NỘI DUNG
1.1 Cải cách nông thôn giai đoạn 1978 - 1991
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhiều quốc gia Châu Á, đặc biệt từ những năm 70 của thế kỷ XX, đã chú trọng đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi đây là nền tảng cho sự phát triển quốc gia Tại Trung Quốc, Hội nghị Trung ương 3, khóa XI của Đảng Cộng sản diễn ra từ 18 đến 22 tháng 11 năm 1978 tại Bắc Kinh, đã nhất trí chuyển trọng tâm vào hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa, kêu gọi toàn Đảng và nhân dân đoàn kết xây dựng Trung Quốc thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại Hội nghị đã nhấn mạnh tầm quan trọng của thực tiễn trong việc kiểm nghiệm chân lý và quyết định nhiều biện pháp mạnh mẽ nhằm khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, trong đó có việc đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và quy định công tác xã hội ở nông thôn Sự kiện này đánh dấu khởi đầu cho quá trình cải cách và mở cửa ở Trung Quốc, đặc biệt là chuyển đổi thể chế nông nghiệp, tạo bước ngoặt lớn trong công cuộc xây dựng đất nước.
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH CẢI CÁCH NÔNG THÔN
Cải cách nông thôn giai đoạn 1978 - 1991
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt từ những năm 70 của thế kỷ XX, nhiều nước Châu Á đã chú trọng đầu tư vào phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân, coi đây là điểm khởi đầu cho sự phát triển quốc gia Tại Trung Quốc, Hội nghị Trung ương 3, khóa XI của Đảng Cộng sản diễn ra từ 18 đến 22 tháng 11 năm 1978 đã nhất trí chuyển trọng tâm vào xây dựng và hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa Hội nghị đề ra đường lối phát triển nông nghiệp, kêu gọi sự đoàn kết toàn dân để xây dựng Trung Quốc thành cường quốc xã hội chủ nghĩa hiện đại Đặc biệt, hội nghị đã nhấn mạnh rằng "Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất để kiểm nghiệm chân lý" và quyết định hàng loạt biện pháp nhằm khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội Sự kiện này mở đầu cho quá trình cải cách và mở cửa tại Trung Quốc, đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc chuyển đổi thể chế nông nghiệp và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
1.1.1 Chuyển đổi thể chế kinh tế nông nghiệp, nông thôn (1978 - 1984)
Từ năm 1978 đến 1984, Trung Quốc đã tiến hành chuyển đổi thể chế kinh tế nông thôn thông qua cải cách thể chế nông nghiệp, hoàn thiện chế độ khoán sản xuất và đất đai, cùng với việc cải tiến các tổ chức kinh tế hợp tác và chế độ thu mua thống nhất Những thay đổi này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc cải cách và phát triển nông thôn, đánh dấu giai đoạn khởi đầu cho quá trình cải cách và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông thôn Trung Quốc trong thời kỳ mở cửa Nội dung chính của giai đoạn này tập trung vào ba vấn đề quan trọng.
1.1.1.1 Cải cách thể chế nông nghiệp
Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa XI Đảng cộng sản Trung Quốc, Hội nghị đã thảo luận bản dự thảo “Quyết định của Trung ương về Đảng cộng sản
Trung Quốc đang thúc đẩy phát triển nông nghiệp thông qua việc khôi phục và mở rộng quyền tự chủ cho các đội sản xuất, tái thiết lập tỷ lệ đất giao cho xã viên, phát triển nghề phụ gia đình và tập thể, cũng như khôi phục chợ nông thôn Một trong những điểm quan trọng là xây dựng và hoàn thiện chế độ trách nhiệm sản xuất, điều này không chỉ có ý nghĩa lớn mà còn là trụ cột cho cải cách thể chế nông nghiệp.
Từ những năm 1950 và 1960, chế độ khoán trong nông nghiệp đã được áp dụng tại một số địa phương ở Trung Quốc, đặc biệt là ở tỉnh Chiết Giang và Tứ Xuyên, mặc dù chưa được chính thức thừa nhận.
