MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 5 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Hàn Quốc 5 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam 7 2. Lý do chọn đề tài 10 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 12 4. Phương pháp nghiên cứu và hướng tiếp cận 12 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 13 CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 14 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 14 1.1.1. Lý thuyết về xung đột xã hội và phong trào xã hội 14 1.1.1.1. Xung đột xã hội 14 1.1.1.2. Phong trào xã hội 17 1.1.1.3. Hành vi chính trị 18 1.1.2. Các khái niệm công cụ sử dụng trong nghiên cứu vấn đề 20 1.1.2.1. Dân chủ 20 1.1.2.2. Đấu tranh dân chủ 21 1.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 23 1.2.1. Tình hình kinh tế Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) 23 1.2.1.1. Tăng trưởng kinh tế liên tục, ổn định và bền vững 23 1.2.1.2. Cơ chế vận hành “Chính phủ cứng và thị trường mềm” 24 1.2.1.3. Tăng cường mở rộng thị trường xuất nhập khẩu 25 1.2.1.4. Mức sống của người dân được cải thiện 26 1.2.2. Tình hình chính trị Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) 28 1.2.2.1. Đệ tứ Cộng hòa (1972 1979): Tham vọng độc tài của Tổng thống Park Chung Hee và sự ra đời thể chế Duy tân 28 1.2.2.2. Đệ ngũ Cộng hòa (1980 1988): Chính quyền Chun Doo Hwan và sự củng cố chế độ độc tài quân sự 29 1.2.3. Tình hình xã hội Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) 32 1.2.3.1. Sự biến đổi cơ cấu xã hội Hàn Quốc 32 1.2.3.2. Sự hình thành xã hội dân sự hậu thuẫn của phong trào sinh viên 35 1.2.3.3. Sự bùng nổ của giáo dục các cấp (đặc biệt là giáo dục cấp đại học và sau đại học) 36 Tiểu kết 38 CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN HÀN QUỐC (THẬP NIÊN 1970 – THẬP NIÊN 1980) 40 2.1. Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc thập niên 1970 40 2.1.1. Thời kỳ phát triển (1971 – 1973) 40 2.1.2. Thời kỳ suy yếu (1973 – 1975) 42 2.1.3. Thời kỳ phục hồi (1975 – 1979) 45 2.1.4. Phong trào Buma và Biến cố 26101979 48 2.2. Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc thập niên 1980 49 2.2.1. Thời kỳ “Mùa xuân Seoul” (1980) 49 2.2.2. Phong trào đấu tranh dân chủ Gwangju (51980) 51 2.2.3. Thời kỳ tạm lắng “hậu Gwangju” (1980 1985) 57 2.2.4. Thời kỳ phục hồi và phát triển cao trào (1985 1987) 60 2.2.5. Phong trào Dân chủ tháng Sáu (1987) 61 2.2.6. Thời kỳ đầu Đệ lục Cộng hòa (1988 1990) 64 Tiểu kết 65 CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ CỦA 68 SINH VIÊN HÀN QUỐC (THẬP NIÊN 1970 – THẬP NIÊN 1980) 68 3.1. Sinh viên là lực lượng tiên phong trong tiến trình dân chủ hóa 68 3.2. Mục đích đấu tranh từ dân chủ hóa trường học đến dân chủ hóa xã hội 71 3.3. Tận dụng thế mạnh từ địa bàn đô thị 73 3.4. Hình thức đấu tranh đa dạng từ ôn hòa đến bạo động 75 3.5. Tính liên kết rộng rãi 76 3.5.1. Tính liên kết giữa phong trào sinh viên các trường đại học 76 3.5.2. Tính liên kết giữa phong trào sinh viên với lực lượng xã hội khác 77 3.6. Phản ánh đặc tính dân tộc và đặc tính thế hệ 79 3.6.1. Biểu hiện của đặc tính dân tộc 79 3.6.2. Biểu hiện của “đặc tính thế hệ” 81 Tiểu kết 84 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Hàn Quốc Nghiên cứu về phong trào sinh viên hiện đại ở Hàn Quốc đã xuất hiện từ cuối những năm 1980, tuy nhiên do những sự kiểm duyệt của chính quyền độc tài quân sự nên những nghiên cứu về vấn đề này bị hạn chế, có những công trình sau khi xuất bản bị cấm và buộc phải thu hồi. Lĩnh vực này mới được quan tâm nghiên cứu trở lại từ khoảng những năm 2005 trở lại đây, tập trung vào 2 hướng chính như sau: Nghiên cứu tổng quan lịch sử phong trào sinh viên Trong công trình Lịch sử phong trào sinh viên Hàn Quốc 1945 1979 (NXB Para Books. 2011), nhà nghiên cứu Hàn Quốc Lee Jae Oh đã giới thiệu tổng quan về sự hình thành lực lượng học sinh sinh viên Hàn Quốc sau giải phóng, sau đó phân tích diễn biến phong trào học sinh sinh viên theo từng thập niên từ thập niên 1940 đến hết thập niên 1970 và cuối cùng rút ra ý nghĩa của từng giai đoạn. Ông đã sử dụng kết hợp nhiều nguồn tư liệu khác nhau từ các trung tâm lưu trữ, niên giám, báo chí, các tài liệu về phong trào học sinh sinh viên quốc tế… Đặc biệt hơn, tác giả cũng chính là người đã trực tiếp tham gia đấu tranh chống chế độ độc tài trong hàng ngũ của phong trào sinh viên. Giáo sư Lee Chang Un (Đại học Hansin) trong cuốn Phong trào sinh viên thời kỳ Park Chung Hee (2014) tập trung nghiên cứu cụ thể về phong trào sinh viên Hàn Quốc dưới thời kỳ chính quyền Park Chung Hee (1961 1979). Ông đã sử dụng phương pháp tiếp cận lịch sử, văn hóa chính trị, mục đích nghiên cứu xoay quanh vấn đề “Đặc trưng cơ bản mang tính phản kháng của sinh viên dưới thể chế Duy tân đã được hình thành như thế nào?” (Lee Chang Un: 2014: 8). Lee Chang Un đã có những đóng góp lớn trong việc phân tích và đánh giá văn hóa đấu tranh cũng như ý thức hóa tổ chức của phong trào sinh viên. Tiếp cận phong trào dưới một góc độ khác, các tác giả Lee Ho Ryong, Jung Geun Sik trong công trình Thời đại của phong trào sinh viên (2013) đã tập trung phân tích sự hình thành của “ý niệm tổ chức” trong phong trào sinh viên, cơ chế của phong trào, mối liên hệ giữa phong trào với các tổ chức, đảng phái chính trị và sự chuyển đổi trong văn hóa đấu tranh của sinh viên dựa trên cơ sở phương pháp luận chính trị học. Để thực hiện nghiên cứu này, các tác giả đã tiến hành điều tra tại nhiều trường đại học lớn ở Hàn Quốc nơi phong trào sinh viên phát triển mạnh như Đại học Quốc gia Seoul, Đại học Korea, Đại học Yeonsei, Đại học Gyeongbuk, Đại học Incheon,… Nhìn chung, các công trình đã cung cấp những dữ liệu, đánh giá tổng quan về phong trào sinh viên Hàn Quốc đặc biệt trên các góc nhìn lịch sử và chính trị học. Tuy nhiên, vẫn còn một số mảng trống chưa được khai thác trong các công trình này. Trước hết, đó là thiếu những nghiên cứu tổng quan về phong trào sinh viên trên phạm vi cả nước thập niên 1980 (các nhà nghiên cứu như Lee Jae Oh hay Lee Chang Un mới chỉ dừng lại ở năm 1979 tức là hết nền cộng hòa thứ tư). Thứ hai, phương pháp tiếp cận dựa trên xã hội học để lý giải mô hình xung đột xã hội giữa lực lượng sinh viên và nhà cầm quyền, phương thức giải quyết xung đột,… hay phương pháp tiếp cận văn hóa học để lý giải cơ chế ảnh hưởng từ các yếu tố văn hóa truyền thống và hiện đại đến phong trào sinh viên vẫn còn là một hướng tiếp cận mới chưa được đề cập trong nghiên cứu phong trào sinh viên trước đó.Đề tài nghiên cứu của chúng tôi hy vọng có thể bổ sung thêm về mặt phạm vi nghiên cứu cũng như những hướng tiếp cận mới trong việc phân tích, làm rõ về phong trào sinh viên đặc biệt là phong trào dân chủ của sinh viên Hàn Quốc. Những nghiên cứu về các phong trào sinh viên cụ thể: Ngoài những nghiên cứu mang tính tổng quát về phong trào sinh viên trên phạm vi cả nước, còn có các công trình nghiên cứu mang tính cục bộ về phong trào sinh viên của cụ thể từng trường đại học, phong trào sinh viên Cơ đốc giáo, phong trào sinh viên của các địa phương hoặc tập trung nghiên cứu một phong trào nổi bật.