Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam và cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống lại Mỹ thực chất là một cuộc đụng đầu lịch sử quan trọng.
Sau khi Mỹ thất bại tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về cuộc chiến này từ cả trong và ngoài nước Giáo sư Trần Nhâm trong tác phẩm “Cuộc đấu trí ở tầm cao của trí tuệ Việt Nam” phân tích rằng chiến thắng của Việt Nam là kết quả của một cuộc đấu trí với đế quốc Mỹ Đại tướng Văn Tiến Dũng cũng đóng góp với tác phẩm “Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, bổ sung cho hai cuốn sách trước đó, nêu rõ nhiệm vụ đánh bại quân viễn chinh Mỹ và chiến lược Chiến tranh cục bộ, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải phóng miền Nam và thất bại hoàn toàn âm mưu xâm lược của Mỹ.
Viện lịch sử quân sự với Đại thắng mùa Xuân 1975 nguyên nhân và bài học;
Nguyễn Huy Toàn với tác phẩm "30 năm chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975", Đại tướng Lê Trọng Tấn qua "Đại thắng mùa Xuân 1975", và Gabriel Kolko trong "Giải phẫu một cuộc chiến tranh" đã cung cấp những phân tích sâu sắc về cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam Những tác phẩm này làm nổi bật sự thất bại thảm hại của Mỹ khi đối đầu với cuộc chiến tranh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam Nhân dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, nhiều hồi ký và tài liệu nghiên cứu mới được công bố, giúp độc giả hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Các công trình nghiên cứu và hồi ký của những người lãnh đạo cuộc chiến cung cấp nguồn tài liệu quý giá cho việc nghiên cứu Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào khía cạnh tổng thể của cuộc chiến tranh, mà chưa đi sâu vào vai trò và đóng góp cụ thể của các địa phương trong thắng lợi chung của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Nghiên cứu về Tây Ninh và cuộc kháng chiến chống Mỹ đã được phản ánh qua nhiều công trình, trong đó có "Lược sử Tây Ninh" do Ban tổng kết chiến tranh tỉnh Tây Ninh biên soạn Tài liệu này nêu rõ quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Tây Ninh, từ đất đai, con người đến truyền thống văn hóa Nó cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng trong việc dẫn dắt nhân dân Tây Ninh chống lại kẻ thù xâm lược và xây dựng quê hương.
Bài viết "30 năm trung dũng kiên cường" tóm tắt về địa lý, con người và truyền thống của Tây Ninh, đặc biệt nhấn mạnh quá trình kháng chiến chống Pháp và Mỹ từ 1945 đến 1975 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tỉnh ủy Tây Ninh Trong 30 năm chiến đấu, quân dân Tây Ninh đã xây dựng lực lượng vững mạnh, góp phần vào chiến thắng của Miền Nam trước các chiến lược chiến tranh Mỹ Những chiến công oanh liệt trong giai đoạn này đã tạo nên trang sử hào hùng của dân tộc và Tây Ninh Công trình "Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Tây Ninh với Ba thế hệ xanh - Một chặng đường" ghi lại những khó khăn và anh hùng của tuổi trẻ và nhân dân Tây Ninh Đồng thời, Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã thực hiện công trình "Địa chí Tây Ninh" với sự hợp tác của Sở Văn hóa - Thông tin và Viện khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, nhằm ghi chép và giới thiệu những đặc điểm tự nhiên, cộng đồng dân cư, quá trình hình thành địa giới hành chính, cũng như truyền thống kiên cường và sự phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội của Tây Ninh.
Ban Khoa học lịch sử quân sự Tỉnh đội Tây Ninh đã cho ra mắt công trình "Lịch sử lực lượng võ trang tỉnh Tây Ninh (1945-1975)" với hai tập Tác phẩm này khắc họa rõ nét quá trình hình thành, phát triển, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng võ trang Tây Ninh dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Đặc biệt, Tập 2 đi sâu vào nghiên cứu chi tiết về cuộc chiến đấu của lực lượng vũ trang Tây Ninh, góp phần làm sáng tỏ lịch sử và những đóng góp của họ trong giai đoạn kháng chiến.
