1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Cách sử dụng thành ngữ trong tiểu thuyết biển và chim bói cá của bùi ngọc tân

168 12 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 168
Dung lượng 1 MB

Cấu trúc

  • Chương 1 (0)
    • 1.1. Khái quát về thành ngữ (12)
      • 1.1.1. Khái niệm thành ngữ (12)
      • 1.1.2. Đặc trưng thành ngữ (0)
    • 1.2. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ và thành ngữ trong văn bản nghệ thuật (18)
      • 1.2.1. Phân biệt thành ngữ với tục ngữ (18)
      • 1.2.2. Thành ngữ trong văn bản nghệ thuật (22)
    • 1.3. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học của Bùi Ngọc Tấn (25)
      • 1.3.1. Về cuộc đời (25)
      • 1.3.2. Về sự nghiệp sáng tác Chương 2 (0)
    • 2.1. Thống kê định lượng và tần số sử dụng thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá 27 2.2. Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn xét về nguồn gốc và cấu tạo (28)
      • 2.2.1. Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá xét về nguồn gốc (29)
      • 2.2.2. Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá xét về cấu tạo (33)
    • 2.3. Thành ngữ trong trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn xét về chức năng ngữ pháp (48)
      • 2.3.1. Thành ngữ làm thành phần chính trong câu (48)
      • 2.3.2. Thành ngữ đảm nhiệm chức năng thành phần phụ (0)
      • 2.3.3. Thành ngữ tách ra thành câu độc lập (57)
  • Chương 3 (0)
    • 3.1. Khái niệm ngữ nghĩa và ngữ nghĩa trong thành ngữ (61)
      • 3.1.1. Khái niệm ngữ nghĩa (61)
      • 3.1.2. Ngữ nghĩa trong thành ngữ (0)
    • 3.2. Các nhóm ngữ nghĩa của thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn (63)
      • 3.2.1. Nhóm thành ngữ phản ánh hiện thực xã hội trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn (63)
        • 3.2.1.1. Thể hiện thái độ (63)
      • 3.2.2. Lối sống, cách ứng xử, hành động, tính cách, tâm lý của nhân vật (66)
      • 3.2.3. Nhóm thành ngữ mang dấu ấn những nét phong tục tập quán và văn hoá người Việt (75)
      • 3.2.4. Nhóm thành ngữ miêu tả đặc điểm của thiên nhiên (76)
    • 3.3. Hiệu quả nghệ thuật của việc sử dụng thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn (78)
      • 3.3.1. Thể hiện tính cân đối, hài hoà nhịp nhàng cho câu văn (79)
      • 3.3.2. Thể hiện tính hàm súc, ngắn gọn, sâu sắc, cụ thể cho câu văn (81)
      • 3.3.3. Thể hiện tính hình tượng, giàu sắc thái biểu cảm, giàu sức liên tưởng cho câu văn (82)
      • 3.3.4. Thể hiện thái độ đánh giá, nhận xét của Bùi Ngọc Tấn về thế sự, con người, xã hội (84)
    • 3.4. Tiểu kết chương 3 (86)
  • KẾT LUẬN (87)

Nội dung

Khái quát về thành ngữ

Thành ngữ là một khái niệm thú vị thu hút sự chú ý của nhiều người Định nghĩa về thành ngữ đã được nhiều tác giả nổi bật đưa ra, mỗi người có cách tiếp cận riêng để làm rõ ý nghĩa của nó.

Hồ Lê (1976) trong cuốn "Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại" định nghĩa thành ngữ là những tổ hợp từ có cấu trúc vững chắc và ý nghĩa bóng bẩy, được sử dụng để miêu tả hình ảnh, hiện tượng, tính cách hoặc trạng thái nào đó.

Nguyễn Văn Tu (1968) trong tác phẩm "Từ vựng học tiếng Việt hiện đại" đã nhận xét rằng thành ngữ là những cụm từ cố định, trong đó các từ đã mất tính độc lập cao và kết hợp thành một khối vững chắc Nghĩa của thành ngữ không chỉ đơn thuần là tổng hợp nghĩa của từng từ mà có thể mang tính hình tượng hoặc không Ngoài ra, nghĩa của chúng có thể khác biệt so với nghĩa của các từ cấu thành, nhưng vẫn có thể giải thích dựa trên nguyên do từ nguyên học.

Theo Mai Ngọc Chừ (2001) trong tác phẩm "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt", thành ngữ được định nghĩa là những cụm từ cố định, hoàn chỉnh cả về cấu trúc lẫn ngữ nghĩa.

Nghĩa của chúng có tính hình tượng và gợi cảm” [12, 157]

Theo Hoàng Văn Hành (2010) trong Tuyển tập ngôn ngữ học, thành ngữ được hiểu là một tổ hợp từ cố định, có tính bền vững về hình thức và cấu trúc, mang nghĩa hoàn chỉnh và bóng bẩy, được sử dụng với các chức năng tương tự như từ.