Đây là nguồn tư liệu quý báu với nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động, có thể hỗ trợ cho việc nghiên cứu tổng quan về lịch sử phong trào sinh viên Hàn Quốc. Các công trình nghiên cứu theo hướng này có thể kể đến như: 조병호. 2005., 한국기독청년학생운동 100 년사산책. 땅에쓰싞글씨 (Jo Byung Ho. 2005. Dạo qua lịch sử 100 năm phong trào thanh niên sinh viên Cơ đốc giáo Hàn Quốc); 강대민. 2003. 부산지역학생운동사. 국학자료원 (Kang Dae Min. 2003. Lịch sử phong trào sinh viên khu vực Busan. Viện tư liệu Quốc học); 고려대학교 100 년사편찬위원회. 2005. 고려대학교학생운동사. 고려대학교출판부 (Hội đồng Biên soạn Lịch sử 100 năm Đại học Korea. 2005. Lịch sử phong trào sinh viên Đại học Korea. Nhà xuất bản Đại học Korea); 정진위. 2013. Y 대학생처장이본 1980 년대 학생민주화운동, 연세대학교대학 출판문화원 (Jung Jin Wi. 2013, Phong trào dân chủ hóa của sinh viên thập niên 1980 nhìn từ sinh viên Đại học Yonsei. Viện văn hóa xuất bản đại học Đại học Yeonsei); 6.3 동지회. 2001. 6.3 학생운동사, 역사비평사 (Hội đồng chí 6.3. 2001. Lịch sử phong trào sinh viên 6.3. NXB Phê bình lịch sử)… Việc khai thác các nguồn tư liệu trên sẽ cung cấp những dẫn chứng cụ thể để minh chứng cho sự phát triển của phong trào sinh viên. Tuy nhiên, do đặc thù nghiên cứu cục bộ nên kết luận của các công trình nghiên cứu trên không thể đại diện cho phong trào sinh viên trên phạm vi cả nước. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành khai thác theo hướng bỏ qua những khác biệt, tiến hành phân tích và tìm ra những điểm có tính khái quát, đại diện cho phong trào sinh viên Hàn Quốc thời kỳ thập niên 1970 1980. 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam Nghiên cứu về Hàn Quốc học đặc biệt trong lĩnh vực chính trị Hàn Quốc ở Việt Nam có sự ra đời muộn màng hơn rất nhiều so với những ngành khoa học khác. Trong suốt 20 năm tồn tại và phát triển của Hàn Quốc học Việt Nam, số lượng các bài viết liên quan đến đời sống chính trị Hàn Quốc chiếm chưa đến 7% tổng số bài nghiên cứu đã công bố. Con số 7% đó đã “bao gồm cả các công trình nghiên cứu của những nhà Hàn Quốc học và không chuyên” (Hoàng Văn Việt: 2015: 3652). Điều đó cho thấy, các vấn đề liên quan đến chính trị còn chưa được khai thác, quan tâm đúng mực. Phong trào sinh viên đặc biệt là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 1980) vẫn còn là một vấn đề đang bỏ ngỏ trong các nghiên cứu về Hàn Quốc tại Việt Nam. Thay vào đó, các nhà nghiên cứu Hàn Quốc học Việt Nam hiện nay đang đặt sự quan tâm nhiều hơn vào nghiên cứu tiến trình dân chủ hóa, sự chuyển biến từ chế độ dân chủ đại nghị vay mượn (thời kỳ Tổng thống Rhee Syngman) đến chế độ độc tài quân sự và sau đó lại chuyển về chế độ dân chủ. Các công trình nghiên cứu về dân chủ hóa Hàn Quốc ở Việt Nam hiện nay có thể kể đến một số công trình như: Hệ thống chính trị Hàn Quốc hiện nay (Hoàng Văn Việt. 2006. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh); Lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc (Chung Il Jun, Nguyễn Thị Thắm, Đỗ Hùng Mạnh. 2013. Seoul: Nhà xuất bản Imagine Books); Dân chủ hóa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam, (Lê Thị Thu Mai. 2016. Luận án Tiến sĩ Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh). Trong đó, mỗi công trình lại lựa chọn những hướng tiếp cận và cách giải quyết vấn đề khác nhau. Công trình Lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc của nhóm tác giả Chung Il Jun, Nguyễn Thị Thắm, Đỗ Hùng Mạnh (2013) là một phần của bộ sách Châu Á và Hàn lưu: Giáo trình Hàn Quốc học. Đây là một trong số ít những công trình nghiên cứu tổng quan về lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc tại Việt Nam. Trong công trình này, các tác giả đã phân tích lịch sử hiện đại Hàn Quốc dựa trên bốn đối tượng chủ yếu là: chính quyền, nhà nước, xã hội chính trị và xã hội dân sự. Công trình tập trung phân tích diễn biến, đặc điểm của từng nền cộng hòa (từ năm 1948 đến năm 2008). Trong đó, dân chủ hóa và phong trào sinh viên được nhắc đến như một thành phần quan trọng của lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc. Các tác giả đã điểm qua những phong trào đấu tranh nổi bật cùng hệ quả của nó đối với nền chính trị, tuy nhiên, do đây không phải là công trình nghiên cứu lấy đối tượng trọng tâm là quá trình dân chủ hóa hay phong trào sinh viên nên các sự kiện mới chỉ được phân tích một cách sơ lược, chủ yếu được sử dụng như một dữ liệu lịch sử, dẫn chứng để chứng minh cho sự phát triển của lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc. Các yếu tố khác như đặc trưng của quá trình dân chủ hóa nói chung, phong trào sinh viên nói riêng cùng các nhân tố ảnh hưởng chưa được phân tích một cách cụ thể, rõ ràng. Tuy nhiên, đây vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong việc khai thác các dẫn chứng về sự vận động và phát triển của lịch sử chính trị Hàn Quốc hiện đại. Trong công trình Dân chủ hóa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam, nhà nghiên cứu Lê Thị Thu Mai với phương pháp tiếp cận chính trị học đã phân tích một cách cụ thể quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc dưới ba góc nhìn ba “nội dung cơ bản của dân chủ hóa” (Lê Thị Thu Mai: 2016: 77), đó là: (1) Mức độ phát triển của nền kinh tế; (2) Mức độ phát triển của nhà nước pháp quyền và (3) Mức độ phát triển của xã hội dân sự. Tác giả cũng đã chỉ ra những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc trong đó chia ra làm ba nhóm cụ thể bao gồm: nhân tố kinh tế; nhân tố chính trị, văn hóa, xã hội và nhân tố quốc tế. Về nhận xét, đánh giá, tác giả đã chỉ ra một số đặc trưng cơ bản của dân chủ hóa ở Hàn Quốc như: (1) Dân chủ hóa ở Hàn Quốc là một “quá trình đánh đổi bằng máu và nước mắt” (Lê Thị Thu Mai. 2016, tr.131), nghiệt ngã nhưng ngày càng hướng tới dân chủ và tự do; (2) Sử dụng những giá trị dân chủ, pháp quyền của phương Tây làm công cụ cho quá trình dân chủ hóa đất nước; (3) Xây dựng được một nền kinh tế thần kỳ, xã hội phát triển năng động, phát huy nguồn lực con người; (4) Đẩy mạnh kinh tế thị trường với sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước, nâng cao quyền giám sát của người dân; (5) Tập trung phát triển kinh tế trước sau đó mới phát triển các giá trị dân chủ; (6) Coi trọng chủ nghĩa cộng đồng và tính đồng thuận, trật tự xã hội. Về cơ bản, công trình đã cung cấp những thông tin tổng quan cùng thang công cụ cụ thể, rõ ràng phục vụ nghiên cứu, phân tích về quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Lê Thị Thu Mai đã chỉ ra được một số đặc trưng cơ bản của quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc với tính khách quan, giá trị khoa học cao. Tuy nhiên, do đặc trưng