùng đất, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: An Giang văn hóa một vùng đất
Tác giả: Nguyễn Hữu Hiệp
Nhà XB: NXB Văn hóa Thông tin
Năm: 2003
18. Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ, NXB Trẻ ,TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu văn hóa tâm linh Nam bộ
Tác giả: Nguyễn Hữu Hiếu
Nhà XB: NXB Trẻ
Năm: 2004
19. Trịnh Huy Hóa (biên dịch) (2002), Hồi giáo, Nxb. Trẻ , TP.HCM 20. Viện sử học (2007), Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục, NXB. Văn hóaThông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồi giáo," Nxb. Trẻ , TP.HCM 20. Viện sử học (2007), "Lê Quý Đôn: Phủ Biên tạp lục
Tác giả: Trịnh Huy Hóa (biên dịch) (2002), Hồi giáo, Nxb. Trẻ , TP.HCM 20. Viện sử học
Nhà XB: Nxb. Trẻ
Năm: 2007
21. Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Nam Bộ - đất và người - tập II, Nhà xuất bản Trẻ, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nam Bộ - đất và người - tập II
Tác giả: Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nhà xuất bản Trẻ
Năm: 2004
22. Nguyễn Kim Hương (2005), Làng nghề thủ công truyền thống tại tỉnh Bình Dương trong bối cảnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, TP.HCM Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làng nghề thủ công truyền thống tại tỉnh Bình Dương trong bối cảnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Tác giả: Nguyễn Kim Hương
Năm: 2005

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w