Hay theo Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng Việt, cũng đưa ra khái niệm:

“Thành ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường không

12 thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên.” [54,

Nguyễn Thiện Giáp (2008) trong Giáo trình ngôn ngữ học định nghĩa thành ngữ (idiom) là những cụm từ có cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa đặc biệt, không thể suy luận từ nghĩa của các từ riêng lẻ Nói cách khác, ý nghĩa của thành ngữ không được hình thành từ các thành phần cấu tạo của nó.

Thành ngữ là những cụm từ cố định với kết cấu vững chắc và ý nghĩa hoàn chỉnh, thường được sử dụng như từ để tạo thành câu Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về thành ngữ, nhưng chúng tôi hiểu rằng thành ngữ mang tính bóng bẩy và có chức năng quan trọng trong ngôn ngữ.

Chúng tôi dựa vào những đặc điểm trong định nghĩa này để làm cơ sở thuận tiện cho quá trình khảo sát, phân tích, miêu tả trong luận văn

Thành ngữ là một đơn vị ngôn ngữ đặc biệt, đóng vai trò quan trọng trong việc cấu tạo câu Nó có bốn đặc trưng cơ bản: kết cấu, nghĩa, cách sử dụng, và tính dân tộc Những đặc trưng này giúp thành ngữ thể hiện sự phong phú và đa dạng của ngôn ngữ.

1.1.2.1 Đặc trưng về kết cấu

Thành ngữ tiếng Việt là những cụm từ cố định với cấu trúc vững chắc, thể hiện sự ổn định về số lượng tiếng và trật tự của các thành tố Sự ổn định này giúp thành ngữ trở thành một phần quan trọng trong ngôn ngữ, mang lại ý nghĩa rõ ràng và dễ hiểu cho người sử dụng.

Thành ngữ thường bao gồm ít nhất hai tiếng, như "trắng tay," "mát mặt," hay "đỏ hỏn." Tuy nhiên, quan điểm phổ biến cho rằng thành ngữ nên có từ ba âm tiết trở lên, ví dụ như "đẹp như tiên," nghĩa là vẻ đẹp được so sánh với nàng tiên.

Các thành ngữ so sánh thường được sử dụng bao gồm: "chạy như bay," "nhanh như sóc," "chậm như rùa," "ngang như cua," "đỏ như máu," "nát như tương," "đau như cắt," "trắng như bông," và "cứng như sắt." Những hình ảnh so sánh này giúp diễn đạt cảm xúc và trạng thái một cách sinh động và dễ hiểu.

Thành ngữ 4 âm tiết, như "một nắng hai sương", "cây nhà lá vườn", và "bắt cá hai tay", chiếm 70% trong tổng số thành ngữ tiếng Việt Số lượng âm tiết chẵn được chia thành hai vế, tạo nên sự cân đối hài hòa, góp phần làm cho kết cấu của thành ngữ trở nên bền chặt Tính cân đối hài hòa này chính là một đặc trưng nổi bật của thành ngữ trong tiếng Việt.

Thành ngữ 5 âm tiết không phổ biến, bao gồm những câu như: "đầu cá vá đầu tôm", "đánh chết nết không chừa", "đa nghi như Tào Tháo", "chân nam đá chân chiêu", "giỡ mặt như bàn tay", "đẹp như tranh tố nữ", "như cá nằm trên thớt", "vải thưa che mắt thánh", "chạy trời không khỏi nắng", và "đũa mốc chòi mâm son".

Loại 6 âm tiết có số lượng lớn thứ hai sau 4 âm tiết: đổ mồ hôi, sôi nước mắt; đứng núi này trông núi nọ; được ăn cả, ngã về không; cây ngay, không sợ chết đứng; chết đuối bám phải bọt nước; được đằng chân, lân đằng đầu; chó tha đi, mèo tha lại; trống đánh xuôi, kèn thổi ngược;…

Loại thơ 7, 8 âm tiết không phổ biến, nhưng vẫn có những câu đặc sắc như: "Đạp vở dưa thấy vỏ dừa mà sợ", "Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết", "Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã tường", "Vắng chúa nhà gà mọc đuôi tôm" Những câu thơ này thể hiện sự sáng tạo và phong phú trong ngôn ngữ.

Phân biệt thành ngữ với tục ngữ và thành ngữ trong văn bản nghệ thuật

1.2.1 Phân biệt thành ngữ với tục ngữ

Thành ngữ và tục ngữ đóng vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân, đồng thời là đối tượng nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học Thành ngữ thường được nghiên cứu trong ngôn ngữ học, đặc biệt là trong bộ môn từ vựng và ngữ nghĩa học, trong khi tục ngữ lại là chủ đề chính của một số ngành khoa học khác.

