1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN NĂNG LỰC THÔNG TIN DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

37 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 37
Dung lượng 108,69 KB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

    • 1. Lý do chọn đề tài

    • 2. Tổng quan nghiên cứu

      • 2.1. Nghiên cứu trong nước

      • 2.2. Nghiên cứu ngoài nước

      • 2.3. Một vài nhận xét

    • 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

      • 3.1. Mục tiêu nghiên cứu

      • 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

    • 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

      • 4.1. Đối tượng nghiên cứu

      • 4.2. Phạm vi nghiên cứu

    • 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

      • 5.1. Cơ sở lý luận

      • 5.2. Phương pháp nghiên cứu

    • 6. Đóng góp của đề tài

    • 7. Kết cấu của đề tài

    • Chương 1: Lý luận chung về dân chủ

    • Chương 2 : Dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn

  • CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ

    • 1.1. Khái niệm dân chủ

    • 1.2. Đặc trưng của dân chủ

    • 1.3. Lịch sử phát triển của dân chủ

    • Tiểu kết luận chương 1

  • CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

    • 2.1. Quan niệm về dân chủ Mỹ

      • 2.1.1. Học thuyết dân chủ của Jeferson

      • 2.1.2. Tư tưởng dân chủ của Lincoln

    • 2.2. Hành xử mang giá trị dân chủ Mỹ

      • 2.2.1. Chính sách mở rộng dân chủ dưới thời chính quyền G. Bush

      • 2.2.2 Chính sách thúc đẩy dân chủ của chính quyền Obama

    • Tiểu kết chương 2:

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

    • A. Tài liệu tiếng Việt

    • B. Tài liệu tiếng nước ngoài

    • C. Tài liệu internet

Nội dung

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ 8 1.1. Khái niệm dân chủ 8 1.2. Đặc trưng của dân chủ 10 1.3. Khái quát lịch sử phát triển và sự ảnh hưởng của dân chủ trên thế giới 12 Tiểu kết chương 1 17 CHƯƠNG 2: DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN 19 2.1. Quan niệm về dân chủ Mỹ 19 2.1.1. Học thuyết dân chủ của Jefferson 19 2.1.2. Học thuyết dân chủ của Lincoln 21 2.2. Hành xử mang giá trị dân chủ Mỹ 23 2.2.1. Chính sách mở rộng dân chủ dưới chính quyền G.Bush 23 2.2.2. Chính sách thúc đẩy dân chủ dưới chính quyền Obama 24 Tiểu kết chương 2 29 KẾT LUẬN 30 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 31 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dân chủ không chỉ được coi là giá trị cơ bản trong hệ giá trị niềm tin của người Mỹ; mà từ sớm, vấn đề này đã được coi là một công cụ giá trị điển hình để hướng các chương trình hành động của quốc gia này đến thực hiện sứ mệnh đặc biệt; là trở thành hình mẫu dân chủ, lan rộng vai trò ảnh hưởng ra toàn thế giới. Đáng chú ý từ thế kỷ XX đến nay, kết hợp nhiều đối sách khác nhau, trong đó đẩy mạnh việc phô trương sức mạnh kinh tế và quân sự, nước Mỹ đã khéo léo sử dụng những giá trị thuộc về bản sắc tích cực của họ như: tự do, dân chủ và nhân quyền,… để đặt trong công cuộc xây dựng hình ảnh quốc gia, nâng cao sức mạnh và lan tỏa những giá trị tư tưởng của Mỹ trên toàn thế giới. Nhưng, nhận thức và hành xử đối ngoại theo giá trị dân chủ của chính quyền Mỹ không phải luôn luôn nhất quán, trong rất nhiều trường hợp, đôi khi nó bị chi phối bởi các lợi ích kinh tế, chính trị, quân sự thực dụng mới là ưu tiên trong các chính sách và hành xử đối ngoại của Mỹ chứ không phải là bản thân giá trị dân chủ hay nhân quyền. Qua đó, có thể thấy được sự chuyển mình mạnh mẽ của nước Mỹ từ một cường quốc mới nổi và dần xác định vị trí siêu cường số một thế giới hiện nay. Tuy nhiên, quan niệm về giá trị dân chủ Mỹ lại không đồng nhất đối với cách hành xử mà chính quyền Washington thực hiện. Chính vì vậy, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn” góp phần làm rõ hơn các vấn đề cơ bản nhất về nội hàm của dân chủ, qua đó giải thích sự hiện diện của nó trong các vấn đề chính trị quốc tế hiện nay. 2. Tổng quan nghiên cứu 2.1. Nghiên cứu trong nước Thứ nhất là những công trình nghiên cứu về lý thuyết dân chủ, tiêu biểu là: Nguyễn Hữu Khiển (1998), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của hình thức dân chủ trực tiếp”, Tạp chí Thông tin Lý luận. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, NXB Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Tiến Phồn (2001), “Dân chủ và tập trung dân chủ: Lý luận và thực tiễn”, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Đỗ Nguyên Phương, Trần Ngọc Đường (1992), “Xây dựng nền dân chủ xã | hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền”, NXB Sự thật, Hà Nội. Phạm Thành (1991), “Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh”, NXB Sự thật, Hà Nội. Trần Thành (2015), “Vấn đề dân chủ và dân chủ hóa đời sống xã hội - lịch sử và hiện đại”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. Đỗ Trung Hiếu (2004), “Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Quang Nhiếp (2006), “Dân chủ với phát triển cộng đồng”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. Ngô Thị Phượng (2015), “Thực hành dân chủ trong Đảng hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. Thứ hai, là các công trình nghiên cứu về mô hình dân chủ điển hình trên thế giới, đáng chú ý là: Trần Quốc Hùng (2006), “Dân chủ và phát triển: Kinh nghiệm Ấn Độ và Trung Quốc”, Tạp chí Thời đại mới. Đặng Đình Lựu (2008), “Phát triển chế độ chính trị dân chủ và dân chủ trong Đảng Cộng sản Trung Quốc”, Tạp chí Xây dựng Đảng, tr 57 – 60. Mạch Quang Thắng (1999), “Bảo đảm và phát huy dân chủ trong chế độ một Đảng cầm quyền ở nước ta hiện nay”, Đề tài cấp bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (2011), “Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Đảng Cộng sản Trung Quốc với vấn đề cải cách dân chủ”, Thông tấn xã Việt Nam. Thứ ba, là các công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của giá trị dân chủ, tiêu biểu là: Thái Thượng Kim (2015), “Đảng cộng sản các nước trên thế giới tận dụng như thế nào sự tham dự dân chủ để thắt chặt quan hệ giữa đảng với quần chúng”, Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nhị Lê, Lê Khả Thọ (2005), “Một Đảng lãnh đạo và thực thi dân chủ”, Tạp chí Cộng sản. Đỗ Mười (1998), “Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong sạch vững mạnh”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Thành Nam, Đỗ Ngọc Thanh (2005), “Phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay”, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. Vũ Văn Hiền (2004), “Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2.2. Nghiên cứu ngoài nước Thứ nhất, là các nhóm công trình nghiên cứu về lý thuyết dân chủ, tiêu biểu là: BOURKE, R. (2019), “Democracy as ideal And Democracy as struggle. Modern Intellectual History”, tr. 613 – 619. DE DIJN, A. (2019), “The ethos of democracy. Modern Intellectual History”, tr.607 – 612. Isaac, J. (2011), “Analyzing Democracy. Perspectives on Politics”, tr. 241 – 245. RODGERS, D. (2019), “The commitments of democracy. Modern Intellectual History”, tr. 593 – 598. Lintott, A. (1992), “Aristotle and Democracy. The Classical Quarterly”, tr. 114 – 128. kloppenberg, J. (2019), “The receding horizon of democracy. Modern Intellectual History”, tr. 621 – 632. Thompson, M. (2015), “Democracy with Asian Characteristics. The Journal of Asian Studies”, tr. 875 – 887. Przeworski, A. Alvarez, M. Cheibub, J. & Limongi, F. (2000), “Democracy and Development: Political Institutions and Well – Being in the World, 1950 – 1990 (Cambridge Studies in the Theory of Democracy) Cambridge”, Cambridge University Press. Wenman, M. (2013), “Agonistic Democracy: Constituent Power in the Era of Globalisation. Cambridge”, Cambridge University Press. Schofield, N., & Sened, I. (2006), “Elections and Democracy. In Multiparty Democracy: Elections and Legislative Politics (Political Economy of Institutions and Decisions, pp. 11 – 36). Cambridge”, Cambridge University Press. Delos, J. (1943). “The Idea of Democracy. The Review of Politics”, tr. 38 – 54. Thứ hai là các công trình nghiên cứu về mô hình dân chủ điển hình trên thế giới, đáng chú ý là: Isaac, J. (2014), “Rethinking American Democracy? Perspectives on Politics”, tr. 557 – 562. Young, J. (1973), “Changing Images of American Democracy and the Scottish Labour Movement. International Review of Social History”, tr. 69 – 89. Clarke S. (2014), “Through Another Lens: American Democracy Viewed through Race/Ethnicity and Subnational Institutions. PS: Political Science & Politics”, tr. 905 – 910. Barber, B. (1988), “Participation and Swiss Democracy. Government and Opposition”, 31 – 50. PERUZZOTTI, E. (2001), “The Nature of the New Argentine Democracy. The Delegative Democracy Argument Revisited. Journal of Latin American Studies”, tr. 133 – 155. Pangle, T., & Burns, T. (2014), “Tocqueville’s Democracy in America. In The Key Texts of Political Philosophy: An Introduction (pp. 381 – 396) Cambridge”, Cambridge University Press. Thứ ba là nhóm công trình nghiên cứu về ảnh hưởng của giá trị dân chủ, tiêu biểu là: Lee, F., & McCarty, N. (2019), “The Anxieties of American Democracy. In F. Lee & N. McCarty (Eds.), Can America Govern Itself?” (SSRC Anxieties of Democracy, pp. 1 – 12). King, G., & Palmquist, B. (1997), “The Record of American Democracy, 1984 – 1990. PS: Political Science & Politics”, tr. 746 – 747. Appleton, S. (1995), “Teaching About American Democracy Through Historical Cases. PS: Political Science & Politics”, tr. 730 – 733. Norris, P. (2008), “Driving Democracy: Do Power-Sharing Institutions Work? Cambridge”, Cambridge University Press. Hobson, C. (2015), “The Rise of Democracy: Revolution, War and Transformations in International Politics since 1776”, Edinburgh University Press. Hamilton, G. (1998), “Civic Wars: Democracy and Public Life in the American City during the Nineteenth Century. By Mary P. Ryan. Berkeley: University of California Press”, 1997. The Journal of Economic History, tr. 913 – 914. Isaac, J. (2014), “Rethinking American Democracy? Perspectives on Politics”, tr. 557 – 562. Clarke S. (2014), “Through Another Lens: American Democracy Viewed through Race/Ethnicity and Subnational Institutions. PS: Political Science & Politics”, tr. 905 – 910. 2.3. Một vài nhận xét Nhìn chung các công trình nghiên cứu với quy mô và phạm vi nghiên cứu khác nhau cho thấy mức độ quan tâm của các học giả và nhà nghiên cứu về dân chủ trên thế giới hiện nay là rất lớn. Các tác giả hầu hết khai thác vấn đề về dân chủ với một số điểm chính sau: Một là, sự mở rộng ảnh hưởng của dân chủ với các biểu hiện cụ thể trong chính trị thế giới hiện nay là vấn đề nóng, thu hút sự quan tâm. Hai là, các hành xử mang giá trị dân chủ có sự biến đổi, tùy thuộc vào bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội mang đặc trưng riêng của từng quốc gia. Kế thừa kết quả của các nghiên cứu đã kể trên, đề tài này tập trung làm rõ lý thuyết chung về dân chủ, cụ thể là dân chủ ở Mỹ hiện nay và quá trình thực hiện những giá trị dân chủ đó trên thế giới hiện nay. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn, đề tài nhằm làm rõ giá trị dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu của công trình nghiên cứu, đề tài hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: Làm rõ được cơ sở lý luận chung về giá trị dân chủ. Phân tích thực chất quan niệm và hành động của Mỹ đối với các giá trị dân chủ. Đưa ra một số đánh giá ,nhận xét về dân chủ; về quan niệm và hành xử của Mỹ đối với giá trị dân chủ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Lý luận về dân chủ, giá trị dân chủ Mỹ, hành động của chính quyền Mỹ dựa trên dân chủ, quan điểm của thế giới và Việt Nam về dân chủ Mỹ. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Giá trị dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn, xuyên suốt lịch sử từ thời kỳ lập quốc và thông qua một số hành động dưới sự cầm quyền của một số Tổng thống Mỹ. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở lý luận chính, bên cạnh đó sử dụng một số lý thuyết lớn trong nghiên cứu chính trị quốc tế, tiêu biểu như: chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do nhằm bổ trợ cho cơ sở lý luận chính của đề tài. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài là một vấn đề chính trị mang tính lịch sử, nên phương pháp nghiên cứu trong khoa học chính trị và sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành khác, đặc biệt là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Các phương pháp khác như: so sánh, cấu trúc, mô tả, hệ thống,… được sử dụng ở các mức độ khác nhau nhằm hỗ trợ cho các phương pháp chủ đạo nêu trên. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài được thưc hiện nhằm cung cấp những tri thức khách quan về đặc trưng của giá trị dân chủ Mỹ, những hành xử từ chính quyền Washington đối với vấn đề dân chủ trên thế giới. Đây là cơ sở tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, các học giả và đặc biệt là những đọc giả quan tâm, chú ý đến nước Mỹ. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận ,danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu gồm 2 chương cụ thể là: Chương 1: Lý luận chung về dân chủ Chương 1 trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản về dân chủ Mỹ, cụ thể là: khái niệm, đặc trưng của dân chủ, đồng thời cung cấp cái nhìn khái quát về lịch sử phát triển của dân chủ trên thế giới hiện nay. Từ đó tạo thành cơ sở lý luận chính của đề tài nhằm giải thích và luận giải vấn đề. Chương 2 : Dân chủ Mỹ từ lý thuyết đến thực tiễn Chương này trình bày những nội dung cơ bản liên quan đến các học thuyết , tư tưởng về dân chủ ở Mỹ, tiêu biểu như: của Jefferson và Lincoln. Chương 2 luận giải và làm rõ các sự mở rộng của dân chủ Mỹ, biểu hiện ở các hành động cụ thể, đơn cử như là: Chính sách mở rộng dân chủ của chính quyền G.Bush và chính sách thúc đẩy dân chủ dưới chính quyền Obama. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ 1.1. Khái niệm dân chủ Dân chủ xuất hiện từ sớm trên vũ đài chính trị với các hệ giá trị và tư tưởng khác. Song dân chủ chỉ thực sự phát triển trong xã hội mà người dân có trình độ chính trị và hiểu biết pháp luật cao. Ở đó dân chủ với tư cách là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Tuy nhiên, cho đến hiện tại, các vấn đề cơ bản thuộc nội hàm dân chủ vẫn còn vấp phải nhiều tranh cãi trong giới khoa học chính trị. Dân chủ với tính cách là phạm trù khoa học, một thuật ngữ chính trị xuất hiện và hình thành từ trong quan hệ đấu tranh với áp bức, bóc lột, chống lại hiện tượng độc tài, chuyên chế. Ra đời từ rất sớm, dân chủ gắn liền với quá trình phát triển của con người, vì vậy không chỉ mang tính lịch sử sâu sắc,dân chủ còn có tính xã hội rõ nét, trở thành thước đo quan trọng khi đánh giá sự tiến bộ của một xã hội. Trước hết, cần làm rõ khái niệm dân chủ. Dân chủ theo nguyên nghĩa từ tiếng Hy lạp cổ đại do hai từ hợp thành: demos – nhân dân và krapos – quyền lực dùng để chỉ “quyền lực thuộc về nhân dân”. Đây được xem là “khái niệm căn bản” khi đã phản ánh được nội dung cốt lõi về dân chủ, thuật ngữ” Demokrapos” đã trở thành tiền đề xuất phát chung đối với các nhà nghiên cứu, nhà lý luận sau này. Nhận biết được ý nghĩa trên, nhà lý luận kinh điển C. Mác đã kế thừa và làm rõ hơn về nội hàm khái niệm dân chủ. Trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Goota, C. Mác chỉ rõ: “dân chủ” nếu chuyển sang tiếng Đức có nghĩa “nhân dân làm chủ””1. Điều này cho thấy trong một nền dân chủ, nhân dân chính là chủ thể của nhà nước, chính người dân xây dựng nên nhà nước và nhà nước đó phải hoàn toàn thuộc về người dân. Xét ở góc độ khác, C. Mác cho rằng dân chủ chính là các quyền lợi của nhân dân, ông nhận định rằng nhân dân cần nắm trong tay quyền lực nhà nước, quyền làm chủ xã hội và bộ máy chính quyền hoạt động phải vì nhân dân, vì sự phát triển của xã hội .Từ quan điểm của C. Mác, có thể thấy dân chủ chính là việc người dân được sở 1 C. Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. hữu quyền lực nhà nước, được hưởng quyền lợi chính đáng, đảm bảo lợi ích cơ bản của người dân. Theo từ điển Oxford Dictionary định nghĩa về dân chủ là: “Một hệ thống Chính phủ trong đó người dân của một quốc gia có thể bỏ phiếu để bầu ra đại diện của họ”2. Theo định nghĩa trên, có thể hiểu dân chủ chính là người dân có quyền được bầu cử, được phép lựa chọn bầu ra những đại biểu, những đại diện ưu tú do chính họ lựa chọn. Những đại biểu này đại diện cho quyền lợi, lợi ích của người dân. Định nghĩa trên cũng nhấn mạnh tới vai trò của “hệ thống Chính phủ” trong việc đảm bảo tính dân chủ, hệ thống Chính phủ này đảm bảo quyền bầu của người dân được thực hiện, được diễn ra một cách tốt nhất. Theo định nghĩa trên từ điển Cambrigde, dân chủ được hiểu là: “niềm tin vào sự tự do và bình đẳng giữa mọi người, hoặc một hệ thống chính quyền dựa trên niềm tin này, trong đó quyền lực được nắm giữ bởi các đại diện dân cử hoặc trực tiếp bởi chính người dân”3. Đối với các thể chế dân chủ nhất định, người dân trong đó với tư cách là cử tri có quyền tham gia vào các tiến trình chính trị của quốc gia, chủ yếu là thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người đại diện mà đa phần họ ủng hộ. Theo nhà khoa học chính trị người Mỹ Larry Diamond đưa ra định nghĩa “Dân chủ bao gồm bốn yếu tố chính: một hệ thống chính trị để lựa chọn và thay thế Chính phủ thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng ; sự tham gia tích cực của người dân, với tư cách là công dân, vào chính trị và đời sống công dân; bảo vệ các quyền con người của mọi công dân; và một nhà nước pháp quyền , trong đó các luật và thủ tục áp dụng bình đẳng cho mọi công dân”4. Dân chủ theo từ điển Hán Việt được định nghĩa như sau: “đó là thể chế chính trị mà trong đó chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân cả nước, nhân dân có quyền bầu lên những người đại biểu trong chính quyền, chính quyền lấy ý dân làm chuẩn tắc. Hợp với nguyên tắc dân chủ, không chủ quan độc đoán”5. Đây được xem là mô hình 2 Oxford Dictionary, “Democracy”. 3 Cambrigde Dictionary, “Democracy”. 4 Diamond, L., Bài giảng tại Đại học Hilla về Nghiên cứu Nhân văn ngày 21 tháng 1 năm 2004: “Dân chủ là gì”. Diamond, L. và Morlino, L., Phẩm chất của nền dân chủ (2016). 5 Từ điển Hán Việt, Xem thêm tại: https://hvdic.thivien.net/hv/d%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7. phổ biến của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Các quốc gia đẩy mạnh xây dựng và phát triển dân chủ trong mọi mặt của đời sống, đặc biệt là trong đời sống chính trị. Có hai hình thức chủ yếu để thực hành dân chủ và người dân sẽ sử dụng nó để thực hiện quyền làm chủ của mình. Một nhà nghiên cứu đã đưa ra định nghĩa: “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân”6. Tiếp cận dựa trên góc độ văn hóa chính trị Việt Nam, Nhà nước với các quyền lực cơ bản của mình hướng các lợi ích đến phục vụ đời sống của nhân dân, cụ thể là Nhà của dân, do dân và vì dân là biểu hiện cho sự tiếp thu các giá trị dân chủ vào tình hình Việt Nam. Nhìn chung, các khái niệm nghiên cứu “dân chủ” với tư cách là phương thức chính trị mà thông qua đó, người dân với tư cách là cử tri có thể tham gia vào các công việc chung của cộng đồng, của xã hội, quyết định vận mệnh và tương lai chính trị của quốc gia. Tuy nhiên, cũng nghiên cứu dân chủ với tư cách là căn cứ quan trọng để người dân đảm bảo các lợi ích cơ bản và những quyền lợi chính đáng của mình. Vậy hiểu như thế nào về dân chủ? Chế độ dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu ra. 1.2. Đặc trưng của dân chủ Dân chủ có nghĩa là một hệ thống Chính phủ được thành lập và mang tính chính danh thông qua bầu cử. Tuy nhiên, không phải ai cũng được ứng cử trong các cuộc bầu cử; chỉ có những người tham gia mới được lựa chọn để ứng cử. Thêm vào đó, không phải ai cũng được đi bầu. Hầu hết các nước dân chủ chỉ cho phép những người dân đủ tuổi (thường là 18)7 bầu. Một số quốc gia không cho một số người khác bầu (chẳng hạn như người phạm tội)8. Chính điều này minh chứng cho việc dân chủ cũng có những đặc trưng riêng tùy thuộc vào các điều kiện chi phối nó. Song, hầu hết dân chủ xuất hiện và phát triển với các đặc điểm cơ bản, cụ thể như sau: 6 Hồ Sỹ Qúy (2014), “Một số vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển”, Nxb. Lý luận chính trị, H. 2014. 7 Đây là độ tuổi được công nhận trưởng thành ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới hiện nay. 8 Cụ thể là những người không có tư cách pháp lý hay mất năng lực hành vi dân sự. Một là, dân chủ trực tiếp, hay còn gọi là dân chủ thuần túy là một hình thức nhà nước dân chủ trong đó các công dân của một quốc gia trực tiếp bỏ phiếu thông qua luật pháp của quốc gia đó thay vì bầu ra các đại diện để chấp thuận các luật đó. Dân chủ trực tiếp hiện đại đặc trưng bởi ba trụ cột chính là: (i) Quyền đề xướng luật lệ. (ii) Trưng cầu dân ý bao gồm cả trưng cầu dân ý bắt buộc cho phép nhân dân bỏ phiếu phủ quyết sự ban hành pháp luật. (iii) Bãi nhiệm bằng cách gửi kiến nghị hoặc trưng cầu dân ý cho phép nhân dân có quyền bãi nhiệm những người đã được bầu ra. Hai là, dân chủ đại diện (cũng được gọi là dân chủ gián tiếp, hay dân chủ đại nghị) là một hình thức nhà nước dân chủ được các “đại diện” của người dân vận hành trên nguyên tắc thi hành chủ quyền nhân dân (Popular sovereignty), “đại diện” ở đây có thể hiểu là những đại biểu được bầu lên và đại diện cho ý chí của một nhóm người nào đó. Gần như tất cả các nền dân chủ phương Tây hiện đại là mang hình thức dân chủ đại diện. Ba là, dân chủ bán trực tiếp. Những nền dân chủ kết hợp những yếu tố của cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, được gọi là nền dân chủ hỗn hợp hoặc nền dân chủ bán trực tiếp. Ví dụ bao gồm Thụy Sĩ hiện nay và một số tiểu bang của Hoa Kỳ. Dân chủ hiện nay đang ngày càng mở rộng phạm vi ảnh hưởng và sự hiện diện của nó trong tất cả các lĩnh vực của chính trị quốc tế. Chính vì vậy mà sự biến đổi cho phù hợp với các giá trị khác để duy trì sự tồn tại và phát triển là yêu cầu cần chú ý. Dân chủ với các đặc điểm không đồng nhất cũng được lý giải thông qua các chiều kích khác nhau, để làm rõ hơn vấn đề còn nhiều tranh cãi này. Có thể kể đến các biến thể của dân chủ hiện nay, tiêu biểu như sau: Thứ nhất, quân chủ lập hiến, hay quân chủ đại nghị là một hình thức tổ chức nhà nước giữ nguyên vai trò của vua hay quốc vương từ thời phong kiến nhưng mọi quyền lực, mọi chi phối trong các hoạt động trong xã hội không còn tập trung trong tay vua hay nữ hoàng. Vua hay nữ hoàng chỉ là người lãnh đạo tinh thần. Còn mọi quyền lực, mọi chi phối trong các hoạt động trong xã hội đều do nghị viện, thủ tướng do người dân bầu ra lãnh đạo. Trong chính thể quân chủ lập hiến, nhà vua hay nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia, nhưng về quyền lực thì chỉ mang tính chất tượng trưng, đại diện cho truyền thống dòng tộc và sự thống nhất của quốc gia.