Trong những năm 50, phong trào hợp tác hóa và chế độ khoán ở Hồ Bắc, Hà Nam, Thiểm Tây đã bị phê bình nghiêm khắc và coi là phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa Đến đầu thập kỷ 60, chế độ khoán bùng phát ở Hà Nam, An Huy, Tứ Xuyên nhưng vẫn bị xem là xa rời đấu tranh giai cấp Dù chế độ trách nhiệm bị cấm đoán, chế độ khoán sản vẫn được thực hiện bí mật ở một số địa phương Cuối năm 1978, tại xã Lí Yên, huyện Phượng Dương, một tổ sản xuất gồm 18 hộ nông dân đã tiến hành khoán bí mật, chia 518 mẫu ruộng theo số nhân khẩu và phần còn lại thuộc về các nông hộ Nông dân giải thích rằng cách khoán này giúp họ “giao đủ cho nhà nước, nộp đủ cho tập thể, còn lại là của mình”, liên kết sản lượng với sức lao động Mặc dù chế độ khoán nhiều lần bị phủ nhận, từ Hội nghị Trung ương 3, khóa XI, nó đã được chính thức thừa nhận.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 9 năm 1979 đã thông qua “Quyết định về một số vấn đề đẩy nhanh phát triển nông nghiệp”, nêu rõ bốn nội dung chính: thống nhất nhận thức trong Đảng về nông nghiệp, đề ra 25 chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, thực hiện quy hoạch hiện đại hóa nông nghiệp, và tăng cường lãnh đạo của Đảng và nhà nước đối với nông nghiệp, cho phép thực hiện chế độ khoán ở một số địa phương Đến tháng 9 năm 1980, Trung ương Đảng đã ra Thông tri “Về một số vấn đề tăng cường và hoàn thiện hơn nữa chế độ trách nhiệm sản xuất nông nghiệp”, nhấn mạnh sự cần thiết phải hỗ trợ yêu cầu khoán tới hộ tại các khu vực khó khăn, nhằm cải thiện tình hình sản xuất và đời sống của quần chúng Thông tri này đánh dấu sự chuyển biến quan trọng trong chính sách của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ khoán trách nhiệm.
1.1.1.2 Cải cách thể chế nông thôn
Ngày 01 tháng 01 năm 1982, Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã phê chuẩn văn bản “Kỷ yếu hội nghị công tác nông thôn toàn quốc” (gọi tắt văn kiện số 1 năm 1982) Bản Kỷ yếu đã khẳng định đầy đủ chế độ khoán trách nhiệm sản xuất đó là: Nông thôn toàn quốc đã có hơn 90% đội sản xuất xây dựng chế độ khoán trách nhiệm sản xuất với hình thức khác nhau; những biến động quy mô lớn đi qua, hiện nay đã chuyển sang giai đoạn tổng kết, hoàn thiện và ổn định Công tác xây dựng chế độ trách nhiệm sản xuất đạt được tiến triển nhanh như vậy phản ánh nguyện vọng thiết tha của hàng trăm triệu nông dân về phát triển nông nghiệp xã hội chủ nghĩa từ tình hình thực tế của nông thôn Trung Quốc [5; 50] Thông tri khẳng định, việc thực hiện chế độ khoán trách nhiệm đều là chế độ trách nhiệm sản xuất của kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa, đây là bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp Xã hội chủ nghĩa và cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tùng bước phát triển kinh tế tập thể hoàn thiện
Trong báo cáo chính trị tại Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Trung Quốc (1 - 7/9/1982), mục tiêu đề ra là tăng gấp 4 lần giá trị nông nghiệp đến cuối thế kỷ XX, với trọng điểm chiến lược là giải quyết vấn đề nông nghiệp Để hiện thực hóa cương lĩnh chính trị này, Trung ương Đảng đã ban hành văn kiện số 1 vào năm 1983.
