Thuế Thunhậpcánhân và cơchếphânchiacổtứccủadoanhnghiệpCôngtycổphần (CTCP) là một loại hình doanhnghiệp (DN) điển hình, chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số các DN được thành lập ở tất cả các quốc gia phát triển trên thế giới. Một trong ba quyết định quan trọng của Ban điều hành CTCP là cơchếphânchiacổtức được thực hiện trên nguyên tắc phải đảm bảo và gia tăng lợi ích cho cổ đông. Lợi ích củacổ đông được đo lường trên cơ sở các khoản thunhập sau thuế. ở nhiều nước trên thế giới, ngoài thuếthunhậpdoanhnghiệp (TNDN), khi các cổ đông nhận được cổ tức, trái tức hoặc thu được lãi vốn do chuyển nhượng cổphần sẽ bị điều tiết bởi thuế thunhậpcánhân (TNCN). Luật Thuế TNCN của Việt Nam có hiệu lực từ 01.01.2009 đã có nhiều sửa đổi so với Pháp lệnh Thuếthunhập đối với người cóthunhập cao. Điểm thay đổi nổi bật là thunhập từ đầu tư vốn bao gồm lãi cho vay, cổ tức, thunhập từ chuyển nhượng vốn sẽ chịu thuế TNCN theo biểu thuế toàn phần. Nghiên cứu thuế suất đối với thunhập đầu tư vốn là 5% và đối với thunhập từ chuyển nhượng vốn là 0,1% trên giá bán và 20% trên thunhập chịu thuế (tuỳ theo phương pháp tính thuế mà nhà đầu tư đăng ký nộp thuế) là vấn đề mà các CTCP cần phải quan tâm trong thời gian tới đối với chính sách phân phối cổtứccủa mình, nhằm tối đa hoá giá trị DN và gia tăng lợi ích cho cổ đông Một số quan điểm về phân phối cổtức Quan điểm truyền thống về chính sách phân phối cho rằng, lợi tứccổ phiếu gia tăng hôm nay sẽ làm lợi cho các cổ đông nhiều hơn và do đó sẽ làm gia tăng giá trị DN. Lập luận đầu tiên đó là cổtứcnhận được bằng tiền mặt ngày hôm nay sẽ có giá trị hơn phần chênh lệch do chuyển nhượng vốn mà cổ đông nhận được sau này, đồng thời cổ thức nhận được hôm nay là chắc chắn, còn phần chênh lệch do chuyển nhượng vốn trong tương lai thì hoàn toàn không chắc chắn. Quan điểm mới thì cho rằng, gia tăng cổtức sẽ làm giảm giá trị DN. Cơ sở lý luận của trường phái này cho rằng, các DN đang hoạt động trong một thế giới thực và đối diện với một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, chứa nhiều nhân tố mà cả DN lẫn cổ đông phải quan tâm mà điển hình nhất là thunhậpcủa các cổ đông phải chịu ảnh hưởng củanhân tố thuế. ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, chính phủ đều đánh thuế nhẹ trên thunhập đạt được trên lợi nhuận được đem tái đầu tư trước đây. Do đó thuế đánh trên cổtứcnhận được bằng tiền mặt sẽ nặng hơn thuế đánh trên chênh lệch do chuyển nhượng vốn, là kết quả của sự chênh lệch do lợi nhuận giữ lại làm gia tăng giá trị thật củacổ phiếu so với giá trị trước đây. Khi CTCP chiacổtức bằng cổ phiếu, biến động về giá cổ phiếu chịu sự tác động của nhiều nhân tố bên ngoài lẫn bên trong công ty. Những CTCP có hình tượng tốt đẹp trên thị trường cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán thì giá cảcủacổ phiếu không tác động giảm giá đáng kể, vì thực chất số cổ phiếu phát hành đã được thực hiện trên cơ sở lợi nhuận của CTCP đã đạt được, tức đã được đảm bảo về giá trị bằng tiền. Trong trường hợp này, nếu cổ đông không muốn nắm giữ thì có thể bán trên thị trường để thu về tiền mặt. Đối với những CTCP áp dụng phương pháp mới thì không cần dùng đến tiền mặt nhưng vẫn đạt được mục đích là đem lợi nhuận chia cho cổ đông, đáp ứng cho nguồn vốn sử dụng để tái đầu tư, mở rộng quy mô, phục vụ cho chiến lược phát triển lâu dài củacông ty. Mặt khác khi giá cổ phiếu củacôngty trên thị trường quá cao, không có lợi cho việc thu hút đầu tư rộng rãi, để hạn chế giá cổ phiếu, không vượt qua phạm vi kiểm soát củacông ty, việc áp dụng phương pháp này có thể khống chế giá cảcổ phiếu củacôngty trên thị trường trong một phạm vi tối ưu. Bên cạnh những tác động tích cực, việc áp dụng phương pháp chi trả cổtức bằng cổ phiếu cũng có thể đem lại những tác động không tốt, nhà đầu tư sẽ cho rằng CTCP kinh doanh kém hiệu quả, không đảm bảo khả năng tạo ra tiền, quay vòng vốn không linh hoạt, từ đó sẽ làm dao động lòng tin của nhà đầu tư và làm giá cổ phiểu giảm mạnh, điều quan trọng hơn là việc chi trả cổtức bằng cổ phiếu có thể làm loãng giá cổ phiếu và gây thiệt hại lớn hơn cho cổ đông vàcả CTCP do tổng giá trị thị trường cổ phiếu