18 cứu của văn học dân gian Thế nhưng hiểu đúng nghĩa một câu thành ngữ, một câu tục ngữ, trong một số trường hợp, cũng không đơn giản

Từ trước đến nay các nhà nghiên cứu cố gắng đưa ra tiêu chí phân biệt thành ngữ và tục ngữ, tiêu biểu là các công trình:

Tác giả Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn sử yếu (in lần hai tại Hà

Theo Nội (1951), câu tục ngữ cần có ý nghĩa đầy đủ, có thể là lời khuyên hoặc chỉ dẫn, trong khi thành ngữ chỉ là những cụm từ có sẵn để diễn đạt một ý tưởng hoặc mô tả trạng thái một cách sinh động.

Tác giả đã đưa ra nhận xét về sự tương đồng giữa thành ngữ và tục ngữ, tuy nhiên nhận xét này chưa thật sự rõ ràng Nếu đúng như vậy, tác dụng của thành ngữ sẽ không khác gì so với tác dụng của tục ngữ.

Theo Cù Đình Tú (1973), sự khác biệt cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ nằm ở chức năng: thành ngữ là đơn vị định danh tương đương với từ, trong khi tục ngữ là những thông báo giống như ca dao và truyện cổ tích Vũ Ngọc Phan (1978) cũng nhấn mạnh rằng tục ngữ diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét hay kinh nghiệm, trong khi thành ngữ chỉ là phần câu không thể tự diễn đạt một ý nghĩa hoàn chỉnh Về mặt ngữ pháp, thành ngữ là nhóm từ chưa hoàn chỉnh, còn tục ngữ dù ngắn vẫn là câu hoàn chỉnh Thành ngữ và từ có mối quan hệ ngang hàng, với thành ngữ được hình thành qua thời gian thành cụm gắn bó.

Hoàng Văn Hành đã phân biệt thành ngữ và tục ngữ dựa trên các tiêu chí như hình thái cấu trúc, chức năng biểu hiện nghĩa định danh, chức năng biểu hiện hình thái nhận thức và đặc trưng ngữ nghĩa.

Tác giả Đỗ Thị Kim Liên trong tác phẩm "Tục ngữ Việt Nam dưới góc nhìn ngữ nghĩa - ngữ dụng" đã đưa ra các tiêu chí phân loại thành ngữ và tục ngữ dựa trên bốn khía cạnh: cấu tạo, ngữ nghĩa, chức năng và đích tác động.

Vấn đề phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ đã được các nhà nghiên cứu xem xét từ nhiều góc độ khác nhau, và hiện tại, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết triệt để, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Dựa trên các công trình nghiên cứu trước đó, chúng ta có thể sử dụng những tiêu chí cụ thể để nhận diện sự khác biệt cơ bản giữa thành ngữ và tục ngữ, trong đó có yếu tố số lượng âm tiết.

Thành ngữ có cả 3 âm tiết, nhưng thường chủ yếu có cấu tạo 4 âm tiết Trong 478 thành ngữ (cuốn Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ) mà giáo sư Hoàng

Văn Hành đã phân tích 243 thành ngữ 4 âm tiết, chiếm 43,7% trong tổng số Trong khi đó, trong 9000 tục ngữ được chọn lọc bởi Vương Trung Hiếu, tục ngữ thường có cấu trúc từ 6 âm tiết trở lên, mặc dù cũng tồn tại một số tục ngữ 4 âm tiết nhưng số lượng không đáng kể Sự khác biệt giữa tục ngữ và thành ngữ nằm ở mục đích sử dụng: tục ngữ thường nhằm khuyên răn và rút kinh nghiệm trong ứng xử, trong khi thành ngữ chỉ đơn thuần là những lối nói hình ảnh bóng bẩy.

Thành ngữ là một cụm từ cố định, biểu thị một khái niệm với các thành tố có mối quan hệ chặt chẽ, đóng vai trò là một phần trong câu.

Văn phòng có trách nhiệm báo cáo với giám đốc về các cuộc họp kéo dài hơn nửa tiếng mà chưa đủ đại biểu tham dự, trong khi ông vẫn giữ thái độ bình thản.

77] → các thành tố cấu tạo nên thành ngữ bình chân như vại có quan hệ chặt chẽ

Thuyền trưởng Trần Bôn sống trong khu tập thể với những ngôi nhà ba tầng xây song song, từng là biểu tượng cho sự phát triển không ngừng của thành phố Hải Triều Các thành tố cấu tạo nên thành ngữ "thay da đổi thịt" có mối quan hệ chặt chẽ, phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ trong cuộc sống.

Tục ngữ là những câu có cấu trúc ổn định, thể hiện mối quan hệ tự do và cú pháp giữa các thành tố Ví dụ điển hình là câu: "Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm," minh họa rõ nét sự liên kết giữa hiện tượng thiên nhiên và hành vi của loài chuồn chuồn.

