TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
Một số vấn đề cơ bản về hộ nghèo
1.1.1.1 Khái niệm về đói nghèo
Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia khác nhau về cấp độ và số lượng, và có sự thay đổi theo thời gian Người nghèo ở một quốc gia có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác Để đánh giá chính xác tình trạng đói nghèo và nhận diện hộ nghèo, cần có sự thống nhất về khái niệm và tiêu chí đánh giá đói nghèo tại từng thời điểm, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp để giảm nghèo.
Đói nghèo không có một định nghĩa duy nhất, mà là tình trạng kiệt quệ với nhiều khía cạnh như thu nhập hạn chế và dễ bị tổn thương trước các tai ương Việt Nam đã công nhận định nghĩa chung về đói nghèo tại Hội nghị ESCAP ở Bangkok vào tháng 9/1993, cho rằng nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, phụ thuộc vào mức độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục địa phương Để đánh giá mức độ nghèo, có hai loại: nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng mà một bộ phận dân cư không có khả năng đáp ứng những nhu cầu cơ bản và tối thiểu để duy trì cuộc sống, bao gồm nhu cầu về ăn uống, nơi ở, chăm sóc y tế và giáo dục.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới trung bình của cộng đồng địa phương ở một thời kỳ nhất định
Những quan niệm về đói nghèo phản ánh ba khía cạnh chính của người nghèo: mức sống thấp hơn cộng đồng, không được thụ hưởng nhu cầu cơ bản tối thiểu, và thiếu cơ hội tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Nghèo tuyệt đối phản ánh tình trạng một bộ phận dân cư không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, trong khi nghèo tương đối thể hiện sự chênh lệch mức sống so với trung bình cộng đồng Mặc dù có thể xóa dần nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối vẫn tồn tại trong xã hội, do đó cần tập trung vào việc thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và giảm tỷ lệ nghèo tương đối Đói nghèo bao gồm cả khái niệm đói và nghèo, trong đó đói có mức độ gay gắt hơn và có thể xóa bỏ hoàn toàn, trong khi nghèo chỉ có thể giảm dần Vì vậy, giải quyết vấn đề này thường được gọi là "Xoá đói giảm nghèo".
1.1.1.2 Các chuẩn mực đánh giá đói nghèo
Theo Ngân hàng Thế giới, đói nghèo thường được đo lường qua mức thu nhập hoặc chi tiêu Một cá nhân được coi là nghèo khi thu nhập hoặc chi tiêu của họ dưới mức tối thiểu cần thiết để đáp ứng các nhu cầu cơ bản, gọi là “ngưỡng đói nghèo” Ngưỡng này thay đổi theo thời gian và xã hội, dẫn đến sự khác biệt về mức độ nghèo giữa các quốc gia Mỗi quốc gia áp dụng ngưỡng phù hợp với mức độ phát triển và giá trị xã hội của mình Để so sánh toàn cầu, Ngân hàng Thế giới sử dụng ngưỡng tham chiếu là 1 đô la.
$2/ngày trong thuật ngữ “sức mua tương đương” (PPP) 1993 (PPP đo lường sức mua tương đối của đồng tiền các quốc gia)
Trong quá trình nghiên cứu đói nghèo và thực hiện chương trình XĐGN ở Việt Nam, WB đã đƣa ra hai mức chuẩn nghèo đối với Việt Nam:
Để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu với 2.100 calo/người/ngày, cần có một khoản tiền nhất định để mua lương thực và thực phẩm, được gọi là chuẩn nghèo về lương thực và thực phẩm.
Chuẩn nghèo chung tại Việt Nam bao gồm chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và các nhu cầu cần thiết khác Hiện nay, Bộ LĐ-TB&XH sử dụng nhiều chỉ tiêu để đánh giá nghèo đói và phát triển xã hội, trong đó phương pháp dựa trên thu nhập hộ gia đình được áp dụng theo từng thời gian Các hộ gia đình được xếp vào diện nghèo nếu thu nhập đầu người thấp hơn mức chuẩn xác định, mức này khác nhau giữa thành phố, nông thôn và miền núi Tỷ lệ nghèo được tính bằng tỷ lệ giữa số dân có thu nhập dưới ngưỡng nghèo so với tổng dân số tại cùng một thời điểm.
Theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-2015 nhƣ sau:
Khu vực nông thôn: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
Khu vực thành thị: những hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000đ/người/tháng trở xuống là hộ nghèo
Tổng cục Thống kê xác định tỷ lệ nghèo dựa trên thu nhập và chi tiêu theo đầu người, với ngưỡng nghèo được tính từ chi phí cho giỏ tiêu dùng bao gồm lương thực và phi lương thực, trong đó cần đảm bảo 2.100 calo mỗi ngày cho mỗi người Các hộ gia đình được coi là nghèo nếu thu nhập và chi tiêu không đủ đáp ứng giỏ tiêu dùng này Mặc dù phương pháp đo lường đói nghèo bằng chi tiêu là hiệu quả, nhưng nó cũng gặp hạn chế do yêu cầu nhiều số liệu, chi phí điều tra cao và thời gian thực hiện dài.
1.1.1.3 Nguyên nhân đói nghèo Đói nghèo là hậu quả đan xen của nhiều nguyên nhân nằm trong các nhóm nguyên nhân Nhóm nguyên nhân khách quan, do môi trường tự nhiên (vị trí, khí hậu, đất đai); kinh tế - xã hội (trình độ dân trí thấp, yếu tố tập quán của từng dân tộc, từng vùng miền, chính sách của Nhà nước) và nhóm nguyên nhân do bản thân người nghèo a Nhóm nguyên nhân do môi trường tự nhiên; kinh tế - xã hội; cơ chế chính sách Điều kiện tự nhiên (nguyên nhân khách quan) Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt đã tác động sâu sắc đến SXKD của các hộ gia đình, đặc biệt là các hộ nghèo Đói nghèo tập trung khu vực nông thôn: Nghèo có đặc thù rõ rệt về mặt địa lý Ở Việt Nam, Đói nghèo là một hiện tƣợng phổ biến ở nông thôn với 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực và thực phẩm ở nông thôn là 15,9% đa số người nghèo là nông thôn (trên 80%), trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ…), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lƣợng sản phẩm kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, những người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thống thông tin, khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp Phụ nữ nông dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là phụ nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ bị tổn thương nhất, phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhƣng thu nhập thấp hơn, họ có ít quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng, do đó có ít cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại Điều kiện vị trí không thuận lợi đã hạn chế nhiều đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và sinh hoạt của các hộ gia đình Người nghèo tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn; đa số người nghèo sinh sống ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền trung; do sự biến động của thời tiết (bão, lụt, hạn hán…) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn, đặc biệt sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác “Năm 2000, khoảng 20- 30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chƣa đủ phòng học; 5% số xã chƣa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% số xã chƣa đủ công trình thủy lợi nhỏ; 20% số xã chƣa có chợ xã hoặc cụm xã Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người dân thuộc diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1- 1,5 triệu người Hàng năm số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo còn lớn” 1 Đói nghèo trong khu vực thành thị: Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh Một số lao động mất việc làm do chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước, dẫn đến điều kiện sống của họ càng khó khăn, một số người thất nghiệp Các hộ nghèo thường có ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên tại một số nơi Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo được Thủ tướng Chính phủ thông qua vào tháng 5/2002 nhằm nâng cao đời sống người dân và đa dạng hóa sản xuất, tập trung vào việc phát triển các loại cây trồng có giá trị cao Những điều kiện kinh tế - xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nguyên nhân chủ quan của tình trạng nghèo đói.