01 năm 1983), với nhan đề “Một số vấn đề trong chính sách kinh tế nông nghiệp hiện nay” Nếu như văn kiện số 1 năm 1982, xác định tính chất
Văn kiện số 1 năm 1983 khẳng định rằng “khoán” không phải là tư hữu hóa, mà là một sáng tạo vĩ đại của nông dân Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Điều này đánh dấu một bước tiến mới trong thực tiễn Trung Quốc, thể hiện sự phát triển của lý luận về hợp tác hóa nông nghiệp Mác xít.
Văn kiện này nêu rõ các quan điểm chủ đạo trong chính sách kinh tế nông thôn, bao gồm việc xác định ổn định và hoàn thiện chế độ trách nhiệm trong sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ chính Ba vấn đề lớn của nông thôn Trung Quốc hiện nay là chặt phá rừng bừa bãi, giảm đất canh tác và dân số tăng nhanh Để giải quyết các vấn đề này, cần nhấn mạnh vai trò gương mẫu của Đảng viên và cán bộ trong việc chấp hành chính sách Hơn nữa, cần căn cứ vào tình hình thực tế của Trung Quốc để từng bước cải cách cấu trúc kinh tế nông nghiệp, thể chế và kỹ thuật, hướng tới phát triển nông nghiệp Xã hội chủ nghĩa với đặc trưng Trung Quốc.
Ngày 01 tháng 01 năm 1984, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban hành Thông tư về công tác nông thôn năm 1984 (văn kiện số 1 năm
Văn kiện năm 1984 nhấn mạnh việc ổn định và hoàn thiện chế độ khoán, nhằm nâng cao trình độ lực lượng sản xuất và phát triển sản xuất hàng hóa Đặc biệt, nó khuyến khích nông dân mở rộng quy mô sản xuất thông qua kinh doanh hộ gia đình, nâng cao hiệu quả kinh doanh với thời hạn khoán ruộng đất kéo dài trên 15 năm Ngoài ra, văn kiện cho phép tiền vốn của nông dân và tập thể lưu thông tự do hoặc có tổ chức, dẫn đến việc khoán sản xuất diễn ra đa dạng ở nhiều địa phương.
Chương trình khoán sản xuất nông nghiệp bao gồm việc giao đất canh tác cho các hộ gia đình, thực hiện khoán công lao động, khoán sản lượng và khoán giá thành Trong đó, khoán sản lượng được xác định với mức sản lượng nhất định; nếu các hộ gia đình vượt qua mức sản lượng này, phần dư sẽ thuộc về họ.
Hình thức khoán theo lao động được áp dụng trong giai đoạn đầu thực hiện chế độ khoán trách nhiệm, không phân chia ruộng đất bình quân theo hộ gia đình, mà thay vào đó là khoán dựa trên sức lao động của từng hộ.
Ba là khoán theo tổ, đội sản xuất khoán ruộng đất, định mức theo tổ, các tổ tiến hành phân công hay khoán các khâu cho các thành viên
Chế độ “lưỡng điền” (hai loại ruộng) được áp dụng trong đội sản xuất, chia ruộng đất thành hai loại: “ruộng lương thực” theo số nhân khẩu và “ruộng trách nhiệm” theo sức lao động, với phần dư thuộc về người nhận khoán Đồng thời, việc khoán từng khâu tới hộ cũng được thực hiện, trong đó ruộng đất được phân chia dựa trên nhân khẩu và một phần theo sức lao động Các hộ chỉ cần hoàn thành định mức giao nộp sản phẩm hoặc thuế cho đội sản xuất, phần còn lại sẽ thuộc về họ.
Triển khai theo chủ trương ban hành, các hình thức khoán đã được thực hiện tại nhiều địa phương Chế độ khoán trách nhiệm trải qua các giai đoạn: từ cuối năm 1978 đến tháng 9 năm 1980 là thời kỳ thí điểm; từ tháng 10 năm 1980 đến cuối năm 1981 là giai đoạn phát triển; và từ năm 1982 đến 1984 là thời kỳ tổng kết, ổn định và hoàn thiện Đến cuối năm 1984, cả nước có 5,69 triệu đội sản xuất, trong đó 99,96% số đội đã thực hiện khoán sản đến hộ, chiếm 98,2% số thôn, 96,3% số hộ, và 98,6% đất canh tác trên toàn quốc.