sử dụng chủ yếu là phương pháp tiếp cận chính trị học nên công trình nghiên cứu vẫn tồn tại một số hạn chế. Ví dụ như, nhân tố về văn hóa truyền thống, đặc trưng dân tộc của Hàn Quốc đã được nhắc đến tuy nhiên cơ chế ảnh hưởng, những nguyên nhân và biểu hiện của nó trong quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc vẫn chưa được phân tích rõ ràng. Trong phần phân tích về sự phát triển của xã hội dân sự, tác giả có nhắc đến phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở như một hiện tượng, nên vai trò của phong trào sinh viên đối với quá trình dân chủ hóa đã bị bỏ qua. Như vậy, có thể nhận thấy rằng, phong trào dân chủ của sinh viên Hàn Quốc vẫn còn là một đề tài mới chưa được khai thác trong giới nghiên cứu Hàn Quốc học ở Việt Nam, trong một số công trình, phong trào đã được đề cập đến tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở mức độ điểm qua hiện tượng, chưa đánh giá hết được những đặc điểm, vai trò, tác động của lực lượng sinh viên trong tiến trình dân chủ hóa. Trong đề tài nghiên cứu này, người viết sẽ tập trung vào hướng nghiên cứu về phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên trên phạm vi cả nước. Thông qua khảo sát tiến trình phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên (thập niên 1970 – thập niên 1980) để rút ra những đặc trưng cơ bản cùng những ảnh hưởng, tác động cũng như vai trò của nó trong lịch sử Hàn Quốc hiện đại. 2. Lý do chọn đề tài Theo thống kê của cơ quan Economist Intelligence Unit’s Index of Democracy (EIU) thuộc tạp chí The Economist (Anh) về mức độ dân chủ của các quốc gia trên thế giới dựa trên chỉ số DI1, Hàn Quốc đứng thứ 22 trên thế giới và đứng đầu châu Á về mức độ dân chủ mới mức điểm 7.9710.0.2 Vậy, lý do gì đã khiến cho Hàn Quốc từ một nước chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi ý thức hệ phong kiến với hệ thống tôn ty trật tự kéo dài suốt hơn 1.500 năm và chưa hề có truyền thống dân chủ thời kỳ tiền hiện đại lại có thể nhanh chóng tiếp thu và phát triển các giá trị về mặt dân chủ đến như vậy? Đầu thập niên 1960, đất nước Hàn Quốc khi ấy mới bước ra khỏi cuộc chiến tranh liên Triều thảm khốc dẫn đến sự chia cắt lâu dài hai miền Nam Bắc. Hàn Quốc đứng vào hàng những quốc gia nghèo đói, kém phát triển nhất trên thế giới. Chỉ trong vòng 20 năm, từ vũng bùn của chiến tranh, Hàn Quốc đã xác lập nên “kì tích sông Hàn” (한강기적) khiến cả thế giới phải thán phục. Xét trên góc độ tích cực, có thể thấy đây là một nỗ lực phi thường của dân tộc Hàn Quốc cùng những chính sách nắm bắt cơ hội, thu hút đầu tư của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, trên một góc độ khác, có thể thấy được, sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ thời kì 1960 1980 đến từ sự o bế và đè nén quyền lợi của người lao động của chính quyền độc tài quân sự. Hai mươi năm phát triển kinh tế vượt trội đó cũng chính là hai mươi năm người Hàn Quốc đấu tranh không mệt mỏi yêu cầu dân chủ hóa chính trị xã hội. Trong tiến trình dân chủ hóa tại Hàn Quốc, giới sinh viên đóng một vai trò quan trọng, là lực lượng tiên phong, góp phần thúc đẩy dân chủ hóa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở Hàn Quốc trong những thập niên 1960 1980. Lực lượng sinh viên Hàn Quốc với những đặc thù về lứa tuổi, vị thế xã hội, sự nhạy cảm về chính trị tư tưởng đã nhanh chóng vươn lên trở thành một trong những nguồn lực thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc. Trên phương diện lứa tuổi, giới sinh viên nói chung và sinh viên Hàn Quốc nói riêng bao gồm phần lớn là thanh niên, với sức trẻ, nhiệt huyết dồi dào, có nhu cầu hiểu biết thế giới, hiểu biết xã hội và đặc biệt là khát khao bứt phá, khẳng định bản thân. 1 Chỉ số DI hay Chỉ số Dân chủ, viết tắt của thuật ngữ Democracy Index 2 Tham khảo: Economist Intelligence Unit (2015), Democracy Index 2015 Democracy in an age of anxiety, The Economist. http:www.eiu.compublictopical_report.aspx?campaignid=DemocracyIndex2015, truy cập ngày 25122016. Ngoài ra, họ cũng là đối tượng có khả năng phát triển năng lực tư duy cao, đặc biệt là tư duy lý luận. Trên phương diện xã hội, sinh viên là lực lượng có vị thế xã hội đặc biệt, bao gồm những thành phần tinh hoa của giới thanh niên sẽ gánh vác xã hội tương lai. Trong một xã hội đặc biệt coi trọng vấn đề giáo dục như Hàn Quốc, sinh viên trở thành đối tượng nhận được sự quan tâm, giáo dục, tạo điều kiện của toàn xã hội. Trên phương diện chính trị tư tưởng, sinh viên là đối tượng nhạy cảm trước những vấn đề chính trị. Đặc biệt, từ sau khi giành độc lập, giới sinh viên Hàn Quốc đã được tiếp cận nhanh chóng với những khái niệm như chủ nghĩa tự do, bình đẳng, dân chủ, dân chủ hóa,… Họ quen thuộc với truyền thông xã hội và nhanh chóng nắm bắt những xu hướng mới của xã hội hiện đại. Với những đặc trưng lực lượng như trên, phong trào đấu tranh dân chủ do giới sinh viên lãnh đạo tại Hàn Quốc đã trở thành tiếng nói phản biện xã hội mạnh mẽ trước sự đàn áp của chính quyền độc tài quân sự. Họ những người sinh viên trẻ nhạy cảm với thời thế, tiếp thu nhanh chóng những giá trị dân chủ, tiến bộ của phương Tây và sẵn sàng đem nhiệt huyết của mình để phục vụ xây dựng đất nước. Họ cũng chính là những người đã sẻ chia gánh nặng của tầng lớp lao động đang bị chính quyền đè nén. Trong bối cảnh tiếng nói của các đảng đối lập và xã hội dân sự tỏ ra yếm thế, phong trào sinh viên đã nổi lên như một hiện tượng xã hội đặc biệt, dẫn đầu và thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa đi đến thành công. Nghiên cứu về phong trào sinh viên cùng những đặc điểm của nó sẽ góp phần làm sáng tỏ cho quá trình dân chủ hóa tại Hàn Quốc, đồng thời rút ra nhiều bài học kinh nghiệm cho các nước đang tìm kiếm con đường dân chủ hóa. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu về Hàn Quốc học tại Việt Nam, vấn đề phong trào học sinh sinh viên Hàn Quốc đặc biệt là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên là một lĩnh vực mới chưa được quan tâm, tìm hiểu một cách đầy đủ. Đề tài Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) hy vọng có thể làm sáng tỏ bức tranh tổng quan trong đó nhấn mạnh đến các nhân tố ảnh hưởng, đặc điểm và tác động của phong trào đối với tình hình chính trị xã hội Hàn Quốc. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn giai đoạn 1972 1987, đây là giai đoạn phong trào đấu tranh dân chủ hóa ở Hàn Quốc lên đến đỉnh cao và thành công trong việc chuyển đổi từ chính quyền độc tài quân sự sang chính quyền dân sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Tìm hiểu quá trình đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) tiếp cận trên hai nội dung chính: diễn biến quá trình đấu tranh và đặc điểm phong trào đấu tranh. Nhiệm vụ nghiên cứu: Với mục đích nghiên cứu trên, đề tài xác định các nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện như sau: (1) Phác họa bối cảnh lịch sử chính trị kinh tế xã hội Hàn Quốc trong hai thập niên 1970 – 1980 từ đó xác định rõ những nhân tố tác động đến quá trình đấu tranh dân chủ của sinh viên. (2) Qua việc phân tích quá trình đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980) chỉ rõ những bước phát triển, chuyển biến của phong trào, tác động của phong trào đối với tiến trình dân chủ hóa nói chung. (3) Phân tích đặc trưng cơ bản của phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc trên các phương diện: lực lượng lãnh đạo, địa bàn, phương pháp tổ chức, tính liên kết,.. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu và hƣớng tiếp cận Hướng tiếp cận liên ngành: đề tài sử dụng các kiến thức liên ngành lịch sử học, xã hội học, chính trị học,… để có cái nhìn tổng quan, đa diện về phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc. Phương pháp lịch sử và phương pháp logic: Người viết sử dụng các nguồn tư liệu nhằm tái hiện trung thực quá trình nảy sinh và phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ sinh viên Hàn Quốc theo trình tự thời gian và không gian. Thông qua phân tích, loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, làm sáng tỏ bản chất, những đặc điểm cơ bản, quy luật vận động và phát triển khách quan của phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc không tách rời khỏi bối cảnh thời gian và không gian mà nó diễn ra. Phương pháp tổng hợp tư liệu: Về tư liệu văn bản, bài nghiên cứu tiến hành khảo cứu các tư liệu về lịch sử phong trào sinh viên tập trung vào Báo cáo tổng kết của Hội kỷ niệm sự nghiệp vận động dân chủ hóa, các sách chuyên khảo đã xuất bản của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc,… Bên cạnh đó, chúng tôi cũng bước đầu khảo sát các tư liệu phỏng vấn nhân chứng, hồi ký của những nhân vật trực tiếp tham gia vào phong trào đấu tranh dân chủ sinh viên. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc với tư cách là một phong trào xã hội, đặt trong giới hạn thời gian thập niên 1970 và thập niên 1980. 5.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên trong thập niên 1970 – thập niên 1980 trong đó đặt trọng tâm vào giai đoạn 1972 1987. Mốc thời gian năm 1972 là thời điểm Tổng thống Park Chung Hee ban hành Hiến pháp Duy Tân (유싞헌법) đánh dấu chế độ độc tài quân sự ở Hàn Quốc phát triển lên đến đỉnh cao. Năm 1987, trải qua quá trình đấu tranh dân chủ hóa của quần chúng, bản Hiến pháp mới ra đời (còn gọi là Hiến pháp dân chủ). Trong tổng thể quá trình phát triển phong trào sinh viên Hàn Quốc thập niên 1970 – thập niên 1980, đề tài nghiên cứu tập trung vào các phong trào đấu tranh vì mục tiêu dân chủ (đây là mục tiêu lớn nhất và xuyên suốt phong trào sinh viên giai đoạn này). Việc xác định không gian nghiên cứu cụ thể là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên sẽ tạo điều kiện cho các nghiên cứu, phân tích phong trào này trong tương quan với quá trình dân chủ hóa nói chung tại Hàn Quốc. Về phạm vi nội dung, người viết tập trung vào hai nội dung lớn bao gồm: Quá trình đấu tranh dân chủ và đặc điểm phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên 1980). CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận của đề tài 1.1.1. Lý thuyết về xung đột xã hội và phong trào xã hội 1.1.1.1. Xung đột xã hội Lý thuyết xung đột xã hội là một trong số các lý thuyết được quan tâm đặc biệt trong xã hội học hiện đại bên cạnh thuyết chức năng, tương tác biểu trưng hay lựa chọn duy lý. Thuyết xung đột xã hội có nền tảng tư tưởng từ thời cổ đại, sau đó liên tục được bổ sung phát triển và chính thức nở rộ từ cuối thế kỉ XIX. Nó gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học như Karl Marx, Friedrich Engels, Auguste Comte, Max Weber, Lewis Coser, Ralf Dahrendorf, Michel Foucault, Randall Collins,… Trong đó, quan điểm của xã hội học Marxist cho rằng Karl Marx và Fridrich Engels là những người có công đặt nền móng cho lý thuyết xung đột trong xã hội học hiện đại. Có nhiều quan điểm khác nhau về xung đột xã hội, tuy nhiên các quan niệm phần nhiều đều hướng tới những điểm cơ bản như sau: Xung đột xã hội là “sự biểu hiện của những mâu thuẫn khách quan hoặc chủ quan phản ảnh sự đối lập giữa những người đại diện (các bên) của chúng”; là “sự mâu thuẫn căng thẳng nhất thể hiện sự xung khắc giữa các cộng đồng xã hội khác nhau các giai cấp, các chủng tộc, các quốc gia, các nhóm xã hội, các thiết chế xã hội… do sự đối lập hoặc sự khác biệt đáng kể về lợi ích, mục đích, khuynh hướng phát triển của chúng quyết định”. (Võ Khánh Vinh, Chu Văn Tuấn: 2013: 2829) Ngay từ thời cổ đại, con người đã có sự quan tâm, tìm hiểu về xung đột xã hội cũng như vai trò, ảnh hưởng của nó trong đời sống. Trong chính giai đoạn khởi phát đầu tiên, quan điểm về xung đột xã hội đã tạo nên sự đối lập giữa hai chiều hướng: một là coi xung đột xã hội, mâu thuẫn xã hội như một thuộc tính tất yếu, có vai trò tích cực đối với đời sống xã hội; hai là nhấn mạnh tính tiêu cực của xung đột xã hội. Sang đến thời kỳ Phục Hưng và thời kì cận đại, những quan điểm về xung đột xã hội tiếp tục được đem ra bàn thảo bới nhiều nhà triết học như Erazm Potterdamskij, Francis Bacon, J.Rousseau, I.Kant, F. Hegel, Ludwig Gumplowicz,… Mặc dù còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên các học giả đều có chung luận điểm rằng: (1) Xung đột xã hội và các cuộc đấu tranh xã hội không phải những hiện tượng cá biệt mà nó mang tính tất yếu của đời sống xã hội, (2) Xung đột xã hội thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giữ vai trò tích cực, quan trọng trong quá trình chuyển biến và ổn định xã hội. Luận điểm gốc của thuyết xung đột xã hội theo quan điểm Marxist cho rằng cần tập trung vào phân tích động cơ và đặc điểm xã hội của các bên tham gia mâu thuẫn. Khi tiến hành nghiên cứu một xung đột xã hội cần chỉ ra chủ thể của mâu thuẫn (ai xung đột với ai và trong cuộc xung đột đó thì ai là người chiến thắng?), cách thức duy trì củng cố địa vị, quyền lực và lợi ích trong mâu thuẫn,… (Lê Ngọc Hùng: 2011: 266 267). Luận điểm này có xuất phát điểm từ học thuyết của Marx và Engels về mâu thuẫn xã hội, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập trong lĩnh vực đời sống xã hội. Trong lý thuyết về xung đột xã hội hiện đại, phê phán các quan điểm về xung đột xã hội trước đó, Dahrendorf cho rằng những câu hỏi khái quát như “tất cả các xã hội đều trải nghiệm các mâu thuẫn xã hội” hoặc “lịch sử của tất cả các xã hội đến nay đều là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp” là đúng nhưng chưa đủ, do vậy, chúng cần phải được kiểm chứng lại bằng những nghiên cứu thực nghiệm. Từ cách tiếp cận cấu trúc, Dahrendorf đưa đến hai luận điểm trong đó khẳng định: mâu thuẫn xã hội xảy ra gắn với những điều kiện nhất định và trong một xã hội cụ thể; mâu thuẫn xã hội “có thể được xem như là biểu hiện của các đặc