Người nghèo, đặc biệt là đồng bào dân tộc ít người, thường có trình độ học vấn thấp và gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm ổn định Mức thu nhập của họ chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu, khiến họ không thể nâng cao trình độ học vấn và thoát khỏi cảnh nghèo đói Trình độ học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định liên quan đến giáo dục, sinh đẻ và nuôi dạy con cái, tác động đến cả thế hệ hiện tại và tương lai Suy dinh dưỡng ở trẻ em cũng là yếu tố cản trở khả năng đến trường, làm cho việc thoát nghèo qua giáo dục trở nên khó khăn hơn Thống kê cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn, với 12% chưa bao giờ đi học, 39% tốt nghiệp tiểu học và 37% trung học cơ sở Chi phí giáo dục đối với người nghèo vẫn rất lớn, trong khi chất lượng giáo dục mà họ tiếp cận còn hạn chế, gây khó khăn cho họ trong việc vươn lên.
Tỷ lệ nghèo giảm khi trình độ giáo dục tăng; 80% người nghèo làm việc trong nông nghiệp với thu nhập thấp Trình độ học vấn thấp hạn chế cơ hội việc làm trong các ngành phi nông nghiệp, dẫn đến bất bình đẳng giới sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói Phụ nữ chiếm gần 50% lực lượng lao động nông nghiệp nhưng chỉ 25% tham gia các khóa khuyến nông về chăn nuôi và 10% về trồng trọt Họ ít có cơ hội tiếp cận công nghệ, tín dụng và đào tạo, gặp khó khăn do gánh nặng công việc gia đình và thường nhận lương thấp hơn nam giới Phụ nữ có học vấn thấp dẫn đến tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và bà mẹ cao, ảnh hưởng sức khỏe gia đình và việc học của trẻ em Bất bình đẳng giới cũng làm tăng tỷ lệ sinh và lây truyền HIV do phụ nữ thiếu quyền tự quyết Nghèo đói còn liên quan đến nhóm dân tộc; người thuộc dân tộc thiểu số có mức chi tiêu thấp hơn 13% so với người Kinh hoặc Hoa Trình độ giáo dục tạo ra sự khác biệt rõ rệt trong chi tiêu; hộ gia đình có chủ hộ trình độ trung cấp chi tiêu cao hơn 19% và nếu có trình độ đại học thì cao hơn 31%.
Ngoài yếu tố dân trí, phong tục tập quán lạc hậu và các tệ nạn xã hội như buôn bán thuốc phiện, khai thác khoáng sản bừa bãi và di dân tự do cũng là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo Nhiều vùng đồng bào dân tộc vẫn giữ hủ tục lạc hậu, ví dụ như việc không đưa người ốm đến trạm y tế mà mời thầy cúng làm lễ để chữa bệnh, do họ tin rằng bệnh tật là do ma ám Hành động này không chỉ khiến bệnh tình trở nên nghiêm trọng hơn mà còn gây tốn kém cho gia đình, làm cho họ rơi vào cảnh nghèo đói hơn.
Báo cáo chung của các nhà tài trợ hội nghị tư vấn cho Việt Nam nêu rõ mức sống trong thời kỳ bùng nổ dân số tại Hà Nội, trang 51.
Tín dụng Ngân hàng Chính sách xã hội đối với hộ nghèo
1.2.1 Tín dụng đối với hộ nghèo
Tín dụng đối với hộ nghèo là việc sử dụng nguồn lực tài chính từ Nhà nước để cung cấp cho người nghèo vay ưu đãi, nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập và ổn định cuộc sống Chương trình này góp phần quan trọng vào việc xóa đói, giảm nghèo và ổn định xã hội Đối tượng hưởng lợi là các hộ nghèo trên địa bàn hoạt động của NHCSX, với điều kiện vay vốn không cần thế chấp và miễn phí thủ tục hành chính.
Phương thức cho vay tín dụng đối với hộ nghèo được thực hiện thông qua ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội, cụ thể là qua các tổ tiết kiệm và vay vốn Việc cho vay dựa trên kết quả bình xét của tổ TK&VV và phải được Ủy ban Nhân dân cấp xã phê duyệt.
1.2.2 Vai trò của hoạt động cho vay hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách xã hội
1.2.2.1 Là động lực giúp nguời nghèo vượt qua nghèo đói
Tín dụng cho hộ nghèo là việc sử dụng nguồn lực tài chính từ nhà nước để cung cấp khoản vay ưu đãi cho người nghèo, nhằm hỗ trợ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và cải thiện đời sống Điều này góp phần quan trọng vào việc thực hiện chương trình mục tiêu giảm nghèo và ổn định xã hội.