củacổ đang đang nắm giữ sẽ giảm đi do giá cổ phiếu giảm. Mặt khác với việc trả cổtức bằng cổ phiếu có thể làm cho CTCP không đảm bảo khả năng kiểm soát, do sự thôn tính của các DN khác bằng hình thức thu mua các cổ phiếu củacôngty đã phát hành. Tác động củathuế TNCN đối với cổtứccủacổ đông CTCP khi chi trả cổtứccó thể thực hiện bằng các hình thức như: cho trả cổtức bằng tiền mặt, chi trả cổtức bằng cổ phiếu hoặc sử dụng hỗn hợp, vừa chi trả bằng tiền mặt và bằng cổ phiếu. Theo quy định tại khoản 2 điều 6, Luật thuế TNCN thì cổtứcnhận được bằng cổ phiếu phải quy đổi ra tiền theo giá thị trường củacổ phiếu tại thời điểm cổ đông nhận chi trả. Như vậy, việc phân tích lợi ích giữa việc chi trả cổtức bằng tiền mặt và bằng cổ phiếu trong thời gian tới sẽ là vấn đề mà các CTCP cần phải xem xét. Qua kết quả này, với giả định cổ đông không thực hiện bán cổ phiếu nhận được mà giữ lại, rõ ràng việc chi trả cổtức bằng cổ phiếu sẽ làm giảm lợi ích củacổ đông, cụ thể cổ đông phải nộp thuế TNCN cao gấp 5 lần so với chi trả cổtức bằng tiền mặt. Chính sách thuế TNCN và lợi ích củadoanhnghiệp Về góc độ DN: theo chính sách thuế TNCN có hiệu lực từ ngày 01.01.2009 thì các khoản cổtức chi trả bằng tiền hay chi trả bằng cổ phiếu đều là đối tượng chịu thuế TNCN, do vậy việc xây dựng cơchếcổtức hợp lý là nội dung mà các CTCP phải nghiên cứu ngay từ bây giờ. Điều quan trọng là phải kết hợp chính sách phân phối cổtức với quyết định đầu tư và quyết định tài trợ trên cơ sở một cấu trúc vốn thích hợp. Với quy định của luật thuế TNCN không tính thuếthunhập đối với khoản thunhập giữ lại, sẽ là cơ hội cho các CTCP sử dụng khoản thunhập sau thuế để tái đầu tư, vừa giảm chi phí sử dụng vốn trong tình hình lãi suất vay ngân hàng thương mại đang tăng cao và không ổn định, vừa gia tăng giá trị côngtyvà đem lại lợi ích cho cổ đông qua trì hoãn được khoản thuế TNCN phải nộp. Về kinh tế vĩ mô: việc qui định tính thuế TNCN đối với cổtứcnhận bằng cổ phiếu, trên cơ sở qui đổi theo giá thị trường tại thời điểm nhậncổ phiếu để xác định thunhập tính thuế, là một vấn đề cần được xem xét. Với quy định này của Luật Thuế TNCN chưa thật sự khuyến khích các CTCP sử dụng nguồn thunhập giữ lại để đầu tư thông qua hình thức chi trả cổtức bằng cổ phiếu. Việc áp dụng thuế suất thấp (5%) đối với thunhập là cổtức bằng tiền mặt nhưng nhưng lại tính thuế trên cổtức được chia bằng cổ phiếu theo giá thị trường tại thời điểm chi trả, khi mà khoản thunhập này cổ đông chưa thật sự nắm giữ trên tay không thể hiện định hướng khuyến khích các CTCP sử dụng lợi nhuận sau thuế để tái đầu tư. Hướng xem xét, sửa đổi cách tính thuế đối với cổtứcnhận được bằng cổ phiếu nên qui định tương tự như tính thuế đối với thunhập từ chuyển nhượng vốn. Cụ thể, khi cổ đông thực hiện chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường thì lúc này sẽ phát sinh khoản thuế TNCN phải nộp trên chênh lệch giá (giữa giá thị trường và mệnh giá) hoặc bằng một tỷ lệ (%) ấn định trên giá trị chuyển nhượng, sẽ là một nội dung phù hợp hơn với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, sẽ khuyến khích các CTCP xây dựng một chính sách phân phối linh hoạt, sử dụng khoản lợi nhuận sau thuế để đầu tư khi mà nguồn vốn tài trợ cho hoạt động SXKD còn quá thấp, chi phí sử dụng vốn quá cao. Trong xu hướng chung của thế giới, thuế TNCN là một sắc thuế tiên tiến, đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế đối với mỗi cánhânvà chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu ngân sách của các quốc gia. Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng biểu thuế, phương pháp tính thuế một cách khoa học, để có thể đưa chính sách thuế TNCN trở thành một công cụ điều tiết vĩ mô trong phát triển kinh tế, định hướng cho hoạch định cấu trúc vốn nhằm gia tăng giá trị của các CTCP và phát triển thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt Nam./. . Thu Thu nhập cá nhân và cơ chế phân chia cổ tức của doanh nghiệp Công ty cổ phần (CTCP) là một loại hình doanh nghiệp (DN) điển hình,. thu thu nhập doanh nghiệp (TNDN), khi các cổ đông nhận được cổ tức, trái tức hoặc thu được lãi vốn do chuyển nhượng cổ phần sẽ bị điều tiết bởi thu thu