Ninh chống lại các chiến lược chiến tranh xâm lược của Mỹ, lập nên những chiến thắng trên đất Tây Ninh
Ban Tuyên huấn của Huyện uỷ các huyện-thị xã trong tỉnh đã nghiên cứu và biên soạn tài liệu về Lịch sử cách mạng địa phương, tập trung vào quá trình xây dựng và chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Sở Văn hoá-Thông tin và Bảo tàng Tây Ninh cũng đã phát hành tài liệu về Di tích lịch sử-văn hoá tỉnh, giới thiệu hệ thống di tích căn cứ địa và các công trình kiến trúc tiêu biểu trong hai cuộc kháng chiến Sở Giáo dục-Đào tạo Tây Ninh đã biên soạn tài liệu Lịch sử địa phương để giảng dạy trong trường phổ thông, dựa trên lịch sử địa phương kết hợp với lịch sử dân tộc Hội đồng chỉ đạo biên soạn lịch sử Đảng bộ miền Đông Nam Bộ đã thực hiện công trình nghiên cứu lớn về lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1945-1975).
Nội dung tài liệu nêu rõ vị trí chiến lược quan trọng của khu vực Đông Nam Bộ trong cuộc chiến tranh và quá trình lãnh đạo của Đảng bộ miền Đông Nam Bộ, nhằm đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ và góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng miền Nam Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Tây Ninh và Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã ghi nhận Chiến thắng Tua Hai và phong trào Đồng khởi tại miền Đông Nam Bộ Tài liệu này tập hợp các tham luận từ các nhà nghiên cứu và những nhân vật từng tham gia lãnh đạo cuộc tập kích Tua Hai năm 1960, trong khuôn khổ Hội thảo Kỷ niệm 40 năm chiến thắng Tua Hai do Đảng bộ tỉnh Tây Ninh phối hợp với Bộ Tư lệnh quân khu 7 tổ chức.
Các nghiên cứu về Tây Ninh trong chiến tranh chống Mỹ mang lại cái nhìn sâu sắc về vai trò và đóng góp của vùng đất này trong cuộc kháng chiến Việc tìm hiểu kỹ lưỡng sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn về lịch sử và những ảnh hưởng của Tây Ninh trong bối cảnh chiến tranh.
Tây Ninh đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Mỹ ở miền Nam, tuy nhiên, vấn đề này vẫn còn nhiều điều cần làm sáng tỏ Cần có những nghiên cứu sâu sắc, khoa học và có hệ thống hơn để hiểu rõ hơn về vai trò của Tây Ninh trong bối cảnh lịch sử này.
Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung vào vai trò quan trọng của lực lượng vũ trang ở Tây Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn từ năm 1960 đến 1969 Bài viết sẽ làm rõ những đóng góp của lực lượng này trong việc bảo vệ và xây dựng cơ sở cách mạng, đồng thời nêu bật những chiến công và sự hy sinh của họ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tình hình Tây Ninh trước năm 1960
- Vai trò của lực lượng vũ trang ở Tây Ninh trong giai đoạn chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ ( 1961-1964)
- Vai trò của lực lượng vũ trang ở Tây Ninh trong giai đoạn chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ( 1961-1964).
Phạm vi nghiên cứu
3.3.1 Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu trong phạm vi trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
3.3.2 Phạm vi thời gian Đề tài nghiên cứu trong thời gian dân tộc Việt Nam nói chung và quân và dân Tây Ninh tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng dân tộc từ 1960 -1969
Tây Ninh có vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nơi quân dân Tây Ninh đã ghi dấu ấn với những thắng lợi vẻ vang Những chiến công này không chỉ thể hiện tinh thần kiên cường của người dân mà còn góp phần quyết định vào sự thất bại của cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành trên mảnh đất Tây Ninh.
- Những đóng góp của Tây Ninh trên các lĩnh vực để tạo thế và lực cho cách mạng giành thắng lợi
Trong bối cảnh chiến tranh, Tây Ninh đóng vai trò quan trọng trong mối liên hệ với miền Nam, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung Địa phương này không chỉ là điểm chiến lược mà còn là nơi tập hợp lực lượng, cung cấp nguồn lực và hỗ trợ tinh thần cho các hoạt động kháng chiến Sự kết nối giữa Tây Ninh và các tỉnh miền Nam đã tạo ra sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do Nhờ vào vị trí địa lý và tinh thần kiên cường của người dân, Tây Ninh đã góp phần làm nên những chiến thắng quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Tài liệu được khai thác từ nhiều nguồn lưu trữ quan trọng, bao gồm Trung tâm lưu trữ quốc gia, Bộ Quốc phòng, tỉnh đội Tây Ninh, Thư viện Quốc gia và Thư viện tỉnh.