Tục ngữ "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn" nhấn mạnh giá trị bên trong quan trọng hơn vẻ bề ngoài Câu nói "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn" khuyến khích việc học hỏi qua trải nghiệm thực tế Các thành tố trong những câu tục ngữ này có mối quan hệ tự do, thể hiện sự linh hoạt trong cách diễn đạt ý nghĩa Chức năng của chúng là truyền tải tri thức và kinh nghiệm sống quý báu.

Thành ngữ, với bản chất là cụm từ cố định, chỉ đóng vai trò là một phần trong câu, do đó chúng có chức năng cấu tạo câu Ngược lại, tục ngữ là những câu độc lập, mang tính phán đoán và thông báo, do đó chúng thực hiện chức năng cấu tạo đoạn văn.

- Thành ngữ làm chức năng cấu tạo câu

(7) Giờ Bá đã có mặt ở chợ chính, khu chợ bán đồ cũ Hàng hóa xếp bạt ngàn như núi, thượng vàng hạ cám không thiếu một thứ gì

- Tục ngữ làm chức năng cấu tạo đoạn

Lá Lốt và Xương Xông là đôi bạn không thể tách rời; bên Bắc có chùa, đừng để miếu bên Đông trở nên tồi tàn; bát sứ quý giá không thể thiếu bát đàn; và nồi cơm nếp phải luôn đi cùng với Khoai Lang Củ.

Thành ngữ là một hình ảnh sinh động, biểu cảm, giàu tính hình tượng

Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học của Bùi Ngọc Tấn

Bùi Ngọc Tấn (1934-2014), sinh ra tại Câu Tử, Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng

Bố ông từng giữ chức vụ chủ tịch xã sau khi cách mạng thành công và sau đó là chủ tịch mặt trận Liên Việt huyện Thủy Nguyên trong thời kỳ kháng chiến toàn quốc.

Năm 1947, Thủy Nguyên bị quân Pháp chiếm đóng, gia đình ông phải tản cư lên Bắc Giang và Thái Nguyên để tiếp tục học văn hóa Ông học rất giỏi và thi tiểu học, đạt thành tích cao nhất liên khu Việt Bắc Phần thưởng cho sự nỗ lực của ông là một chiếc cặp da do thầy Hoàng Ngọc Phách, nhà tiểu thuyết đầu tiên ở Việt Nam và giám đốc sở Giáo dục liên khu, trao tặng.

Suốt thời gian học trung học, ông đều nhất lớp, được học bổng toàn phần Năm 1954, ông vào đội Thanh niên xung phong tiếp quản Thủ Đô

Cuối năm 1954, Bùi Ngọc Tấn từ chối học kỹ thuật ở nước ngoài và trở về làm phóng viên cho báo Tiền Phong, thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam Ông bắt đầu sự nghiệp viết văn và viết báo từ năm 1954, với nhiều tác phẩm được xuất bản ở các nhà xuất bản như Văn học, Lao động, Thanh niên, và Phổ thông khi mới ngoài hai mươi tuổi Trước khi trở thành nhà văn, ông đã làm phóng viên tại Hà Nội với bút danh Tân Sắc.

Cuối năm 1959 ông chuyển về báo Hải Phòng, thành phố quê hương, thâm nhập công nông để “viết tác phẩm của đời mình” Tháng 11 năm 1968 ông bị

25 đưa đi tập trung cải tạo đến tháng 4 năm 1973 thì được ra và tiếp tục viết, sáng tác

Những năm tháng làm việc tại quốc doanh đánh cá Hạ Long đã là nguồn cảm hứng cho Bùi Ngọc Tấn viết tiểu thuyết "Biển và chim bói cá," một tác phẩm có giá trị nội dung và hình thức Tác phẩm này không chỉ phản ánh những góc khuất của xã hội mà còn đóng góp đáng kể về mặt nghệ thuật Dù không đồ sộ về số lượng trang, nhưng những đóng góp của tác phẩm đã khẳng định vị trí của tác giả trong nền văn học.

1.3.2 Về sự nghiệp văn học

Sau khi trở về từ chiến khu Việt Bắc để tiếp quản Hà Nội, Bùi Ngọc Tấn, với bút danh Tân Sắc, đã làm việc tại báo Tiền Phong Trong giai đoạn này, ông đã có nhiều chuyến đi xuống nông thôn, công trường và xí nghiệp để viết các bài báo phản ánh quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vừa được giải phóng.

Trong giai đoạn đầu sự nghiệp, các tác phẩm nổi bật của ông đã lần lượt được công bố, bao gồm "Mùa cưới" (1957), "Ngày và đêm trên Vịnh Bái Tử Long" (1962), "Đêm tháng 10", "Người gác đèn cửa Nam Triệu" (1962), và "Nhật ký xi măng" (1963) Những tác phẩm này đã tạo dấu ấn sâu sắc và thu hút sự chú ý của độc giả.