điểm cấu trúc của các xã hội hay của các xã hội trong cùng một giai đoạn phát triển” (Lê Ngọc Hùng: 2010: 23). Ông cho rằng, lý thuyết về mâu thuẫn xã hội cần phải xác định rõ những yêu cầu về: tính khoa học, tính nhất quán, tính thích hợp, tính cấu trúc và tính bao quát. Một lý thuyết về mâu thuẫn xã hội phải trả lời được những câu hỏi về chủ thể của mâu thuẫn, hình thức của mâu thuẫn và hệ quả của nó đối với cấu trúc xã hội (Lê Ngọc Hùng: 2010: 26). Trong nghiên cứu chính trị học phương Tây, quan điểm của Lewis A. Coser được phổ biến rộng rãi. Ông quan niệm xung đột là “sự đấu tranh vì những giá trị, và những nỗ lực (cố gắng và hy vọng) đạt được một sự thừa nhận về vị trí xã hội (status), quyền lực hoặc nguồn lợi”. (Phan Xuân Sơn: 2014: 3839) Xung đột xã hội diễn ra như một tất yếu vì nó là biểu hiện sự căng thẳng giữa những cái đang có và cần phải có, tương ứng với sự cảm nhận của những nhóm, cá nhân nhất định. Dựa trên tiêu chí mục tiêu và tính chủ quan, Coser phân chia xung đột xã hội thành hai loại: loại có mục tiêu cá nhân, chủ quan và loại không có mục tiêu cá nhân và khách quan. Trong hai loại trên, những cuộc đấu tranh không có mục tiêu cá nhân và khách quan sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, quyết liệt và triệt để hơn. Thông qua những khảo sát các quan điểm về lý thuyết xung đột xã hội, có thể nhận thấy rằng, xung đột xã hội là sự biểu hiện của mâu thuẫn xã hội (giữa các nhóm xã hội có lợi ích, mục tiêu đối lập nhau) ra bên ngoài bằng các hình thức, mức độ cụ thể. Nói cách khác, mâu thuẫn xã hội đạt đến một mức độ căng thẳng nhất định sẽ trở thành xung đột xã hội. Xã hội luôn luôn vận động mang trong mình hàng loạt các cặp mâu thuẫn, đối lập, do vậy, sự tồn tại của xung đột xã hội là một tất yếu khách quan nhằm giải quyết các mâu thuẫn vốn có. Xung đột xã hội đóng một vai trò tích cực đối, là nhân tố thúc đẩy sự chuyển biến của xã hội. Cấu trúc của mâu thuẫn xã hội được thể hiện trên các mặt: chủ thể mâu thuẫn, hình thức mâu thuẫn và hệ quả của nó đối với cấu trúc xã hội. Do xung đột xã hội diễn ra trong một thời gian, không gian cụ thể, cho nên khi tiến hành nghiên cứu, phân tích một dạng thức của xung đột xã hội chúng ta phải làm rõ bối cảnh mà nó tồn tại, mối quan hệ của nó với các yếu tố khác trong xã hội. Nói cách khác, nghiên cứu xung đột xã hội cần sử dụng phương pháp biện chứng và phương pháp lịch sử cụ thể. Soi chiếu vào phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 1980), chúng tôi đưa ra nhận định rằng, phong trào này là một dạng thức cụ thể của mâu thuẫn xã hội diễn ra trong bối cảnh cụ thể là xã hội Hàn Quốc giai đoạn từ 1970 đến hết thập niên 1980.Chủ thể của mâu thuẫn là cặp đối lập giữa một bên là lực lượng sinh viên với tư tưởng dân chủ, tự do, một bên là chính quyền độc tài quân sự. Trong suốt thời gian 20 năm, mâu thuẫn trên đã được bộc lộ ra bằng dưới hình thức cụ thể là các phong trào đấu tranh quyết liệt, nhiều phong trào trong đó mang tính bước ngoặt trong lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc như Biểu tình Buma và Biến cố 2610 (101979)3, Phong trào Dân chủ Gwangju (51980), Phong trào Dân chủ tháng Sáu (1987),…. Vận dụng phương pháp tiếp cận từ lý luận về xung đột xã hội, nghiên cứu sẽ đi sâu tìm hiểu và lý giải những đặc trưng cơ bản của phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 1980). 3 Buma là tên ghép bởi tên hai địa danh ở Hàn Quốc là Busan và Masan. Biểu tình Buma là phong trào đấu tranh nổ ra đầu tiên tại trường Đại học Pusan vào ngày 16101979 nhằm phản đối chế độ độc tài quân sự phế truất cương vị nghị sĩ Quốc hội của thành viên Đảng đối lập Kim Young Sam. Mâu thuẫn trong biện pháp xử lý biểu tình Buma đã dẫn đến việc, ngày 26101979, Tổng thống Park Chung Hee đã bị chính Giám độc Cục tình báo Trung ương Hàn Quốc (KCIA) là Kim Jae Gyu ám sát, nền Cộng hòa thứ tư sụp đổ (Biến cố 2610). 1.1.1.2. Phong trào xã hội Khi mâu thuẫn xã hội phát triển thành xung đột xã hội thì nó được biểu hiện ra ngoài dưới hình thức là các phong trào xã hội. Theo định nghĩa của Từ điển xã hội học Oxford, phong trào xã hội là “một nỗ lực được tổ chức bởi nhiều người nhằm tạo ra sự biến đổi (hoặc ngăn chặn sự biến đổi) trong một hay một vài khía cạnh chủ yếu của xã hội.” (Gordon Marshall: 2012: 431). Phong trào xã hội khác với hành vi tập thể ở chỗ nó là một hành vi xã hội có chủ đích và có tổ chức, có tính liên tục nhất định. Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên về bản chất chính là một dạng thức của “phong trào xã hội” với lực lượng tham gia là sinh viên. Nếu lấy phong trào sinh viên Hàn Quốc làm ví dụ, ở mỗi một thời kỳ lại có những dòng chủ lưu khác nhau cụ thể như: phong trào đấu tranh đòi độc lập chủ quyền của sinh viên dưới thời Nhật chiếm đóng, phong trào đấu tranh vì mục tiêu thống nhất đất nước dưới thời Tổng thống Rhee Syngman (1948 1960), phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên từ thời Tổng thống Park Chung Hee trở về sau. Tổ chức đại diện tiêu biểu cho phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc là Tổng liên minh thanh niên sinh viên dân chủ. Ngoài ra, mỗi thời kì, phong trào lại có những đặc trưng riêng thể hiện rõ ở mục đích, biện pháp và hệ quả. Không chỉ mỗi thời kỳ, ở mỗi quốc gia với những hoàn cảnh lịch sử riêng, phong trào sinh viên cũng có những đặc trưng khác nhau. Xem xét các phong trào sinh viên ở khu vực Đông Bắc Á có thể nhận ra được điều đó: Khác với phong trào sinh viên Hàn Quốc, phong trào sinh viên ở Nhật Bản những năm 1960 1970 chịu ảnh hưởng nhiều bởi phái thân tả và Đảng Cộng sản Nhật Bản4. Phong trào đấu tranh của sinh viên Nhật Bản giai đoạn này xuất phát từ các mục đích chủ yếu như: đòi tự trị trường học, phản đối chính sách của chính phủ, đấu tranh phản chiến,… Các phong trào diễn ra với hình thức đa dạng bao gồm cả bạo động với lãnh đạo của các tổ chức sinh viên như Tổng hiệp hội sinh viên tự trị toàn Nhật Bản, Hội nghị đấu tranh của cộng đồng sinh viên toàn quốc,… Phong trào sinh viên Nhật Bản được đánh giá là một trong những tác nhân tích cực thúc đẩy sự ra đời của xã hội dân sự ở Nhật Bản một trong những xã hội dân sự đầu tiên ở châu Á. 4 Ở Hàn Quốc thời kì này xuất hiện một thuật ngữ mang tên là “nỗi ám ảnh đỏ” biểu hiện cảm giác lo sợ, tránh xa trước những vấn đề liên quan đến CHDCND Triều Tiên hay Đảng Cộng sản,… Do vậy, trong khi đàn áp phong trào đấu tranh của sinh viên, chính quyền độc tài quân sự ở Hàn Quốc cũng thường sử dụng chiêu bài quy kết lãnh đạo các cuộc đấu tranh là “thân cộng sản” để giảm sút uy tín của phong trào. Phong trào dân chủ của sinh viên Đài Loan xuất hiện muộn hơn, vào khoảng cuối thập niên 1970. Mục tiêu chủ yếu của phong trào thời kì này là đòi quyền tự do ngôn luận, phản đối kiểm duyệt báo chí, tiến tới đòi sửa đổi Hiến pháp, mở đường cho dân chủ hóa xã hội. Sinh