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DÂN CHỦ

Khái niệm dân chủ

Dân chủ đã xuất hiện từ sớm trong chính trị với nhiều hệ giá trị khác nhau, nhưng chỉ thực sự phát triển khi người dân có trình độ chính trị và hiểu biết pháp luật cao Tại đây, dân chủ trở thành nền tảng để người dân thực hiện quyền làm chủ Tuy nhiên, nhiều vấn đề cơ bản về nội hàm dân chủ vẫn còn gây tranh cãi trong giới khoa học chính trị Dân chủ, như một phạm trù khoa học, là thuật ngữ chính trị hình thành từ cuộc đấu tranh chống áp bức và độc tài.

Dân chủ, ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự phát triển của con người, mang tính lịch sử sâu sắc và tính xã hội rõ nét Nó trở thành thước đo quan trọng để đánh giá sự tiến bộ của một xã hội Do đó, việc làm rõ khái niệm dân chủ là cần thiết.

Dân chủ, xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại với hai thành phần "demos" (nhân dân) và "krapos" (quyền lực), có nghĩa là "quyền lực thuộc về nhân dân" Khái niệm này phản ánh nội dung cốt lõi của dân chủ và đã trở thành nền tảng cho các nhà nghiên cứu và lý luận về chính trị sau này.

C Mác đã làm rõ khái niệm dân chủ trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Goota, nhấn mạnh rằng "dân chủ" trong tiếng Đức có nghĩa là "nhân dân làm chủ" Điều này cho thấy nhân dân là chủ thể của nhà nước, và nhà nước phải thuộc về họ Ông cũng khẳng định rằng dân chủ liên quan đến quyền lợi của nhân dân, với việc nhân dân nắm giữ quyền lực nhà nước và yêu cầu bộ máy chính quyền hoạt động vì lợi ích của họ và sự phát triển xã hội.

C Mác và Ph Ăngghen (1995) trong Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, nhấn mạnh rằng quyền lực nhà nước phải được thực hiện một cách hợp pháp, bảo vệ quyền lợi chính đáng và đảm bảo lợi ích cơ bản của người dân.