Đẩy mạnh phát triển nông thôn giai đoạn 1992 - 2005
1.2.1 Một số chính sách, biện pháp phát triển kinh tế nông thôn 1.2.1.1 Xây dựng hệ thống thị trường nông thôn
Chế độ khoán và giải thể công xã nhân dân đã khuyến khích nông dân, nhưng chế độ thu mua lương thực hạn chế sự tích cực của họ do giá thu mua thấp cho sản phẩm vượt định mức Việc mua bán nông sản trước đây chủ yếu mang tính danh nghĩa, khiến nông dân cảm thấy như đang đóng góp cho nhà nước Cải cách chế độ thu mua nông sản cần thiết để trở lại với thực chất của trao đổi ngang giá, ảnh hưởng đến lợi ích của người sản xuất và tiêu dùng Ngày 01 tháng 10 năm 1991, Quốc vụ viện Trung Quốc phê duyệt việc xây dựng thị trường buôn bán lương thực Trịnh Châu, từ đó thị trường này dần phát triển từ trao đổi hàng hóa đơn giản đến hợp đồng ngắn hạn Đến tháng 4 năm 1992, tỉnh Quảng Đông đã thả nổi giá lương thực, và đến cuối năm 1992, hầu hết các tỉnh ở Trung Quốc cũng thực hiện điều này Tháng 2 năm 1993, Quốc vụ viện ban hành “Thông tri về đẩy nhanh cải cách thể chế lưu thông lương thực”, xóa bỏ biện pháp định lượng đã tồn tại hơn 40 năm Đến tháng 3 năm 1994, “Thông tri về đi sâu cải cách chế độ thu mua lương thực” nhấn mạnh vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước và chính quyền tỉnh trong việc ổn định lương thực và điều tiết kho dự trữ tại địa phương.
Năm 1998, Trung Quốc thực hiện chính sách “Bốn tách rời, một hoàn thiện” nhằm tách biệt chính quyền và doanh nghiệp, phân rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, và hoàn thiện cơ chế giá lương thực Tuy nhiên, do giá lương thực giảm mạnh, nhà nước phải can thiệp bằng cách áp dụng “ba chính sách, một cải cách” để bảo vệ giá lương thực, thực hiện mua bán theo thị trường, cải cách doanh nghiệp lương thực quốc doanh và tinh giản nhân sự Chính sách này đã giúp bảo vệ lợi ích của nông dân Vào tháng 8 năm 2001, Quốc vụ viện tổ chức hội nghị công tác lương thực toàn quốc nhằm thúc đẩy cải cách thể chế lưu thông lương thực.
Dưới sự điều tiết của nhà nước, thị trường lương thực đã được nới lỏng, cho phép các tỉnh sản xuất lớn như Chiết Giang, Hải Nam và Giang Tô tự do điều chỉnh sản xuất theo nhu cầu thị trường Nông dân có quyền quyết định cây trồng và sản lượng mà không có sự bảo hộ giá từ nhà nước Đồng thời, nhà nước đã tăng cường quỹ rủi ro lương thực và chế độ dự trữ, góp phần hình thành hệ thống thị trường nông sản và nâng cao mức độ thị trường hóa trong lĩnh vực này.
Với sự phát triển của thị trường nông sản, hệ thống chợ bán buôn đã được hình thành và trở thành hạt nhân quan trọng Đến cuối năm 2000, Trung Quốc có hơn 5000 chợ bán buôn nông sản, trong đó có 201 chợ được quy hoạch bởi Bộ Nông nghiệp, tạo nên mạng lưới phong phú với đủ loại sản phẩm như rau củ quả, hải sản, thịt gia súc gia cầm và hoa tươi Thị trường bán buôn đóng vai trò thiết yếu trong việc tập trung, phân phối, hình thành giá cả và chuyển tải thông tin về sản phẩm nông nghiệp Một số chợ nổi bật bao gồm Đại Trung Tự ở Bắc Kinh, Lạc Đình ở Hà Bắc, Thọ Quang ở Sơn Đông, và Bố Cát ở Thẩm Quyến, cùng với các chợ bán buôn rau quả Giang Nam, Tây Bắc và Tứ Mã Kiều.