viên và giới trí thức đối lập Đài Loan đã cho ấn bản một số tập san như Mỹ Lệ Đảo, Nam Phong, Văn Tinh, Bát Thập Niên Đại,… Họ còn tổ chức nhiều cuộc biểu tình đòi bầu lại Quốc hội, phản đối thiết quân luật thực thi Hiến pháp, phản đối quy chế bầu cử Tổng thống (Hồ Sỹ Quý: 2015: 4765). Phong trào dân chủ của sinh viên Trung Quốc chỉ thực sự xuất hiện sau công cuộc cải cách mở cửa (1978) với những kêu gọi của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình về công cuộc “giải phóng tư tưởng”. Khác với Nhật Bản hay Đài Loan, phong trào sinh viên Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh chính trị ngột ngạt hơn với sự kiểm soát gắt gao của chính quyền khi mà mọi hành vi chống đối đều có thể bị quy kết vào tội danh phản động. Bắt đầu từ cuối năm 1986, tại hơn 150 trường Đại học trên khắp cả nước đã diễn ra các hoạt động tuần hành, biểu tình,… của sinh viên (Amako Satoshi: 2004: 99). Năm 1989, phong trào đã phát triển lên thành cuộc đấu tranh đòi dân chủ hóa trên quy mô rộng lớn. Đỉnh điểm của phong trào này là sự kiện Thiên An Môn (1989), giới cầm quyền Trung Quốc viện lý do “phong trào đã biến thành bạo loạn phản cách mạng” để huy động một lực lượng lớn quân đội đến đàn áp cuộc biểu tình. Sự kiện Thiên An Môn (1989) cùng Phong trào Dân chủ Gwangju (1980) ở Hàn Quốc là những cuộc đụng độ vũ trang trực tiếp giữa lực lượng biểu tình sinh viên và quân đội dẫn đến thương vong nhiều nhất tại khu vực Đông Bắc Á. Như vậy, có thể thấy, phong trào sinh viên ở khu vực Đông Bắc Á diễn ra với thời gian, hình thức và mục đích cụ thể, kết quả khác nhau, tùy theo đặc thù của từng quốc gia. Tuy nhiên, gạt bỏ các yếu tố bên ngoài, về bản chất, các phong trào đều hướng đến mục đích kêu gọi dân chủ hóa chính trị và xã hội, kêu gọi xây dựng một xã hội nơi các quyền tự do cơ bản của người dân được tôn trọng, đảm bảo. 1.1.1.3. Hành vi chính trị Bên cạnh lý thuyết về “phong trào xã hội”, phong trào sinh viên cũng có thể được tiếp cận như một “hành vi chính trị”. Trong đó, sinh viên tham gia vào quá trình chính trị của đất nước và để lại hệ quả chính trị trong quan hệ với nhà nước và chính sách. Hành vi chính trị đó bao gồm cả các hành vi chính trị hợp pháp và bất hợp pháp.5 Trong trường hợp phong trào dân chủ sinh viên Hàn Quốc, quá trình đấu tranh thường đi từ hợp pháp (kiến nghị, biểu tình) đến bất hợp pháp (bạo động, cách mạng). Trong công trình Lý thuyết về hành vi tập thể, Neil Smelser đưa ra sáu yếu tố liên tiếp quyết định sự phát triển của hành vi tập thể6. Những yếu tố này bao gồm: (1) Những điều kiện xã hội tất yếu khái quát nhất dẫn đến sự nảy sinh phong trào; (2) Sự căng thẳng cấu trúc (ý thức về sự bất công hay bất ổn); (3) Sự lớn mạnh và lan tỏa của một niềm tin tổng quát (hệ tư tưởng trả lời cho những rắc rối của con người); (4) Nhóm các nhân tố thúc đẩy (những sự kiện gây ra hành động); (5) Huy động hành động của những người tham gia và (6) sự vận hành của kiểm soát xã hội. (Gordon Marshall: 2012: 434) Một trong những lý thuyết thường được các nhà nghiên cứu xã hội học Hàn Quốc sử dụng trong nghiên cứu phong trào sinh viên đó là lý thuyết “Đường cong J” của J.Davies. J.Davies đã chỉ ra rằng, trong một xã hội, nếu như mức độ tước đoạt tương đối tăng nhanh và chính quyền được nhận biết là nguyên nhân cho sự tước đoạt này thì theo nguyên tắc, xu hướng phản kháng và hoạt động cách mạng sẽ gia tăng. Tước đoạt tương đối có thể xảy ra khi kỳ vọng và khát vọng chuẩn mực gia tăng mà sự thỏa mãn nhu cầu trên thực tế lại đứng yên hoặc thỏa mãn nhu cầu thực tế giảm trong cùng một điều kiện kỳ vọng. Đặc biệt, tước đoạt tương đối sẽ diễn ra mạnh nhất khi mà kỳ vọng xã hội tăng nhanh mà nhu cầu thực tế lại “giảm một cách chóng mặt” (Gunter Endruweit: 1999: 228). Đối chiếu vào phong trào sinh viên Hàn Quốc, chúng tôi nhận thấy rằng có hai giai đoạn mà sự kỳ vọng xã hội của quần chúng mức độ đáp ứng của chính quyền chạy ngược chiều nhau cực điểm là khoảng sau Cách mạng tháng 4 (1960) và khoảng sau Phong trào Buma và sự sụp đổ của thể chế Duy tân (1979). Đây là khoảng thời gian sau khi phong trào sinh viên lên đến đỉnh cao, họ mong muốn vào một sự cải tổ chính trị xã hội theo hướng dân chủ hóa. Tuy nhiên, chính quyền vẫn tiếp tục tham vọng kéo dài chế độ độc tài, do vậy, đây cũng chính là lúc mà phong trào sinh viên nổ ra mạnh mẽ nhất, quyết liệt nhất.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Hàn Quốc
Phong trào sinh viên hiện đại ở Hàn Quốc đã được nghiên cứu từ cuối những năm 1980, nhưng bị hạn chế do sự kiểm duyệt của chính quyền quân sự độc tài Nhiều công trình nghiên cứu đã bị cấm và thu hồi sau khi xuất bản Tuy nhiên, từ năm 2005, lĩnh vực này đã được quan tâm nghiên cứu trở lại, tập trung vào hai hướng chính.
Nghiên cứu tổng quan lịch sử phong trào sinh viên
Trong cuốn sách "Lịch sử phong trào sinh viên Hàn Quốc 1945 - 1979" (NXB Para Books, 2011), nhà nghiên cứu Lee Jae Oh đã tổng quan về sự phát triển của lực lượng học sinh sinh viên Hàn Quốc sau khi đất nước được giải phóng Ông phân tích diễn biến phong trào theo từng thập niên từ 1940 đến 1970 và rút ra ý nghĩa của từng giai đoạn Tác giả đã sử dụng nhiều nguồn tư liệu phong phú từ các trung tâm lưu trữ, niên giám, báo chí và tài liệu quốc tế liên quan đến phong trào học sinh sinh viên Đặc biệt, Lee Jae Oh còn là một nhân chứng sống, trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại chế độ độc tài trong hàng ngũ phong trào sinh viên.
Giáo sư Lee Chang Un từ Đại học Hansin đã nghiên cứu sâu sắc về phong trào sinh viên Hàn Quốc trong cuốn sách "Phong trào sinh viên thời kỳ Park Chung Hee" xuất bản năm 2014.
Dưới thời kỳ chính quyền Park Chung Hee (1961 - 1979), Lee Chang Un đã nghiên cứu và phân tích đặc trưng phản kháng của sinh viên trong bối cảnh thể chế Duy tân Ông đặt ra câu hỏi về cách thức hình thành những đặc điểm này và đã có những đóng góp quan trọng trong việc đánh giá văn hóa đấu tranh cũng như ý thức tổ chức của phong trào sinh viên.
Trong công trình "Thời đại của phong trào sinh viên" (2013), các tác giả Lee Ho Ryong và Jung Geun Sik đã phân tích sự hình thành "ý niệm tổ chức" trong phong trào sinh viên, cơ chế hoạt động của phong trào, và mối liên hệ giữa phong trào với các tổ chức, đảng phái chính trị Nghiên cứu cũng xem xét sự chuyển đổi trong văn hóa đấu tranh của sinh viên thông qua phương pháp luận chính trị học Để thực hiện nghiên cứu, các tác giả đã điều tra tại nhiều trường đại học lớn ở Hàn Quốc, nơi phong trào sinh viên phát triển mạnh mẽ, như Đại học Quốc gia Seoul, Đại học Korea, Đại học Yeonsei, Đại học Gyeongbuk và Đại học Incheon.
Các công trình hiện có đã cung cấp cái nhìn tổng quan về phong trào sinh viên Hàn Quốc từ các khía cạnh lịch sử và chính trị học Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số lĩnh vực chưa được khám phá trong những nghiên cứu này.