Dân chủ, theo định nghĩa của từ điển Oxford, là một hệ thống Chính phủ cho phép người dân bầu chọn đại diện của mình Điều này có nghĩa là người dân có quyền bầu cử và lựa chọn những đại biểu ưu tú để bảo vệ quyền lợi và lợi ích của họ Định nghĩa này cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ thống Chính phủ trong việc đảm bảo quyền bầu cử của công dân được thực hiện một cách hiệu quả.

Dân chủ, theo định nghĩa của từ điển Cambridge, là niềm tin vào sự tự do và bình đẳng giữa mọi người, hoặc một hệ thống chính quyền dựa trên niềm tin này, trong đó quyền lực được nắm giữ bởi các đại diện dân cử hoặc trực tiếp bởi chính người dân Trong các thể chế dân chủ, cử tri có quyền tham gia vào các tiến trình chính trị của quốc gia, chủ yếu thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những người đại diện mà họ ủng hộ.

Theo nhà khoa học chính trị Larry Diamond, dân chủ bao gồm bốn yếu tố chính: hệ thống chính trị cho phép lựa chọn và thay thế chính phủ qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng; sự tham gia tích cực của công dân vào chính trị và đời sống xã hội; bảo vệ quyền con người cho mọi công dân; và một nhà nước pháp quyền, nơi luật pháp và thủ tục được áp dụng bình đẳng cho tất cả.

Dân chủ, theo từ điển Hán Việt, được định nghĩa là thể chế chính trị trong đó chủ quyền quốc gia thuộc về nhân dân, cho phép họ bầu chọn đại biểu trong chính quyền Chính quyền cần lấy ý kiến nhân dân làm chuẩn mực, đảm bảo tuân thủ nguyên tắc dân chủ và không mang tính độc đoán.

4 Diamond, L., Bài giảng tại Đại học Hilla về Nghiên cứu Nhân văn ngày 21 tháng 1 năm 2004: “Dân chủ là gì” Diamond, L và Morlino, L., Phẩm chất của nền dân chủ (2016).

Dưới đây là đoạn văn đã được viết lại với nội dung chính và tuân thủ các quy tắc SEO: -Hiện nay, dân chủ đang trở thành một yếu tố quan trọng trong sự phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới Các quốc gia này không ngừng thúc đẩy việc xây dựng và phát triển dân chủ trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là trong chính trị Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức chính, cho phép người dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách hiệu quả.

Dân chủ được định nghĩa là hình thức tổ chức nhà nước mà quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ và vì lợi ích của họ Trong bối cảnh văn hóa chính trị Việt Nam, Nhà nước với các quyền lực cơ bản của mình hướng đến việc phục vụ lợi ích của nhân dân Câu slogan "Nhà của dân, do dân và vì dân" thể hiện sự tiếp thu các giá trị dân chủ phù hợp với tình hình Việt Nam.

Dân chủ là phương thức chính trị cho phép người dân, với tư cách là cử tri, tham gia vào các công việc của cộng đồng và quyết định vận mệnh quốc gia Nó không chỉ là nền tảng để người dân bảo vệ quyền lợi chính đáng mà còn đảm bảo các lợi ích cơ bản của họ Chế độ dân chủ được định nghĩa là hệ thống chính trị trong đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua các đại diện do nhân dân bầu ra.

Khái quát lịch sử phát triển và sự ảnh hưởng của dân chủ trên thế giới

và đặc biệt là những đọc giả quan tâm, chú ý đến nước Mỹ.

7 Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận ,danh mục viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có kết cấu gồm 2 chương cụ thể là:

Chương 1: Lý luận chung về dân chủ

Chương 1 trình bày khái quát một số vấn đề cơ bản về dân chủ Mỹ, cụ thể là: khái niệm, đặc trưng của dân chủ, đồng thời cung cấp cái nhìn khái quát về lịch sử phát triển của dân chủ trên thế giới hiện nay Từ đó tạo thành cơ sở lý luận chính của đề tài nhằm giải thích và luận giải vấn đề.

DÂN CHỦ MỸ TỪ LÝ THUYẾT ĐẾN THỰC TIỄN

Quan niệm về dân chủ Mỹ

2.1.1 Học thuyết dân chủ của Jeferson

Jeferson 11 Nền dân chủ Jeffersonian, được đặt theo tên của người ủng hộ nó là Thomas Jefferson , là một trong hai phong trào và quan điểm chính trị thống trị ở Hoa

Từ những năm 1790 đến 1820, những người Jeffersonians cam kết với chủ nghĩa cộng hòa của Hoa Kỳ, phản đối tầng lớp quý tộc giả tạo và tham nhũng, đồng thời nhấn mạnh vào đức hạnh và ưu tiên cho “nông dân Yeoman”, “chủ đồn điền” và “dân gian bình thường” Họ đối lập với chủ nghĩa tinh hoa của thương gia, chủ ngân hàng và công nhân nhà máy, luôn theo dõi những người ủng hộ hệ thống Westminster Thuật ngữ "Đảng Dân chủ - Cộng hòa" được sử dụng để chỉ đảng do Jefferson thành lập nhằm đối kháng với Đảng Liên bang của Alexander Hamilton Vào đầu kỷ nguyên Jeffersonian, chỉ Vermont và Kentucky thiết lập quyền đầu phiếu cho nam giới da trắng phổ thông, nhưng đến cuối thời kỳ này, hơn một nửa số bang đã làm theo, bao gồm hầu hết các bang ở Old Northwest, và chuyển sang bầu cử phổ thông cho các cuộc bầu cử tổng thống Đảng của Jefferson, nay là Đảng Dân chủ - Cộng hòa, nắm quyền kiểm soát toàn bộ bộ máy Chính phủ, từ cơ quan lập pháp tiểu bang đến Nhà Trắng.

Nền dân chủ Jeffersonian vẫn giữ vai trò quan trọng trong Đảng Dân chủ đầu thế kỷ 20, thể hiện qua sự phát triển của nền dân chủ Jacksonian và ba lần ứng cử tổng thống của William Jennings Bryan Các chủ đề này tiếp tục ảnh hưởng đến chính trị thế kỷ 21, đặc biệt giữa các đảng Tự do và Cộng hòa Jefferson đã xác định những nguyên tắc cốt lõi cho nền dân chủ mà vẫn còn vang vọng đến ngày nay.

Thomas Jefferson (1743 – 1826) là tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, người sáng lập Đảng Dân chủ - Cộng hòa và là một nhà triết học chính trị có ảnh hưởng lớn Ông được coi là một trong những người theo chủ nghĩa tự do nhiệt thành nhất trong thời cận đại.