Trịnh Châu, thuộc tỉnh Hà Nam, đã chứng kiến sự phát triển của hệ thống thị trường nông sản, góp phần phá vỡ tình trạng độc quyền của các công ty lương thực quốc doanh Thị trường nông sản giờ đây đã hình thành với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo ra sự đa dạng trong các hình thức giao dịch nông sản.
Sự phát triển của hệ thống thị trường nông sản đã tạo ra tác động tích cực đến sản xuất và lưu thông nông sản, tạo cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn Hệ thống này thúc đẩy quá trình thị trường hóa, thay thế các kênh thu mua truyền thống, đồng thời khuyến khích cải cách trong lĩnh vực lưu thông nông sản, phá vỡ thế độc quyền Sự hình thành thị trường nông sản đã mở rộng các vùng chuyên canh và chuyên doanh, nâng cao vai trò của thị trường trong phân bổ nguồn lực, thu hút đông đảo nông dân phát huy ưu thế nguồn lực địa phương Tuy nhiên, hệ thống này vẫn còn nhiều hạn chế như thiếu quy hoạch thống nhất, trình độ tổ chức thấp và cơ sở hạ tầng kém Nông dân thường ở vị thế yếu trong giao dịch, thiếu thông tin thị trường và đối mặt với rủi ro cao Do đó, cần xây dựng một hệ thống thị trường nông sản thống nhất và nâng cao trình độ thị trường hóa nông nghiệp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nông thôn.
1.2.1.2 Điều chỉnh chính sách phát triển xí nghiệp hương trấn
Năm 1992, trong các chuyến thị sát phương Nam, đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh rằng xí nghiệp hương trấn là một trong ba ưu thế lớn trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc Chính phủ Trung Quốc đã quy định rõ rằng nguồn vốn phát triển xí nghiệp hương trấn cần phải tập trung từ nông dân, và việc phát triển này phải dựa vào nông sản cũng như nguyên liệu gia công tại địa phương Tại Đại hội lần thứ XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc, các chính sách này tiếp tục được khẳng định và thúc đẩy.
Từ ngày 12 đến 18 tháng 10 năm 1992 tại Bắc Kinh, đã nhấn mạnh rằng phát triển xí nghiệp hương trấn là con đường tất yếu để đạt được phồn vinh kinh tế nông thôn, tăng thu nhập cho nông dân, và thúc đẩy hiện đại hóa nông nghiệp Quốc vụ viện Trung Quốc đã yêu cầu các cấp chính quyền coi sự phát triển của xí nghiệp hương trấn là nhiệm vụ chiến lược Trong báo cáo chính trị Đại hội lần thứ XIV, Đảng Cộng sản Trung Quốc khẳng định cần phải hỗ trợ và tăng tốc phát triển xí nghiệp hương trấn, đặc biệt ở miền Trung, miền Tây và các vùng dân tộc ít người.
Năm 1993, Quốc vụ viện đã ban hành “Quyết định về đẩy nhanh phát triển xí nghiệp hương trấn miền Trung và miền Tây” Đặc biệt, tại Hội nghị
Trung ương 3, khóa XIV đã ban hành “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa”, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của xí nghiệp hương trấn Sự ra đời của Luật xí nghiệp hương trấn vào năm 1997 đã cung cấp cơ sở pháp lý cần thiết cho việc cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của các xí nghiệp này Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa XV, các vấn đề liên quan tiếp tục được thảo luận và thông qua, góp phần củng cố khung pháp lý cho xí nghiệp hương trấn.
Xí nghiệp hương trấn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc dân, nhưng hiện đang đối mặt với nhiều thách thức Để vượt qua khó khăn, cần thực hiện nghiêm túc chiến lược khoa học và giáo dục nhằm chấn hưng nông nghiệp, nông thôn Phát triển bền vững, tập trung vào thương hiệu và đáp ứng nhu cầu thị trường là điều cần thiết, với chất lượng và hiệu quả làm trung tâm Đồng thời, cần đẩy mạnh cải cách, điều chỉnh cơ cấu và bố cục, nâng cao tố chất tổng thể, chất lượng vận hành và hiệu quả kinh tế.