Thiếu hụt nghiên cứu tổng quan về phong trào sinh viên tại Việt Nam trong thập niên 1980 là một vấn đề đáng chú ý, với các nhà nghiên cứu như Lee Jae Oh và Lee Chang chưa có nhiều tài liệu đáng tin cậy.
Un mới chỉ dừng lại ở năm 1979 tức là hết nền cộng hòa thứ tư).
Phương pháp tiếp cận dựa trên xã hội học và văn hóa học để lý giải mô hình xung đột giữa sinh viên và nhà cầm quyền, cũng như ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa đến phong trào sinh viên, vẫn còn là những hướng nghiên cứu mới mẻ Nghiên cứu của chúng tôi mong muốn mở rộng phạm vi và cung cấp những góc nhìn mới trong việc phân tích phong trào sinh viên, đặc biệt là phong trào dân chủ của sinh viên Hàn Quốc.
Nghiên cứu về phong trào sinh viên không chỉ dừng lại ở quy mô toàn quốc mà còn mở rộng đến các nghiên cứu cục bộ tại từng trường đại học, phong trào sinh viên Cơ đốc giáo, và các phong trào tại địa phương Những công trình này cung cấp tư liệu quý giá với nhiều dẫn chứng cụ thể, sinh động, góp phần hỗ trợ cho việc nghiên cứu tổng quan về lịch sử phong trào sinh viên Hàn Quốc.
Các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm: Jo Byung Ho (2005) với tác phẩm "Dạo qua lịch sử 100 năm phong trào thanh niên sinh viên Cơ đốc giáo Hàn Quốc", Kang Dae Min (2003) với "Lịch sử phong trào sinh viên khu vực Busan" do Viện tư liệu Quốc học phát hành, và một nghiên cứu khác vào năm 2005 từ Hội đồng Biên soạn Lịch sử.
100 năm Đại học Korea 2005 Lịch sử phong trào sinh viên Đại học Korea Nhà xuất bản Đại học
In 2013, Jung Jin Wi published a work titled "조조조," which explores the cultural and historical significance of Korea from 1980 to the present The article delves into various aspects of Korean society, highlighting key developments and trends over the decades.
Phong trào dân chủ hóa của sinh viên thập niên 1980 nhìn từ sinh viên Đại học Yonsei.
Viện văn hóa xuất bản đại học Đại học Yeonsei);
6.3 조조조 2001 6.3 조조조조조, 조조조조조 (Hội đồng chí 6.3 2001 Lịch sử phong trào sinh viên 6.3 NXB Phê bình lịch sử)…
Việc khai thác các nguồn tư liệu sẽ cung cấp dẫn chứng cụ thể cho sự phát triển của phong trào sinh viên Tuy nhiên, do nghiên cứu cục bộ, các kết luận không thể đại diện cho phong trào sinh viên toàn quốc Bài nghiên cứu này sẽ phân tích và tìm ra những điểm khái quát, đại diện cho phong trào sinh viên Hàn Quốc trong thập niên 1970 - 1980.
Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề tại Việt Nam
Nghiên cứu về Hàn Quốc học, đặc biệt trong lĩnh vực chính trị Hàn Quốc tại Việt Nam, đã ra đời muộn hơn so với các ngành khoa học khác Trong suốt 20 năm phát triển, số lượng bài viết liên quan đến đời sống chính trị Hàn Quốc chỉ chiếm chưa đến 7% tổng số nghiên cứu đã công bố, con số này bao gồm cả các công trình của những nhà nghiên cứu không chuyên Điều này cho thấy rằng các vấn đề chính trị vẫn chưa được khai thác và quan tâm đầy đủ.
Phong trào sinh viên, đặc biệt là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc trong thập niên 1970 - 1980, vẫn là một lĩnh vực chưa được khai thác đầy đủ trong nghiên cứu về Hàn Quốc tại Việt Nam Hiện nay, các nhà nghiên cứu Hàn Quốc học tại Việt Nam đang chú trọng nhiều hơn đến tiến trình dân chủ hóa, từ chế độ dân chủ đại nghị vay mượn dưới thời Tổng thống Rhee Syngman đến chế độ độc tài quân sự, và sau đó là sự trở lại của chế độ dân chủ.
Hiện nay, có một số công trình nghiên cứu nổi bật về dân chủ hóa Hàn Quốc tại Việt Nam, bao gồm "Hệ thống chính trị Hàn Quốc hiện nay" của Hoàng Văn Việt (2006, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), "Lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc" của Chung Il Jun, Nguyễn Thị Thắm và Đỗ Hùng Mạnh (2013, Nhà xuất bản Imagine Books), cùng với các nghiên cứu khác về quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc.
Nhật Bản và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam là một nghiên cứu quan trọng của Lê Thị Thu Mai (2016) trong luận án Tiến sĩ Chính trị học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nghiên cứu này trình bày nhiều hướng tiếp cận và cách giải quyết vấn đề đa dạng, góp phần làm phong phú thêm hiểu biết về mối quan hệ giữa hai quốc gia.
Công trình "Lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc" của nhóm tác giả Chung Il Jun, Nguyễn Thị Thắm, Đỗ Hùng Mạnh (2013) là một phần trong bộ sách "Châu Á và Hàn lưu: Giáo trình Hàn Quốc học", và là một trong số ít nghiên cứu tổng quan về lịch sử chính trị Hàn Quốc tại Việt Nam Tác phẩm phân tích lịch sử hiện đại Hàn Quốc qua bốn đối tượng chính: chính quyền, nhà nước, xã hội chính trị và xã hội dân sự, tập trung vào diễn biến và đặc điểm của từng nền cộng hòa từ năm 1948 đến 2008 Dân chủ hóa và phong trào sinh viên được xem là thành phần quan trọng trong lịch sử chính trị hiện đại Hàn Quốc Mặc dù các tác giả đã đề cập đến những phong trào đấu tranh nổi bật và hệ quả của chúng, nhưng do không tập trung vào quá trình dân chủ hóa hay phong trào sinh viên, nên các sự kiện chỉ được phân tích sơ lược và chủ yếu được dùng làm dữ liệu lịch sử để chứng minh cho sự phát triển của lịch sử chính trị Hàn Quốc Các yếu tố như đặc trưng của quá trình dân chủ hóa và phong trào sinh viên chưa được phân tích cụ thể Tuy nhiên, công trình vẫn là tài liệu tham khảo giá trị cho việc nghiên cứu sự vận động và phát triển của lịch sử chính trị Hàn Quốc hiện đại.
Trong bài viết "Dân chủ hóa ở Hàn Quốc, Nhật Bản và những giá trị tham khảo đối với Việt Nam," nhà nghiên cứu Lê Thị Thu Mai đã sử dụng phương pháp tiếp cận chính trị học để phân tích quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc qua ba nội dung cơ bản: (1) Mức độ phát triển của nền kinh tế; (2) Mức độ phát triển của nhà nước pháp quyền Những phân tích này không chỉ cung cấp cái nhìn sâu sắc về Hàn Quốc mà còn có thể là bài học quý giá cho Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển dân chủ.
(3) Mức độ phát triển của xã hội dân sự.
Tác giả đã chỉ ra ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc, bao gồm nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và nhân tố quốc tế Dân chủ hóa tại Hàn Quốc được mô tả là một "quá trình đánh đổi bằng máu và nước mắt", tuy nghiệt ngã nhưng ngày càng tiến gần hơn đến dân chủ và tự do Hàn Quốc đã sử dụng các giá trị dân chủ và pháp quyền phương Tây như công cụ cho quá trình này, đồng thời xây dựng một nền kinh tế thần kỳ và xã hội phát triển năng động, khai thác nguồn lực con người Chính phủ đã đẩy mạnh kinh tế thị trường dưới sự kiểm soát chặt chẽ, nâng cao quyền giám sát của người dân Hàn Quốc tập trung phát triển kinh tế trước khi chuyển sang phát triển các giá trị dân chủ, đồng thời coi trọng chủ nghĩa cộng đồng và sự đồng thuận trong xã hội.