12 Wood, The American Revolution , tr 100.

William S Dietrich (2008) trong tác phẩm "In the Shadow of the Rising Sun" đã nêu ra một vấn đề nan giải về cách dung hòa tự do cộng hòa và bình đẳng dân chủ với những thay đổi xã hội có thể gia tăng bất bình đẳng Ví dụ điển hình là điều kiện làm việc tồi tệ ở Anh trong thời kỳ đầu công nghiệp Đối với Jefferson, sự mở rộng về phía tây là lối thoát khỏi mô hình Anh, cho phép những người nông dân chăm chỉ có cơ hội sở hữu đất đai với giá hợp lý Ông tin rằng điều này sẽ giúp nước Mỹ thịnh vượng như một nước cộng hòa với công dân bình đẳng và độc lập Những ý tưởng của Jefferson đã truyền cảm hứng cho một phong trào chính trị quần chúng, đạt được nhiều khía cạnh quan trọng trong kế hoạch của ông, với nền dân chủ Jeffersonian nổi bật với những lý tưởng cốt lõi.

Giá trị chính trị cốt lõi của Mỹ là chủ nghĩa Cộng hòa, trong đó công dân có nghĩa vụ hỗ trợ nhà nước và chống lại tham nhũng, đặc biệt là chống chủ nghĩa quân chủ và tầng lớp quý tộc.

Giá trị của Jeffersonian được thể hiện rõ ràng qua việc thành lập một đảng chính trị có tổ chức, được gọi là Đảng Cộng hòa Để phân biệt với Đảng Cộng hòa của Lincoln sau này, các nhà khoa học chính trị thường gọi nó là Đảng Dân chủ – Cộng hòa.

Chính phủ quốc gia là một thực thể cần thiết nhưng tiềm ẩn nguy hiểm, được thành lập nhằm bảo vệ và đảm bảo an ninh cho người dân và cộng đồng Do đó, chính phủ cần phải được giám sát chặt chẽ và giới hạn trong quyền hạn của mình Hầu hết những người phản đối Liên bang từ năm 1787 đến 1788 đều đã gia nhập phong trào Jeffersonians.

Bốn là, Chính phủ liên bang không được vi phạm quyền của các cá nhân Các

Tuyên ngôn Nhân quyền là một chủ đề trung tâm 18

14 Jeff Taylor (2006), “Where Did the Party Go ?: William Jennings Bryan, Hubert Humphrey và Jeffersonian Legacy”, Publisher : University of Missouri; First edition (June 19, 2006).

15 Lance Banning, Jeffersonian Persuasion (1980), “Evolution of a Party Ideology”, Publisher : Cornell University Press (August 31, 1980), pp 79 – 90.

Noble E Cunningham's work, "The Jeffersonian Party by 1801: A Study of Party Organization," published in 1952 by the Omohundro Institute of Early American History and Culture and the University of North Carolina Press, explores the formation and development of the Jeffersonian party up to the year 1801.

17 Lance Banning, Jeffersonian Persuasion (1980), “Evolution of a Party Ideology”, Publisher : Cornell University Press (August 31, 1980), pp 105 – 115.

18 Robert Allen Rutland; Sự ra đời của Tuyên ngôn Nhân quyền, 1776 – 1791 (1955).

Các Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn thảo nhằm bảo vệ tự do của nhân dân, nhưng như Jefferson đã nhấn mạnh trong thư gửi James Madison năm 1789, không có xã hội nào có thể thiết lập một hiến pháp hay luật pháp vĩnh viễn, vì cuộc sống luôn thay đổi theo từng thế hệ.

Tất cả nam giới đều có quyền được cung cấp thông tin và tiếng nói trong Chính phủ, điều này phản ánh mục tiêu bảo vệ và mở rộng quyền tự do của con người của Jeffersonians Họ cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống giáo dục, tin rằng mọi công dân đều có quyền học hành bất kể hoàn cảnh hay địa vị trong cuộc sống.

2.1.2.Tư tưởng dân chủ của Lincoln

Dân chủ theo học thuyết của Lincoln gắn liền với cuộc đấu tranh thay đổi tư duy về chế độ nô lệ, nhấn mạnh quyền bình đẳng và cơ hội cho tất cả Ông phân biệt giữa các quyền tự nhiên cơ bản như tự do khỏi chế độ nô lệ và các quyền chính trị như bầu cử, cho rằng quyết định về ai thực hiện các quyền này thuộc về các bang Trước Nội chiến, cả miền Bắc và miền Nam đều hạn chế quyền bầu cử của phụ nữ và người da đen tự do Lincoln xem chế độ nô lệ là "một tệ nạn lớn" nhưng không đồng tình với những người muốn bãi bỏ ngay lập tức, mà thay vào đó, ông ủng hộ việc giải phóng dần dần nô lệ và bồi thường cho chủ sở hữu Ông cũng đề xuất viện trợ cho những nô lệ được tự do, giúp họ thành lập các thuộc địa ở nước ngoài, với hy vọng rằng họ sẽ đạt được quyền dân sự và chính trị bình đẳng tại quê hương của mình.

Năm 1832, khi bắt đầu sự nghiệp chính trị tại Illinois, Abraham Lincoln gia nhập Đảng Whig do Henry Clay lãnh đạo Mặc dù ông được cử tri Illinois bầu vào cơ quan lập pháp tiểu bang và có một nhiệm kỳ tại Hạ viện Hoa Kỳ, nhưng Lincoln vẫn chưa để lại ấn tượng đáng kể nào.

19 Jefferson thư gửi James Madison, ngày 6 tháng 9 năm 1789 | http://odur.let.rug.nl/~usa/P/tj3/writings/brf/jefl81.htm , Đã lưu trữ 2010 – 03 – 28 tại Wayback Machine.

20 Roy J Honeywell, "Một ghi chú về công việc giáo dục của Thomas Jefferson," Lịch sử giáo dục hàng quý, mùa đông năm 1969, Vol 9 Ấn bản 1, trang 64 – 72.

Abraham Lincoln, hay còn gọi là Abe Lincoln, với các tên hiệu như Honest Abe và Rail Splitter, là Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ, phục vụ từ tháng 3 năm 1861 cho đến khi bị ám sát vào tháng 4 năm 1865 Sau khi kết thúc nhiệm kỳ Quốc hội vào năm 1848, ông quyết định không tái tranh cử và đã thành lập một công ty luật thành công tại Springfield, Illinois Tuy nhiên, vào năm 1854, vấn đề mở rộng chế độ nô lệ sang các vùng lãnh thổ phía Tây đã thu hút ông trở lại chính trường.

Tư tưởng về dân chủ của Lincoln thể hiện qua quan niệm rằng “Vì tôi không phải là nô lệ, nên tôi sẽ không phải là chủ nhân,” cho thấy rằng bất kỳ điều gì khác đều không phải là dân chủ GS Borit nhận xét rằng định nghĩa của Lincoln về dân chủ trong bối cảnh chế độ nô lệ không chỉ là một thiết bị chính trị mà còn phản ánh sâu sắc suy nghĩ của ông, đặc biệt khi chế độ nô lệ trở thành phản đề của Giấc mơ Mỹ Nếu định nghĩa này được diễn đạt lại, nó có thể là: “Vì tôi không muốn cơ hội của mình bị cản trở, nên tôi sẽ không cản trở cơ hội của người khác.” Ý tưởng dân chủ tự do cơ bản là quyền tự do cá nhân được bảo đảm bởi một trật tự chính trị dân chủ, với mọi công dân bình đẳng trước pháp luật Tuy nhiên, những lý thuyết này gặp phải nhiều vấn đề trong thực tiễn chính trị Một số học giả cho rằng tư tưởng dân chủ của Lincoln thể hiện nghịch lý giữa việc chống chế độ nô lệ và cam kết bảo vệ luật chống chế độ nô lệ, tạo ra một hình ảnh phức tạp về sự bảo vệ dân chủ.