Từ đó đến nay, Bùi Ngọc Tấn đã xuất bản các tập sách sau đây: Nguyên Hồng thời đã mất (1993), Một thời để mất (1995), Những người rách việc

Trong sự nghiệp văn học của mình, tác giả đã cho ra mắt nhiều tác phẩm nổi bật, bao gồm "Truyện ngắn" (1996), "Một ngày dài đằng đẵng" (1999), và "Chuyện kể" (tiểu thuyết - 2000) Các tác phẩm như "Rừng xưa xanh lá" (Chân dung văn học - 2004) và "Biển và chim bói cá" (tiểu thuyết - 2009) cũng thể hiện sự đa dạng trong phong cách sáng tác Cuối cùng, "Người chăn kiến" (tuyển truyện ngắn) đã khẳng định thêm vị thế của tác giả trong làng văn học.

Tính đến năm 2010, các tập sách đã được tái bản nhiều lần, hiện chỉ còn hai tập "Biển và chim bói cá" (in lần thứ 2) và "Người chăn kiến" đang bày bán tại các hiệu sách ở Việt Nam Trong "Chuyện Kể Năm 2000", tác giả đề cập đến hơn một ngàn trang bản thảo với nhiều tác phẩm nổi bật như tiểu thuyết "Hải đăng", "Hoa cau", "Làn sóng thứ nhất", "Những người đang sống", kịch bản phim "Những chuyện trên một vùng cửa biển", truyện ngắn "Đầu cầu" và trường ca "Biển và chim bói cá".

Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực tiểu thuyết Sự lựa chọn thể loại tiểu thuyết của ông mang tính độc đáo, cho phép tác giả thể hiện nhiều khía cạnh của bản thân và khám phá cuộc sống từ nhiều góc độ khác nhau.

Trong chương này, chúng tôi đã nghiên cứu các lý thuyết liên quan đến đề tài, nhằm xây dựng nền tảng cho việc khảo sát thành ngữ trong tiểu thuyết.

Bài viết khám phá tác phẩm "Biển và chim bói cá" của Bùi Ngọc Tấn, tập trung vào khái niệm thành ngữ, phân biệt giữa thành ngữ và tục ngữ, cũng như vai trò của thành ngữ trong văn bản nghệ thuật Đồng thời, bài viết cũng điểm qua cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Bùi Ngọc Tấn, cùng với quan niệm của ông về nghệ thuật.

Thành ngữ là một phần quan trọng trong ngôn ngữ, với bốn đặc trưng cơ bản: kết cấu vững chắc và cố định, tính hoàn chỉnh và bóng bẩy về nghĩa, khả năng sử dụng tương đương như từ trong câu, và tính dân tộc đặc sắc Bài viết cũng phân tích những tiêu chí giúp phân biệt thành ngữ và tục ngữ, bao gồm số lượng âm tiết, cấu tạo, chức năng và ngữ nghĩa.

Thành ngữ trong văn bản nghệ thuật có vai trò quan trọng, giúp tạo nên lối viết ngắn gọn, súc tích và giàu tính biểu cảm Chúng không chỉ làm tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm mà còn truyền tải nội dung thông tin một cách hiệu quả.

Bùi Ngọc Tấn là một nhà văn có đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam, với cuộc đời và sự nghiệp sáng tác phong phú Ông đã thể hiện tài năng đặc biệt trong việc sử dụng thành ngữ, tạo nên một phong cách văn chương độc đáo và cá tính Những sáng tác của ông không chỉ phản ánh cuộc sống mà còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học nước nhà.

Chương 2 THÀNH NGỮ TRONG TIỂU THUYẾT BIỂN VÀ CHIM BÓI CÁ XÉT VỀ CẤU TẠO, NGUỒN GỐC VÀ CHỨC NĂNG NGỮ PHÁP

Thống kê định lượng và tần số sử dụng thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá 27 2.2 Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn xét về nguồn gốc và cấu tạo

Để phân tích đặc điểm của thành ngữ trong tiểu thuyết "Biển và chim bói cá", chúng tôi đã áp dụng phương pháp thống kê để phân loại số lượng thành ngữ được sử dụng.