Nghèo đói chủ yếu xuất phát từ việc thiếu vốn và kiến thức làm ăn, đây là những yếu tố then chốt giúp người nghèo thoát khỏi cảnh nghèo Nhiều người rơi vào vòng luẩn quẩn do thiếu vốn, phải làm thuê, vay nặng lãi và cầm cố tài sản để đảm bảo cuộc sống tối thiểu, trong khi nguy cơ nghèo đói vẫn luôn rình rập Bên cạnh đó, việc thiếu kiến thức làm ăn khiến họ chậm đổi mới tư duy và không áp dụng công nghệ mới, dẫn đến năng suất lao động kém Điều này tạo ra rào cản lớn trong việc tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho hộ nghèo Giải quyết vấn đề vốn cho người nghèo vay sẽ mang lại hiệu quả thiết thực Do đó, hoạt động tín dụng hộ nghèo của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, đóng vai trò vô cùng quan trọng, đặc biệt khi Yên Thành là một huyện thuần nông.
Nguyên nhân nghèo đói ở nông thôn Việt Nam bao gồm tuổi tác, sức khỏe yếu, đông con, tệ nạn xã hội, thiếu vốn và điều kiện tự nhiên không thuận lợi Mặc dù người nông dân thường cần cù và tiết kiệm, họ vẫn gặp khó khăn do thiếu vốn đầu tư cho sản xuất và kinh doanh Vốn là yếu tố quyết định giúp họ vượt qua nghèo đói Khi có vốn, người nông dân có thể mua sắm vật tư, cây giống và phân bón, từ đó thực hiện thâm canh, nâng cao năng suất và sản phẩm hàng hóa, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
1.2.2.2 Góp phần hạn chế cho vay nặng lãi, nên hiệu quả hoạt động kinh tế được nâng cao hơn
Ngân hàng Chính sách Xã hội (NHCSXH) hoạt động chủ yếu tại huyện, có nhiệm vụ cung cấp vốn tín dụng cho các đối tượng chính sách, trong đó người nghèo được coi là một trong những đối tượng ưu tiên hàng đầu.
Phòng Giao dịch của NHCSXH tại huyện có hệ thống tổ chức mạng lưới rộng khắp và linh hoạt, bao gồm cả phòng Giao dịch và các tổ cho vay lưu động Sự phát triển về số lượng và chất lượng của mạng lưới này đã mở rộng quan hệ giữa các chủ thể và ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức.
Những người nghèo thường phải chịu sự bóc lột từ nạn cho vay nặng lãi, vì họ cần tiền để sản xuất hoặc duy trì cuộc sống Khi tín dụng ưu đãi được cung cấp cho người nghèo, thị trường cho vay nặng lãi sẽ bị thu hẹp Việt Nam, với tiềm năng về đất đai, tài nguyên và lao động lớn, cần phát huy các nguồn lực này để xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Trong bối cảnh đó, tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội nên được coi là công cụ quan trọng để thúc đẩy nguồn lực vào sản xuất.
Vốn tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã góp phần quan trọng trong việc khai thác hiệu quả các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, đất đai, thổ nhưỡng và lao động Điều này không chỉ tạo ra những sản phẩm hàng hóa chất lượng mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho các hộ nghèo trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Huyện ở nước ta đang đối mặt với áp lực lớn về việc làm do có từ 5 - 6 triệu người lao động không đủ việc làm hàng năm và tỷ lệ hộ nghèo còn cao Giải quyết vấn đề này không hề đơn giản, cần áp dụng nhiều giải pháp đồng bộ để đạt hiệu quả Trong số các giải pháp, việc sử dụng công cụ tín dụng ngân hàng, đặc biệt là tín dụng từ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), đã mang lại những hiệu quả thiết thực.