22 Abraham Lincoln, Định nghĩa về Dân chủ, ngày 1.1858, trong Roy P Basler, biên tập, Các tác phẩm được sưu tầm của Abraham Lincoln (8 quyển, New Brunswick, NJ: Rutgers University Press, 1953)

Hành xử mang giá trị dân chủ Mỹ

2.2.1 Chính sách mở rộng dân chủ dưới thời chính quyền G Bush

Chính sách mở rộng dân chủ, một phần trong học thuyết của G Bush, thể hiện sự thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ và nhằm tái thiết lập trật tự thế giới thông qua việc lan tỏa nền dân chủ bằng vũ lực Các cuộc chiến tranh ở Afghanistan và Iraq đã cố gắng thiết lập chế độ dân chủ mới, nhưng kết quả không như mong đợi Tại Afghanistan, sự trỗi dậy của Taliban và al-Qaeda đã đe dọa tính ổn định của nền dân chủ và kế hoạch xây dựng một quốc gia hòa bình Điều này cho thấy rằng, khi nền dân chủ bị áp đặt lên một thể chế chính trị yếu ớt từ bên ngoài, thường dẫn đến sự oán giận và ngờ vực đối với cường quốc chiếm đóng.

Làn sóng chỉ trích mạnh mẽ đối với chủ nghĩa bá quyền của Mỹ đã chỉ ra rằng chính sách bành trướng dân chủ của Bush không đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của các quốc gia khác Để duy trì sự ủng hộ toàn cầu, Mỹ cần phải ưu tiên xây dựng các mục tiêu và luật lệ chiến lược, phù hợp với đạo đức, nhằm tránh mất đi sự hỗ trợ từ các quốc gia khác Sự thiếu gắn kết chính trị giữa quốc gia bá quyền và các nước còn lại có thể ảnh hưởng lớn đến sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ ở nước ngoài Thách thức lớn nhất với chính sách dân chủ của Bush không chỉ nằm ở việc can thiệp quân sự mà còn ở việc cân bằng những mục tiêu tham vọng này.

Học thuyết hòa bình dân chủ, được trình bày trong cuốn sách "The Case for Democracy" của Natan Sharansky và Ron Derner, nhấn mạnh sự cần thiết mở rộng hệ tư tưởng tự do dân chủ ra các quốc gia khác nhằm giải phóng họ khỏi chế độ độc tài Tác giả lập luận rằng các quốc gia có nền dân chủ vững mạnh sẽ không xung đột vũ trang với nhau, từ đó hướng đến việc tiêu diệt các quốc gia độc tài và mở rộng thể chế dân chủ Tổng thống Bush đã trích dẫn lý thuyết này để làm cơ sở cho chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong giai đoạn đó, trong khi học thuyết Bush và chính sách dân chủ trở thành những yếu tố chủ chốt trong việc điều chỉnh các chính sách đối ngoại của Mỹ, dựa trên nền tảng của chủ nghĩa hiện thực dân luân lý.

2.2.2 Chính sách thúc đẩy dân chủ của chính quyền Obama

Vào ngày 4 tháng 11 năm 2008, Barack Obama được bầu làm tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ, đánh dấu một thời điểm quan trọng trong lịch sử dân chủ Mỹ Chiến thắng của ông phản ánh sự thay đổi trong bối cảnh lịch sử chủng tộc của quốc gia, khi một quốc gia từng được xây dựng trên chế độ nô lệ có thể bầu chọn một tổng thống da đen Ngân sách đầu tiên của Obama cũng cho thấy cam kết của ông trong việc thúc đẩy dân chủ, với việc tăng gấp đôi viện trợ nước ngoài mặc dù tình hình kinh tế khó khăn Freedom House ghi nhận rằng yêu cầu ngân sách năm 2010 cho "Quản lý công bằng và dân chủ" đã tăng 234 triệu đô la so với năm 2009, nhưng cũng lưu ý về đề xuất cắt giảm tài trợ cho các hoạt động của USAID.

25 Dickerson, John F (January 10, 2005), “What the president reads”, TIME.

26 Carol C Adelman & Nicholas Eberstadt (2009), “Help That Help: Một mô hình kinh doanh mới cho viện trợ nước ngoài”, The Weekly Standard , ngày 31 tháng 8 năm 2009, Tập 14, Số 46.

Vào năm 2009, yêu cầu ngân sách của Chính quyền Obama đã tăng lên 808 triệu đô la, đồng thời bao gồm một khoản cắt giảm lớn đối với Tập đoàn Thử thách Thiên niên kỷ, một trong những sáng kiến quan trọng của Tổng thống Bush, với mức giảm lên tới 669 triệu đô la, tương đương 40%.

Do sự chú trọng lớn vào chương trình tự do của Bush tại Trung Đông, các nhà quan sát đã theo dõi cam kết của Barack Obama trong việc thúc đẩy dân chủ Theo phân tích của Dự án về Dân chủ Trung Đông, yêu cầu ngân sách cho năm 2010 cho khu vực Trung Đông và Bắc Phi lên tới 1,5 tỷ đô la cho “Quản lý công bằng và dân chủ,” chiếm 14% tổng viện trợ nước ngoài của Mỹ cho BMENA, tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay Mặc dù 86% chi tiêu được yêu cầu tập trung vào Iraq, Afghanistan và Pakistan, nhưng cũng có sự gia tăng đầu tư cho các quốc gia khác trong khu vực, từ 191 triệu đô la trong năm tài chính 2009 lên 219 triệu đô la trong năm tài chính 2010 Yêu cầu ngân sách còn bao gồm 86 triệu đô la cho Sáng kiến Đối tác Trung Đông (MEPI), một trong những chương trình quan trọng của Bush.

Dự án về Dân chủ Trung Đông chỉ ra rằng ngân sách năm 2010 của Hoa Kỳ gửi đi tín hiệu trái chiều về việc thúc đẩy nền dân chủ Mặc dù tổng yêu cầu tăng, đặc biệt là cho USAID ở Lebanon, Morocco và Yemen, nhưng yêu cầu đối với Ai Cập và Jordan đã giảm hơn 40%, cùng với gần 30% cắt giảm cho các chương trình xã hội dân sự ở thế giới Ả Rập Các nhà phê bình cho rằng những cắt giảm này, đặc biệt ở Ai Cập, phản ánh sự hạ cấp dân chủ theo chủ nghĩa hiện thực vì lợi ích khác của Hoa Kỳ Tuy nhiên, một cuộc kiểm toán của USAID cho thấy hơn 180 triệu đô la hỗ trợ dân chủ cho Ai Cập trong bốn năm trước đã tạo ra một số kết quả có thể đo lường được, chủ yếu do nỗ lực của Chính phủ Ai Cập để ngăn chặn chúng.