Bảng 1: Bảng thống kê số lượng và tần số thành ngữ nguyên dạng và biến thể được sử dụng trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá

Tổng số trang văn bản

Số lượng thành ngữ/ tần số

Số lượng thành ngữ Nguyên dạng/tần số

Số lượng thành ngữ Biến thể/tần số Thuần

Trong tổng số 546 trang, tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn đã sử dụng 252 thành ngữ với 310 lượt sử dụng, trong đó có 155 thành ngữ nguyên dạng thuần Việt chiếm 61,52% và 27 thành ngữ Hán-Việt chiếm 10,71% Các thành ngữ biến thể thuần Việt có 63 thành ngữ với 83 lượt sử dụng, chiếm 25,00%, trong khi thành ngữ biến dạng Hán-Việt chỉ có 7 với 9 lượt sử dụng, chiếm 2,77% Điều này cho thấy Bùi Ngọc Tấn đã sử dụng thành ngữ với tần số đáng kể và có sự cải biến với tỷ lệ 27,77% Đặc biệt, ông sử dụng thành ngữ nguyên dạng nhiều hơn biến dạng, với 182 thành ngữ nguyên dạng và 218 lượt sử dụng, chiếm 72,23%, so với 70 thành ngữ biến dạng với 92 lượt sử dụng, chiếm 27,77%.

Ông không chỉ sử dụng thành ngữ mà còn đổi mới cách vận dụng chúng, phản ánh xu hướng chung của các nhà văn từ năm 1986 đến nay như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, và nhiều tác giả khác Trong sáng tạo của họ, việc cách tân thành ngữ luôn được chú trọng Đặc biệt, trong tác phẩm "Biển và chim bói cá", có sự chênh lệch đáng kể giữa thành ngữ Hán-Việt và thuần Việt, với 34 thành ngữ Hán-Việt được sử dụng 41 lần, chiếm 13,22% so với thành ngữ thuần Việt.

Trong tiểu thuyết "Biển và chim bói cá" của Bùi Ngọc Tấn, 218 thành ngữ được sử dụng với 269 lượt, chiếm 86,78% tổng số, chủ yếu mang nghĩa biểu trưng rõ ràng Số lượng tục ngữ xuất hiện trong tác phẩm rất ít và thường mang tính triết lý, giáo huấn, liên quan đến kinh nghiệm sống và đạo đức Điều này thể hiện sự khác biệt trong cách sử dụng thành ngữ của tác giả Thành ngữ, dù là thuần Việt hay Hán-Việt, nguyên dạng hay biến thể, đều gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày của người dân Nhiều thành ngữ được lặp lại nhiều lần trong các ngữ cảnh khác nhau như "đẹp như tiên", "chân dép chân đất", "bình chân như vại", "chắc như đinh đóng cột", và "một mất một còn", nhằm nhấn mạnh và tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc về các hiện tượng, sự việc trong tác phẩm.

Bùi Ngọc Tấn sử dụng thành ngữ nguyên dạng với tỉ lệ lớn trong các tác phẩm của mình, nhưng ông cũng thể hiện sự sáng tạo linh hoạt qua việc tạo ra các biến thể thành ngữ Điều này mang lại giá trị biểu đạt và hiệu quả phản ánh cao hơn cho tiểu thuyết "Biển và chim bói cá."

2.2 Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn xét về nguồn gốc và cấu tạo

2.2.1 Thành ngữ trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá xét về nguồn gốc

Trong tác phẩm của mình, Bùi Ngọc Tấn đã sử dụng 2 nhóm thành ngữ chính là thuần Việt và Hán Việt

Thành ngữ thuần Việt rất phong phú và đa dạng, với 218 trong tổng số 252 thành ngữ, chiếm 86,78% tổng lượt sử dụng Điều này cho thấy người viết muốn truyền tải thông tin một cách ngắn gọn và dễ hiểu Các thành ngữ này gắn liền với đời sống hàng ngày, gần gũi và giản dị, giúp tác động nhanh chóng đến tình cảm và nhận thức của độc giả Nhà văn thường sử dụng những thành ngữ giàu hình ảnh và gợi tả, phù hợp với phong cách nghệ thuật, như “ăn mòn bát mòn đũa”, “bình chân như vại”, hay “của ít lòng nhiều”.

Cuối cùng, anh đến Ngã ba Đông Dương, ghé quán Bà Béo quen thuộc Tại đây, anh tháo chiếc đồng hồ Xây cô phai, dù đã quen thuộc nhưng vẫn phải chịu sự ăn mòn của thời gian Ngã ba này đã mang lại sự thịnh vượng cho nhiều gia đình nhờ vào hoạt động của tàu cá.

Văn phòng có trách nhiệm báo cáo với giám đốc về các cuộc họp kéo dài hơn nửa tiếng mà chưa đủ đại biểu tham dự, trong khi ông vẫn ngồi bình thản chờ đợi.

Cảnh khẳng định chắc chắn rằng anh đã thực hiện nhiều lần so sánh giữa hai bố con và rút ra kết luận rằng kết quả luôn giống nhau.

Bây giờ em chưa xuống tàu, chỉ có một chút quà cho cháu, nhưng em hứa sẽ không bao giờ quên anh Thành ngữ này thể hiện sự đối lập mạnh mẽ trong nội tâm của nhân vật, giúp câu văn trở nên sinh động và mang lại hiệu quả cao.