Công trình nghiên cứu cung cấp cái nhìn tổng quan và công cụ cụ thể cho việc phân tích quá trình dân chủ hóa ở Hàn Quốc Nhà nghiên cứu Lê Thị Thu Mai đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của quá trình này với tính khách quan và giá trị khoa học cao Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu dựa vào phương pháp chính trị học, dẫn đến một số hạn chế, như việc chưa phân tích rõ ràng cơ chế ảnh hưởng của văn hóa truyền thống và đặc trưng dân tộc Hàn Quốc trong quá trình dân chủ hóa Bên cạnh đó, mặc dù có đề cập đến phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên, nhưng vai trò của phong trào này đối với quá trình dân chủ hóa vẫn chưa được khai thác sâu.
Phong trào dân chủ của sinh viên Hàn Quốc vẫn là một chủ đề chưa được khai thác sâu trong nghiên cứu Hàn Quốc học tại Việt Nam Mặc dù một số công trình đã đề cập đến phong trào này, nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở việc điểm qua hiện tượng mà chưa đánh giá đầy đủ những đặc điểm, vai trò và tác động của sinh viên trong tiến trình dân chủ hóa.
Trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tập trung vào phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên trên toàn quốc Bằng cách khảo sát tiến trình của phong trào này từ thập niên 1970 đến thập niên 1980, bài viết sẽ phân tích các đặc trưng cơ bản, cũng như những ảnh hưởng và vai trò của phong trào trong lịch sử hiện đại của Hàn Quốc.
Phương pháp nghiên cứu và hướng tiếp cận
Hướng tiếp cận liên ngành cho phép chúng ta áp dụng kiến thức từ lịch sử học, xã hội học và chính trị học, nhằm tạo ra cái nhìn tổng quan và đa diện về phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc.
Phương pháp lịch sử và phương pháp logic được áp dụng để tái hiện trung thực quá trình hình thành và phát triển của phong trào đấu tranh dân chủ sinh viên Hàn Quốc Bằng cách phân tích và loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, bài viết làm rõ bản chất, đặc điểm cơ bản và quy luật phát triển của phong trào này, đồng thời nhấn mạnh sự gắn kết với bối cảnh thời gian và không gian mà nó diễn ra.
Phương pháp tổng hợp tư liệu trong bài nghiên cứu này bao gồm việc khảo cứu các tài liệu lịch sử liên quan đến phong trào sinh viên, tập trung vào Báo cáo tổng kết của Hội kỷ niệm sự nghiệp vận động dân chủ hóa và các sách chuyên khảo của các nhà nghiên cứu Hàn Quốc Ngoài ra, nghiên cứu cũng tiến hành khảo sát các tư liệu phỏng vấn nhân chứng và hồi ký của những nhân vật tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh dân chủ sinh viên.
5 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc, được xem như một phong trào xã hội, trong khoảng thời gian từ thập niên 1970 đến thập niên 1980.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc trong thập niên 1970 đến 1980, đặc biệt chú trọng giai đoạn 1972 - 1987 Năm 1972, Tổng thống Park Chung Hee ban hành Hiến pháp Duy Tân, đánh dấu đỉnh cao của chế độ độc tài quân sự Đến năm 1987, sau nhiều nỗ lực đấu tranh của quần chúng, bản Hiến pháp mới, hay còn gọi là Hiến pháp dân chủ, đã được thông qua.
Trong tổng thể quá trình phát triển phong trào sinh viên Hàn Quốc thập niên
Trong giai đoạn từ 1970 đến 1980, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các phong trào đấu tranh vì dân chủ, đây là mục tiêu lớn nhất và xuyên suốt của phong trào sinh viên trong thời kỳ này Việc xác định không gian nghiên cứu cụ thể là phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên sẽ giúp phân tích và hiểu rõ hơn về mối quan hệ của phong trào này với quá trình dân chủ hóa tổng thể tại Hàn Quốc.
Bài viết tập trung vào hai nội dung chính: quá trình đấu tranh cho dân chủ và đặc điểm của phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc trong giai đoạn từ thập niên 1970 đến thập niên 1980.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1 Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1 Lý thuyết về xung đột xã hội và phong trào xã hội
Lý thuyết xung đột xã hội, một trong những lý thuyết quan trọng trong xã hội học hiện đại, đã phát triển từ thời cổ đại và chính thức nở rộ từ cuối thế kỷ XIX Nó gắn liền với những tên tuổi lớn như Karl Marx, Friedrich Engels, Auguste Comte, Max Weber, và nhiều nhà xã hội học khác Đặc biệt, quan điểm của xã hội học Marxist nhấn mạnh vai trò của Karl Marx và Friedrich Engels trong việc đặt nền móng cho lý thuyết xung đột trong xã hội học hiện đại.
Xung đột xã hội được hiểu là sự biểu hiện của những mâu thuẫn giữa các bên, phản ánh sự đối lập giữa những người đại diện Nó thể hiện sự căng thẳng giữa các cộng đồng xã hội khác nhau, như giai cấp, chủng tộc, quốc gia và nhóm xã hội Những xung đột này thường xuất phát từ sự khác biệt về lợi ích, mục đích và khuynh hướng phát triển của các bên liên quan.
Từ thời cổ đại, con người đã chú trọng nghiên cứu xung đột xã hội và ảnh hưởng của nó đến đời sống Trong giai đoạn đầu, quan điểm về xung đột xã hội chia thành hai hướng: một là coi xung đột và mâu thuẫn như thuộc tính tất yếu, đóng vai trò tích cực trong xã hội; hai là nhấn mạnh tính tiêu cực của xung đột xã hội.
Trong thời kỳ Phục Hưng và cận đại, nhiều triết gia như Erazm Potterdamskij, Francis Bacon, J Rousseau, I Kant, F Hegel và Ludwig Gumplowicz đã thảo luận về xung đột xã hội Mặc dù có nhiều tranh cãi, nhưng các học giả đều đồng ý rằng xung đột xã hội và các cuộc đấu tranh xã hội không phải là hiện tượng cá biệt mà là điều tất yếu trong đời sống xã hội Họ cũng nhận định rằng xung đột xã hội đóng vai trò tích cực và quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển và ổn định của xã hội.
Thuyết xung đột xã hội theo quan điểm Marxist nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phân tích động cơ và đặc điểm xã hội của các bên tham gia mâu thuẫn Khi nghiên cứu một xung đột xã hội, cần xác định rõ chủ thể của mâu thuẫn, bao gồm ai đang xung đột với ai và ai là người chiến thắng trong cuộc xung đột đó Bên cạnh đó, cần xem xét cách thức duy trì và củng cố địa vị, quyền lực cũng như lợi ích của các bên liên quan trong bối cảnh mâu thuẫn.
Luận điểm này bắt nguồn từ học thuyết của Marx và Engels, nhấn mạnh mâu thuẫn xã hội cùng với sự thống nhất và đấu tranh giữa các yếu tố đối lập trong đời sống xã hội.
Trong lý thuyết xung đột xã hội hiện đại, Dahrendorf phê phán các quan điểm trước đó và nhấn mạnh rằng những khái niệm như “tất cả các xã hội đều trải nghiệm mâu thuẫn xã hội” cần được kiểm chứng qua nghiên cứu thực nghiệm Ông đưa ra hai luận điểm chính, cho rằng mâu thuẫn xã hội xảy ra trong những điều kiện cụ thể và phản ánh các đặc điểm cấu trúc của xã hội Dahrendorf khẳng định rằng lý thuyết về mâu thuẫn xã hội cần đảm bảo tính khoa học, nhất quán, thích hợp, cấu trúc và bao quát, đồng thời phải trả lời các câu hỏi về chủ thể, hình thức và hệ quả của mâu thuẫn đối với cấu trúc xã hội.
Lewis A Coser, một nhân vật nổi bật trong nghiên cứu chính trị học phương Tây, định nghĩa xung đột là “sự đấu tranh vì những giá trị và nỗ lực đạt được sự thừa nhận về vị trí xã hội, quyền lực hoặc nguồn lợi” Xung đột xã hội là một hiện tượng tất yếu, phản ánh sự căng thẳng giữa những gì hiện có và những gì cần có, tùy thuộc vào cảm nhận của các nhóm và cá nhân Coser phân loại xung đột xã hội thành hai loại: xung đột có mục tiêu cá nhân, chủ quan và xung đột không có mục tiêu cá nhân, khách quan Đặc biệt, những cuộc đấu tranh không có mục tiêu cá nhân và khách quan thường diễn ra mạnh mẽ và quyết liệt hơn.