1.2.2.3 Góp phần nâng cao kiến thức tiếp cận với thị trường
Tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội tại huyện, đặc biệt ở khu vực nông nghiệp và nông thôn Sự hiện diện rộng rãi của NHCSXH không chỉ thúc đẩy sự phát triển kinh tế chung mà còn là yếu tố thiết yếu đồng hành cùng sự phát triển của địa phương.
NHCSXH cung cấp vốn cho người nghèo nhằm đầu tư cho sản xuất kinh doanh, góp phần xóa đói giảm nghèo Qua kênh tín dụng này, người vay phải tính toán kỹ lưỡng về cây trồng, vật nuôi và nghề nghiệp để đạt hiệu quả kinh tế cao Họ cần học hỏi kỹ thuật sản xuất và quản lý để phát triển tính sáng tạo trong lao động, từ đó tích lũy kinh nghiệm quản lý kinh tế Khi người nghèo tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa và tham gia vào thị trường, họ có cơ hội tiếp cận kinh tế thị trường trực tiếp Đồng thời, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phân hóa giàu nghèo, nhu cầu về vốn ngày càng tăng Khi khả năng tích lũy còn thấp và thị trường vốn chưa mạnh, tín dụng từ NHCSXH trở thành nguồn lực chủ yếu cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của nhiều hộ nghèo ở nông thôn.
1.2.2.4 Góp phần thực hiện thành công Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
Với vị trí quan trọng trong nông thôn, tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) không chỉ tập trung vào lợi nhuận mà còn phải hỗ trợ các mục tiêu phát triển của Nhà nước và địa phương Điều này giúp xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý và đảm bảo sự phát triển bền vững.
Vốn tín dụng của NHCSXH tại huyện không chỉ ảnh hưởng đến quá trình lựa chọn đầu tư mà còn giúp chuyển dịch vốn giữa các ngành, từ đó bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận và giảm bớt sự độc quyền Ngân hàng luôn chú trọng hướng dẫn người vay lựa chọn các ngành có lợi nhuận cao và tổ chức sản xuất kinh doanh hiệu quả, nhằm đưa vốn đến tay hộ nghèo Điều này giúp vốn tín dụng của NHCSXH thích ứng với cơ cấu ngành kinh tế và thúc đẩy sự phát triển của các ngành mũi nhọn.
Trong nông nghiệp hiện nay, việc áp dụng khoa học kỹ thuật mới là rất quan trọng để phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn Cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và áp dụng giống mới có năng suất cao trên diện rộng Điều này đòi hỏi đầu tư vốn lớn và thực hiện các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, đặc biệt là hỗ trợ người nghèo Qua việc đầu tư tín dụng cho người nghèo, chúng ta có thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đồng thời tạo ra các ngành nghề dịch vụ mới, góp phần phân công lại lao động trong nông nghiệp và xã hội.
Kinh nghiệm hoạt động tín dụng đối với hộ nghèo của một số Chi nhành Ngân hàng chính sách xã hội
1.3.1 Hiệu quả chương trình phối hợp ủy thác cho vay hộ nghèo ở huyện Trực Ninh
Trong 10 năm qua, Ngân hàng CSXH huyện Trực Ninh đã phối hợp với Hội nông dân huyện thực hiện chương trình uỷ thác cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác, thành lập 218 tổ tiết kiệm và vay vốn, với tổng dư nợ uỷ thác đạt trên 82,471 tỷ đồng cho 5.509 hộ vay Trong đó, 24,835 tỷ đồng được cho vay hộ nghèo, 1,16 tỷ đồng cho vay giải quyết việc làm, 17,651 tỷ đồng cho vay chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, và 35,031 tỷ đồng cho vay học sinh, sinh viên Nhiều xã như Trực Thanh, Trực Hưng, Trung Đông và Thị trấn Cổ Lễ đã thực hiện tốt công tác uỷ thác cho vay Nhờ cung cấp tín dụng với lãi suất ưu đãi, Ngân hàng CSXH huyện đã trở thành “chiếc phao cứu sinh” giúp nhiều hộ nông dân vươn lên thoát nghèo và cải thiện cuộc sống.