28 Ashtar Analeed Marcus, “USAID thu được 808 triệu đô la trong chi phí hoạt động”, FrontLines , tháng 4 năm

2009 http://www.usaid.gov/press/frontlines/fl_apr09/p1_budget040901.html

Theo báo cáo của Stephen McInerney về ngân sách liên bang và các khoản phân bổ cho năm tài chính 2010, một cuộc kiểm toán của USAID vào tháng 7 năm 2009 chỉ ra rằng hơn 180 triệu đô la hỗ trợ dân chủ cho Ai Cập trong bốn năm trước đã tạo ra một số kết quả có thể đo lường được, nhưng chủ yếu bị cản trở bởi nỗ lực của Chính phủ Ai Cập Hơn nữa, việc cắt giảm tài trợ cho các chương trình xã hội dân sự ở Ai Cập là hệ quả của các hạn chế từ Chính phủ Ai Cập, buộc các cơ quan Hoa Kỳ phải hợp tác với các đối tác do Chính phủ tài trợ.

Chiến lược của chính quyền Mỹ đối với Iraq, Afghanistan và Pakistan thể hiện cam kết không bỏ qua vấn đề dân chủ hóa trong bối cảnh an ninh quốc gia Tổng thống Obama đã công bố chiến lược mới cho Afghanistan và Pakistan vào tháng 3 năm ngoái, kêu gọi tăng cường nỗ lực dân sự nhằm nâng cao năng lực dân chủ Ông cũng đã ký Đạo luật Đối tác Tăng cường với Pakistan, dự kiến tăng gấp ba lần viện trợ phi quân sự cho Pakistan lên khoảng 1,5 tỷ đô la/năm trong năm năm tới, nhằm củng cố nền dân chủ và pháp quyền Trong yêu cầu bổ sung ngân sách năm 2009, tổng thống nhấn mạnh sự cần thiết hỗ trợ các chính phủ có trách nhiệm, bao gồm 295 triệu USD cho Afghanistan và 262 triệu USD cho Iraq trong các hoạt động dân chủ và quản trị.

30 Ken Dilanian (2009), “Hoa Kỳ cản trở nỗ lực dân chủ cho Ai Cập”, USA Today , ngày 28 tháng 10 năm 2009.

31 Tara McKelvey (2009), “Dân chủ có phải là lời nói bẩn thỉu không?”, American Prospect , ngày 7 tháng 12 năm 2009.

32 Barack Obama (2009), “Nhận xét của Tổng thống về Chiến lược mới cho Afghanistan và Pakistan”, Ngày 27 tháng 3 năm 2009.

33 Quan hệ đối tác tăng cường với Đạo luật Pakistan năm 2009 Luật Công 111–73—15 tháng 10 năm 2009.

Tây & Gaza và 20 triệu USD cho Georgia 34 thể hiện những nỗ lực nhằm phản bác những chỉ trích đối với chính sách đối ngoại của Barack Obama, cho rằng ông đã từ bỏ truyền thống dân chủ của Hoa Kỳ Bằng chứng ngày càng rõ ràng cho thấy chính quyền của ông đang xây dựng một luận điệu mới về dân chủ, nhằm tạo khoảng cách với thời kỳ Bush Bài phát biểu của tổng thống tại Cairo vào ngày 4 tháng 6 đã đánh dấu tuyên bố quan trọng đầu tiên của ông về nền dân chủ.

Tôi tin rằng mọi người đều khao khát quyền tự do bày tỏ suy nghĩ, sự công bằng trong pháp luật, chính phủ minh bạch và quyền sống theo cách họ chọn Đây không chỉ là giá trị của người Mỹ mà còn là nhân quyền toàn cầu Ông Obama đã chỉ ra rằng các cuộc bầu cử không đủ để định nghĩa một nền dân chủ, mà cần có một hệ thống quyền và thể chế vững mạnh Trong các phát biểu của mình, ông nhấn mạnh tự do tôn giáo và quyền phụ nữ, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của các chính phủ dân chủ trong việc chống tham nhũng và quản lý hiệu quả để giải quyết các vấn đề ở châu Phi Ông khẳng định rằng dân chủ và nhân quyền là điều thiết yếu cho việc đạt được các mục tiêu toàn cầu như không phổ biến vũ khí hạt nhân, bảo vệ môi trường và duy trì hòa bình.

On April 9, 2009, the Office of Management and Budget released a supplemental budget allocation request for the fiscal year 2009, detailing the operational needs of the President's office For more information, visit the official document at the White House website.

35 Barack Obama (2009), “Nhận xét của Tổng thống về một khởi đầu mới Đại học Cairo, Cairo, Ai Cập”, ngày 4 tháng 6 năm 2009.

36 Barack Obama, Phát biểu của Tổng thống trước Quốc hội Ghana Accra, Ghana Ngày 11 tháng 7 năm 2009.

29 kinh tế toàn cầu 37 Và trong bài phát biểu nhận giải Nobel tại Oslo vào ngày 11 tháng

Tổng thống nhấn mạnh rằng nền hòa bình bền vững phải dựa trên nhân quyền, và Hoa Kỳ cam kết ủng hộ những giá trị này như là những giá trị phổ quát.

Các bài phát biểu của Obama đã làm giảm bớt lời hùng biện về dân chủ và nhân quyền, nhưng vẫn thể hiện khát vọng rộng rãi Ngoại trưởng Clinton đã chỉ ra mối liên hệ giữa phát triển, dân chủ và nhân quyền, nhấn mạnh rằng cần tập trung vào xã hội thay vì chỉ các Chính phủ khi can dự ở nước ngoài Trong chuyến công du châu Phi, bà đã chỉ trích các nhà cầm quyền Nigeria và Kenya về tham nhũng, đồng thời nhấn mạnh rằng phát triển ở châu Phi cần có các nền dân chủ hoạt động "Ba chữ D" của Clinton không bác bỏ dân chủ hóa mà diễn giải nó qua lăng kính phát triển, khẳng định rằng dân chủ hóa là một mục tiêu không thể thiếu trong quá trình phát triển Chính quyền hiện nay thể hiện quan điểm phát triển về dân chủ và ngược lại, cho thấy sự phát triển là mệnh lệnh chiến lược, kinh tế và đạo đức để thúc đẩy lợi ích.

Mỹ cam kết giải quyết các vấn đề toàn cầu thông qua ngoại giao và quốc phòng, đồng thời tập trung vào phát triển Một trong những mục tiêu chính trong nỗ lực ngoại giao của chúng tôi là thúc đẩy dân chủ và nhân quyền trên toàn thế giới.

Ngày đăng: 10/09/2021, 14:04

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w