Nguồn tài liệu tham khảo: Là các công trình đã công bố trong và ngoài nước liên quan đến nội dung chúng tôi nghiên cứu
Tư liệu hồi kí: Một số tác phẩm hồi ký, hồi tưởng của những cán bộ tướng lĩnh quân đội nhân dân Việt Nam
Tài liệu báo chí: Các bài viết trong và ngoài nước trên một số tạp chí, báo viết, trang web liên quan đến nội dung đề tài.
Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận: Lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chiến tranh nhân dân và công cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
Trong nghiên cứu đề tài này, chúng tôi áp dụng phương pháp chuyên ngành cơ bản là logic và lịch sử, đồng thời kết hợp với các phương pháp liên ngành như thống kê, định lượng, phân tích và xác minh nguồn tư liệu, cùng với phương pháp phỏng vấn báo chí để đảm bảo tính chính xác và độ tin cậy của thông tin.
Đóng góp của luận văn
Tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vai trò của lực lượng vũ trang ở Tây Ninh trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước từ năm 1960 đến năm 1969” nhằm:
- Hiểu rõ hơn về cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ tiến hành ở Miền Nam
Quân dân miền Nam, đặc biệt là Tây Ninh, đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân kiên cường chống lại sự xâm lược của Mỹ và chế độ tay sai, đạt được những thắng lợi to lớn.
Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương sau:
- Chương 1: Tình hình Tây Ninh trước năm 1960
- Chương 2: Vai trò của lực lượng vũ trang Tây Ninh trong giai đoạn chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ (1961-1964)
- Chương 3: Vai trò của lực lượng vũ trang Tây ninh trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ (1965-1968)
TÌNH HÌNH TÂY NINH TRƯỚC NĂM 1960
Vài nét về tỉnh Tây Ninh trước năm 1960
1.1.1 Khái quát về quá trình thành lập tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh, tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ Việt Nam, có tọa độ từ 10º57’08” đến 11º46’36” vĩ độ Bắc và 105º48’43” đến 106º22’44” kinh độ Đông Tỉnh này giáp với vương quốc Campuchia ở phía Tây và Tây Bắc, trong khi phía Đông giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước, còn phía Nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Long An Tây Ninh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa vùng núi, cao nguyên Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long.
Tây Ninh có diện tích khoảng 4.035 km² và dân số khoảng 1.112.000 người (thống kê năm 2015), với mật độ dân số đạt 275 người/km² Mật độ dân cư chủ yếu tập trung tại thành phố Tây Ninh và các huyện phía Nam như Hòa Thành, Gò Dầu, Trảng Bàng Tỉnh Tây Ninh đóng vai trò là cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia, đồng thời nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam Việt Nam.
Tây Ninh là một tỉnh có một thành phố, một thị xã và 8 huyện: Tân Biên, Tân Châu, Dương Minh Châu, Hòa Thành, Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng Tỉnh có khí hậu nhiệt đới gió mùa và địa hình tương đối bằng phẳng, dốc dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam, với đỉnh núi Bà Đen cao 986m, biểu tượng của vùng đất này Hai con sông lớn chảy qua tỉnh là sông Sài Gòn và sông Vàm Cò Đông Trên sông Sài Gòn, hồ Dầu Tiếng, công trình thủy lợi lớn nhất Việt Nam, có dung tích 1,45 tỉ m³ và diện tích 27.000 ha, cung cấp nước tưới cho Tây Ninh, TP Hồ Chí Minh và Long An.
Trong tiến trình phát triển lịch sử, quá trình mở rộng lãnh thổ ở vùng đất Nam
Tây Ninh, với bề dày lịch sử và các di tích cổ như Tháp Chóp Mặt, Bến Sỏi, Gò Dinh Ông, Gò Cao Sơn Tự, An Quới và Tháp Bình Thạnh, chứng minh nền văn hóa cổ thịnh vượng từng tồn tại từ những thế kỷ đầu Công nguyên Cuối thế kỷ XVI, khi chế độ phong kiến triều Lê suy tàn và cuộc chiến tranh Nam-Bắc triều vừa chấm dứt, xã hội rơi vào hỗn loạn, khiến người dân đói khổ và phải di cư vào phương Nam tìm kiếm cuộc sống yên bình.
Vào khoảng năm 1658, cư dân Việt đầu tiên đã đến Tây Ninh, khai phá vùng đất này, chủ yếu tập trung ở Ngũ Quảng và dọc theo sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông, hình thành các "làng rừng" và "làng sông" Sau biến cố phong trào Tây Sơn, người Việt từ các tỉnh Đồng Nai, Tân An, Bến Cát, Tiền Giang và Hà Tiên tiếp tục di cư lên Tây Ninh sinh sống.