Từ nguồn vốn vay Ngân hàng CSXH, huyện đã hỗ trợ 24.023 hộ nghèo vay vốn, giúp 5.848 hộ thoát nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo gần 2% mỗi năm Nguồn vốn này cũng đã tạo việc làm mới cho 1.716 lao động và hỗ trợ 6.882 học sinh, sinh viên khó khăn tiếp tục học tập Huyện đã xây dựng 9.171 công trình nước sạch và 9.422 công trình vệ sinh, nâng cao chất lượng sống cho người dân Nhiều hộ đã phát triển mô hình kinh tế trang trại và gia trại, góp phần hoàn thành mục tiêu giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới HND huyện đã chỉ đạo các xã thực hiện tốt công tác nhận ủy thác vay vốn, kiểm tra và giám sát chương trình tín dụng, kịp thời phát hiện và xử lý sai sót Trong 10 năm qua, không xảy ra sai phạm nào trong việc thực hiện chương trình ủy thác Ban quản lý tổ tiết kiệm và vay vốn đã chủ động lập kế hoạch và thực hiện theo hợp đồng với Ngân hàng CSXH, đồng thời phối hợp tổng kết, khen thưởng các cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác ủy thác HND huyện cũng thường xuyên lắng nghe ý kiến hội viên để đề xuất giải pháp thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.
Để phát huy kết quả đã đạt được, các cấp Hội Nông dân (HND) trong huyện sẽ tiếp tục đẩy mạnh chương trình ủy thác với Ngân hàng Chính sách Xã hội (CSXH), tập trung nâng cao chất lượng tín dụng qua 6 công đoạn ủy thác Họ sẽ tuyên truyền, vận động nông dân xây dựng các dự án và thành lập, củng cố các tổ tiết kiệm và vay vốn để tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ Đồng thời, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ Hội làm công tác ủy thác Công tác kiểm tra, giám sát cũng sẽ được tăng cường nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những tồn tại, thiếu sót trong quá trình thực hiện ủy thác, đảm bảo an toàn và phát huy hiệu quả nguồn vốn vay chính sách.
1.3.2 Ngân hàng chính sách huyện Krông Bông nỗ lực giúp dân giảm nghèo
Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Krông Bông đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ, đưa vốn đúng lúc và đúng đối tượng, từ đó đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc giúp người nghèo và các đối tượng chính sách khác cải thiện cuộc sống và ổn định kinh tế.
Năm 2013, tổng doanh số cho vay các chương trình tín dụng của NHCSXH huyện Krông Bông đạt 37 tỷ 611 triệu đồng; tổng dƣ nợ 184 tỷ
Trong tổng số 994 triệu đồng, cho vay hộ nghèo đạt 60 tỷ 800 triệu đồng với 5.450 hộ vay, chiếm 33% tổng dư nợ Bên cạnh đó, cho vay học sinh, sinh viên đạt 52 tỷ 446 triệu đồng, và chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nhận được 15 tỷ 159 triệu đồng.
Nguồn vốn của NHCSXH đã hỗ trợ hơn 965 hộ thoát nghèo, tạo việc làm cho 8.503 lao động và giúp 2.544 học sinh, sinh viên khó khăn yên tâm học tập Đồng thời, đã cải tạo, sửa chữa và xây dựng mới 1.345 công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ hộ nghèo tại huyện Krông Bông Những kết quả này khẳng định nỗ lực của NHCSXH trong việc nhanh chóng đưa vốn chính sách đến tay người dân, giúp họ vượt qua khó khăn, phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập và ổn định cuộc sống.
Việc triển khai hiệu quả các chương trình tín dụng ưu đãi trong những năm qua được thực hiện nhờ sự ủng hộ từ cấp ủy, chính quyền địa phương và sự phối hợp chặt chẽ với các tổ chức hội, đoàn thể Hiện tại, huyện có 284 Tổ tiết kiệm và vay vốn với 11.047 hộ vay tại 14 Điểm giao dịch xã, thị trấn, giúp huy động vốn từ nhân dân và đưa nguồn tín dụng ưu đãi đến tay người nghèo và các đối tượng chính sách Điều này không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập mà còn hỗ trợ nông dân phát triển kinh tế, góp phần giảm nghèo bền vững.