(21) Cô Phòng bao giờ cũng cười chảy nước mắt mỗi khi nhắc đến những gói cá toát mồ hôi hột [57, 420]

Thành ngữ cười chảy nước mắt nói lên nội tâm của nhân vật cô Phòng đã phải gượng cười khi trong lòng đầy đau khổ

(22) Chúng mình làm sao có quả gì Gà què ăn quẩn cối xay Mày báo vụ còn cái cửa đi tàu nước ngoài [57, 220]

Thành ngữ "gà què ăn quẩn cối xay" phản ánh sự hèn kém của những người chỉ biết kiếm sống qua những công việc nhỏ lẻ, quanh quẩn ở những nơi quen thuộc mà không có tầm nhìn xa Ý nghĩa này rất phù hợp với bối cảnh xã hội thời điểm đó.

Họ nhận tiền và hẹn giờ, sau đó xe sẽ chở đến tận tàu Anh em tin tưởng điều này, và Bá cũng vậy Họ giàu có, nên không ai lại đi lừa những người nghèo khổ.

Thành ngữ khố rách áo ôm nói lên sư nghèo khổ, hèn mọn, bị khinh miệt

(24) Ai cũng hiểu hôm nay thả sức chơi, gẫu một cách tự tin mà không phải mắt la mày lét [57, 479]

Thành ngữ mắt la mày lét ý chỉ thái độ liếc nhìn không đàng hoàng với vẻ lấm lét sợ

Các thành ngữ được sử dụng linh hoạt bởi nhà văn không chỉ thể hiện tính chân thực trong lời nói của nhân vật mà còn phản ánh hoàn cảnh xã hội hiện tại của họ.

Thành ngữ đóng vai trò quan trọng trong ngôn ngữ, phản ánh tư duy và lối nói của nhân dân Bùi Ngọc Tấn đã khéo léo sử dụng thành ngữ tiếng Việt, làm cho tác phẩm của ông trở nên sinh động và dễ hiểu Tiểu thuyết "Biển và chim bói cá" thể hiện phong cách viết hóm hỉnh, phù hợp với môi trường lao động, đặc biệt là của những người lao động biển, nơi mà sự thẳng thắn và bộc trực được ưa chuộng.

Tác giả sử dụng ngôn ngữ suồng sả, thô rác để thể hiện những trải nghiệm sâu sắc trong cuộc đời mình Những tác phẩm này không chỉ ghi lại hồi ức mà còn khơi gợi suy tư về những khoảnh khắc đáng nhớ.

Thành ngữ trong trong tiểu thuyết Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn xét về chức năng ngữ pháp

Ngữ pháp bao gồm các quy tắc về hình thức và đặc tính của từ loại, cùng với cách kết hợp từ để tạo thành cụm và câu Việc phân tích chức năng ngữ pháp trong câu của thành ngữ là một vấn đề phức tạp.

Câu là đơn vị ngôn ngữ được hình thành trong quá trình tư duy, liên kết với ngữ cảnh cụ thể để truyền đạt thông tin hoặc thể hiện quan điểm Câu có cấu trúc ngữ pháp độc lập và thường có ngữ điệu kết thúc rõ ràng.

Với cách hiểu ngữ pháp như vậy, chúng tôi nhận thấy thành ngữ khi sử dụng cũng tham gia vào những chức năng ngữ pháp khác nhau

2.3.1 Thành ngữ làm thành phần chính trong câu

Theo quan niệm truyền thống, câu được làm thành bởi hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ

2.3.1.1 Thành ngữ giữ chức vụ làm chủ ngữ trong câu

Trong các tác phẩm của Bùi Ngọc, thành ngữ thường xuất hiện ở đầu câu văn và đóng vai trò làm chủ ngữ, tạo mối quan hệ chặt chẽ với vị ngữ Việc sử dụng thành ngữ như vậy không chỉ làm phong phú ngôn ngữ mà còn giúp tăng cường sự liên kết trong câu.

Tấn chiếm một tỉ lệ rất ít, chỉ có 7 câu trên tổng số 310 câu chứa thành ngữ chiếm 2,25%

(77) Kiểu nói oang oang ăn sóng nói gió của các thuyền viên rất thành thật [57, 45]

Thành ngữ ăn sóng nói gió làm chức vụ chủ ngữ trong câu

(80) Không thể tràng giang đại hải về phong trào công nhân viên chức, cải tiến quản lý, xây dựng tổ đội… [57, 384].

Thành ngữ "tràng giang đại hải" được sử dụng để nhấn mạnh sự phát động phong trào thi đua một cách dài dòng và không rõ ràng.