Xí nghiệp hương trấn đang đối mặt với nhiều khó khăn, bao gồm quyền tài sản không rõ ràng và mối quan hệ chưa tách bạch với chính quyền Hình thức sở hữu của các xí nghiệp này đa dạng, từ sở hữu của xã, thôn đến cổ phần của nông dân và liên doanh với nước ngoài Đến năm 1995, số lượng xí nghiệp hương trấn đã đạt 22,03 triệu, chủ yếu tập trung ở vùng nông thôn và thị trấn Tuy nhiên, cơ cấu ngành nghề của các xí nghiệp này thường giống với các công ty thành phố, dẫn đến sự trùng lặp sản phẩm và hiệu quả sản xuất thấp Trình độ khoa học kỹ thuật còn hạn chế, với quản lý chủ yếu là nông dân có trình độ văn hóa và quản lý thấp Thiết bị và công nghệ lạc hậu, kém chất lượng sản phẩm, trong khi áp lực cạnh tranh từ thị trường ngày càng gia tăng do sự phát triển của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Từ năm 1995 đến 2000, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ IX, đánh dấu giai đoạn phát triển mới cho các xí nghiệp hương trấn Trong thời kỳ này, các xí nghiệp hương trấn đã đạt được sự tăng trưởng ổn định, góp phần quan trọng vào nền kinh tế địa phương.
2000 tổng giá trị sản phẩm của xí nghiệp hương trấn đạt 11.615 tỷ NDT, tăng bình quân 11%, trong đó giá trị công nghiệp đạt 8.245,6 tỷ NDT [5;
Trong giai đoạn này, tổng lượng kinh tế tăng trưởng ổn định, quy mô doanh nghiệp hương trấn ngày càng mở rộng, chất lượng và hiệu quả kinh tế được cải thiện liên tục, đồng thời khả năng thích ứng với nền kinh tế thị trường cũng được nâng cao.
1.2.1.3 Thay đổi cơ chế kinh doanh nông nghiệp
Chất lượng và hiệu quả là yếu tố then chốt trong phát triển nông nghiệp trong giai đoạn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Để phát triển nông nghiệp, cần điều chỉnh vĩ mô và tìm kiếm cơ chế kinh doanh hiệu quả Đổi mới cơ chế kinh doanh nông nghiệp cần dựa trên việc ổn định chế độ khoán trách nhiệm, thúc đẩy trao đổi ruộng đất, phát triển dịch vụ xã hội hóa nông nghiệp, và hoàn thiện cơ chế kinh doanh Đồng chí Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh sự cần thiết của chế độ khoán trách nhiệm trong bài phát biểu năm 1990, đề xuất hai bước nhảy vọt: xóa bỏ công xã nhân dân và thực hiện khoán đến hộ gia đình, đồng thời thích ứng với yêu cầu trồng trọt khoa học và phát triển kinh tế tập thể Chính sách đất đai đã được điều chỉnh, tạo điều kiện cho thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp phát triển, với 2,384 triệu hộ gia đình cho thuê đất khoán vào năm 1994.
Mặc dù giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp đang trong giai đoạn đầu thực hiện và chưa có quy phạm rõ ràng, nhiều giao dịch vẫn dẫn đến mâu thuẫn và vi phạm pháp luật Tại Hội nghị Trung ương 3, khóa XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đã khẳng định rằng việc thực hiện kinh doanh khoán gia đình cần phải phù hợp với quy luật sản xuất, nhằm đảm bảo quyền tự chủ tối đa cho nông dân Điều này không chỉ giúp nông dân linh hoạt trong việc ra quyết định dựa trên thị trường, khí hậu và môi trường mà còn thúc đẩy sản xuất nông thôn, tăng thu nhập và sắp xếp lao động hiệu quả Phương thức này phù hợp với cả nông nghiệp truyền thống và hiện đại, đòi hỏi sự kiên trì và phát triển bền vững.