Trong các chương trình cho vay ưu đãi, có 9 chương trình được ủy thác qua các tổ chức chính trị - xã hội, với sự tham gia của Tổ tiết kiệm và vay vốn tại cấp xã Các chủ trương, chính sách của Nhà nước được công khai và việc bình xét cho vay diễn ra minh bạch, dân chủ Sự sâu sát của cán bộ tín dụng và việc củng cố các Tổ tiết kiệm và vay vốn là rất quan trọng, giúp duy trì hoạt động của các Tổ giao dịch lưu động tại xã, thị trấn Điều này đã tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng chính sách ưu đãi của Chính phủ cho người nghèo và các đối tượng chính sách, đồng thời giảm chi phí giao dịch cho người vay Việc công khai, dân chủ trong sử dụng vốn chính sách và sự chỉ đạo của chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở cũng góp phần kiểm tra, giám sát và hỗ trợ người vay sử dụng vốn hiệu quả.
Đồng vốn chính sách trong những năm qua đã đạt được kết quả tích cực, trở thành công cụ tài chính hiệu quả của Nhà nước trong việc triển khai các chương trình tín dụng ưu đãi cho người nghèo và các đối tượng chính sách.
1.3.3 Bài học kinh nghiệm đối với Phòng Giao dịch huyện Yên Thành - Nghệ An, Ngân hàng chính sách xã hội
Cần hoàn thiện quy trình bình xét cho vay tại cơ sở một cách dân chủ và công khai, nhằm lựa chọn đúng đối tượng vay vốn Điều này giúp đảm bảo rằng vốn vay được sử dụng hiệu quả, tránh tình trạng cho vay không đúng đối tượng hoặc các hộ vay sử dụng vốn cho mục đích tiêu dùng không phù hợp.
Nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn của các hộ nghèo, NH cần tăng cường phối hợp với các hội đoàn thể, trưởng thôn và phụ trách khối phố Cần đưa ra mức cho vay và thời hạn cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của từng hộ, tránh tình trạng phân bổ vốn mang tính bình quân như hiện nay.
Ngân hàng cần tiến hành kiểm tra chéo đột xuất giữa các cán bộ tín dụng phụ trách các khoản vay để đảm bảo không xảy ra tình trạng cán bộ tín dụng "quên" các khoản vay.
NHCSXH cần hợp tác với các hội đoàn thể và tổ vay vốn để kiểm tra việc sử dụng vốn thông qua nhiều hình thức như kiểm tra tại chỗ, định kỳ, kiểm tra chéo và kiểm tra đột xuất Điều này nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các sai sót, từ đó uốn nắn và sửa chữa những vấn đề phát sinh.
Để nâng cao chất lượng hoạt động các điểm giao dịch lưu động tại xã, phường, cần đảm bảo 100% giao dịch như giải ngân, thu nợ, thu lãi được thực hiện tại các điểm này Củng cố và duy trì các cuộc họp giao ban định kỳ với các tổ chức chính trị xã hội là rất quan trọng Tại mỗi điểm giao dịch, cần công khai số dư nợ của từng hộ, đặc biệt là những hộ có nợ quá hạn Ngoài ra, chi nhánh nên thường xuyên phát động các phong trào thi đua, khuyến khích xã, phường và cán bộ tín dụng không có nợ quá hạn.
Để hỗ trợ hộ nghèo sử dụng vốn hiệu quả, ngân hàng cần áp dụng phương thức giải ngân linh hoạt, phù hợp với nhu cầu và dự án sản xuất của họ Đồng thời, ngân hàng cũng nên tạo điều kiện cho hộ nghèo trong việc trả nợ, lựa chọn cách thức thu hồi vốn hợp lý, nhằm tránh sự cứng nhắc trong quy trình thu nợ, từ đó giảm bớt khó khăn cho hộ nghèo.