2.3.1.2 Thành ngữ giữ chức vụ làm vị ngữ trong câu Ở loại này, chúng tôi thấy Bùi Ngọc Tấn sử dụng số lượng nhiều trong tiểu thuyết với 96 câu trên tổng 310 câu chiếm 30,96% Thành ngữ giữ chức vụ vị ngữ được sử dụng rất linh hoạt trong văn cảnh của từng câu văn: khi thì nó đứng giữa câu, khi nó đứng cuối câu a Nêu lên một nhận xét, đánh giá

Ông thuyền phó ba của một tàu vận tải nước ngoài chịu trách nhiệm về các vấn đề sinh hoạt ăn uống và vật chất thiết yếu cho cuộc sống hàng ngày, thể hiện qua thành ngữ "cơm áo gạo tiền" Công việc của ông không chỉ đơn thuần là quản lý mà còn liên quan đến việc đảm bảo đời sống thường nhật cho mọi người trên tàu.

Hãy kiên nhẫn và tiếp tục làm việc cho đến khi được cho phép về Đối diện với những lời chửi mắng, hãy giữ vững tinh thần và xác định vị trí của mình như một con sâu cái kiến trong xã hội.

Thành ngữ "con sâu cái kiến" được sử dụng trong câu văn để nhấn mạnh sự thấp kém và không có địa vị của nhân vật, thể hiện rõ ràng rằng họ không có quyền kêu ca hay van nài ai.

Quán thu hút những người thất nghiệp, những người đang gặp khó khăn trong cuộc sống, bao gồm bạn bè của Quán và những người vừa ra tù Họ làm việc chăm chỉ như trâu, và Quán cũng không ngại vất vả để hỗ trợ họ.

Trong ví dụ trên, thành ngữ "làm như trâu" được sử dụng sau danh từ "Họ" để nhấn mạnh sức khỏe và sự bền bỉ của những người lao động tại Cảng cá.

(84) Ốm đau gì đâu Anh em tôi khỏe như vâm Thèm rượu quá mà nhẵn tiền Kéo nhau lên xí nghiệp khám bệnh, mang về uống đấy [57, 190]

Trong thành ngữ "khỏe như vâm," cụm từ này được sử dụng sau danh từ "anh em tôi" để nhấn mạnh sức khỏe dồi dào của các thủy thủ và thuyền viên làm việc tại đây Điều này không chỉ thể hiện sức mạnh thể chất mà còn phản ánh thái độ và tâm trạng tích cực của nhân vật.

Anh là thợ xây tự do, thường xuyên ra vào im lặng như bồ thóc, luôn giữ cửa kín Người trong xóm chỉ biết đến sự hiện diện của anh khi thấy con trai anh cầm chai đi mua rượu.

Thành ngữ "im như bồ thóc" được sử dụng để miêu tả trạng thái lo lắng, e ngại, khi một người không dám nói gì Cụm từ này thường đứng sau danh từ và đảm nhận vai trò vị ngữ, thể hiện sự im lặng do sợ hãi.

Bố tôi, bác sĩ, và chú Quẹn, với gương mặt đỏ gay vì cháy nắng, cùng nhau vào bếp Mỗi người một chai bia, họ bỏ đá vào và thưởng thức, vừa uống vừa nhai đá rau ráu Câu văn này thể hiện rõ đặc điểm và trạng thái của các nhân vật, làm nổi bật bản chất của họ trong bối cảnh.

(87) Khi chị Bấm mặt đỏ ửng bưng đĩa rau muống xào xào, Mây xúc động rưng rung [57, 200]

Thành ngữ "mặt đỏ ửng" được sử dụng làm vị ngữ cho chủ ngữ "chị Bấm", xuất hiện sau từ "khi" như một đại từ, nhằm diễn tả thái độ e thẹn của nhân vật.

(88) Nghi lắc đầu, mặt lạnh tanh, giọng nhỏ nhẹ nhưng kiên quyết

Thành ngữ mặt lạnh tanh làm chức năng vị ngữ cho chủ ngữ nhân vật

Nghi nhằm nói lên thái độ chê người có vẻ vô tình, lạnh lẽo, không có vẻ thương xót

(89) Thuyền bóp vai Cương Thuyền có bàn tay cứng như sắt làm Cương lệch một bên vai nhăn nhó.[57, 32]

Thành ngữ cứng như sắt làm chức năng vị ngữ cho chủ ngữ nhân vật

Ngày đăng: 09/09/2021, 20:18

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Mặt đẹp, thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím,  móng  tay  nhuộm  bạc,  và  vết  sẹo  được  may  rất  khéo  bám  trên  bắp  tay trần, dấu tích của một trận thư  hùng sống mái nào đấy, đẹp hơn - Cách sử dụng thành ngữ trong tiểu thuyết biển và chim bói cá của bùi ngọc tân
t đẹp, thân hình đẹp, quần áo đẹp, chiếc vòng ngọc bự, môi tím, móng tay nhuộm bạc, và vết sẹo được may rất khéo bám trên bắp tay trần, dấu tích của một trận thư hùng sống mái nào đấy, đẹp hơn (Trang 161)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w