Làng Bình Tịnh, được thành lập vào năm 1809, là nơi cư ngụ sớm nhất của người Việt ở Tây Ninh Năm 1818, Ông Đặng Văn Trước từ Bình Định đã đến Bình Tịnh xin đất và chiêu dân lập thôn Phước Lộc, đồng thời tổ chức đào kênh và xây chợ Trảng Bàng Đến năm 1844, Ông Trần Văn Thiện, trưởng làng Trung Lập - Gia Định, đã hưởng ứng lời kêu gọi của Triều đình Huế, chiêu mộ dân chúng lên Tây Ninh để khai khẩn đất hoang, tạo ra các làng mới ở khu vực Trảng Bàng, Gò Dầu, Bến Cầu và Phủ Tây Ninh.
Vào năm 1837, Minh Mạng thứ 18 đã thành lập phủ Tây Ninh, đánh dấu sự ra đời chính thức của địa danh này Phủ Tây Ninh bao gồm hai huyện: Tân Ninh và Quang Hóa, với tổng cộng 56 làng xã Năm 1861, khi Pháp chiếm Tây Ninh, việc quản lý được giao cho hai đoàn quân sự tại Trảng Bàng và Tây Ninh Đến năm 1868, hai đoàn quân sự này được thay thế bằng hai trung ương hành chính Đến năm 1879, Tây Ninh được chia thành hai quận: Thái Bình và Trảng Bàng, với 50 làng Ngày 1/1/1900, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã áp dụng nghị định chia Nam Kỳ thành 20 tỉnh, trong đó Tây Ninh thuộc tỉnh thứ 12 Ngày 9/12/1942, Thống đốc Nam
Kỳ ban hành nghị định 8345 ấn định ranh giớ Tây Ninh Sau Cách mạng tháng Tám
Năm 1945, Tây Ninh vẫn giữ nguyên trạng, nhưng đến năm 1950, một phần đất Thái Hiệp Thạnh cũ đã được tách ra để thành lập thị xã Tây Ninh Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, thị xã Tây Ninh đã có những thay đổi quan trọng.
Tây Ninh được thành lập lại vào năm 1957 với ba quận: Châu Thành, Gò Dầu Hạ và Trảng Bàng Năm 1963, chính quyền Ngô Đình Diệm chia Tây Ninh thành bốn quận: Phú Khương, Phước Minh, Hiếu Thiện và Khiêm Hanh Sau ngày thống nhất miền Nam vào 30/4/1975, Tây Ninh có bảy huyện: Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Phú Khương, Tân Biên, Trảng Bàng cùng thị xã Tây Ninh Năm 1979, huyện Phú Khương được đổi tên thành Hòa Thành Đến năm 1989, huyện Tân Biên tách ra thành hai huyện: Tân Biên và Tân Châu Thị xã Tây Ninh được công nhận là đô thị loại III vào năm 2013 và nâng cấp thành thành phố Tây Ninh trực thuộc tỉnh vào năm 2015.
Thời kỳ đầu, dân cư Tây Ninh sống chủ yếu dựa vào thiên nhiên, hình thành từng làng riêng biệt Qua các thời kỳ lịch sử, các tộc người đã hòa nhập, tạo thành một cộng đồng vững mạnh Họ đã phải lao động cật lực để biến nơi hoang dã thành những xóm làng trù phú và kiên cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương Nhờ đó, các hoạt động văn hóa phong phú đã hình thành, với nhiều nét bản sắc truyền thống đặc trưng của nhân dân Tây Ninh, đóng góp vào sự phát triển chung của văn hóa dân tộc Nổi bật trong số đó là các lễ hội dân gian như Lễ hội Đình Miếu, Lễ hội các dân tộc ít người, Lễ hội tôn giáo Cao Đài và Hội du Xuân núi Bà Đen.
Tây Ninh, nằm ở miền Đông Nam Bộ, có ba vùng chiến lược rõ ràng: đô thị với thị xã Tây Ninh, nông thôn đồng bằng và nông thôn rừng núi Tỉnh giáp ranh với Campuchia dài 232 km, cũng như các tỉnh khác như Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Phước, Bình Dương và Long An Địa hình Tây Ninh thấp dần theo hướng Tây Bắc-Đông Nam, với độ cao không quá 60m, nổi bật là núi Bà Đen cao 986m, điểm cao nhất Nam Bộ Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, núi Bà Đen là nơi trú ẩn an toàn cho các nhóm hoạt động cách mạng Sau hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, Đế quốc Mỹ đã can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam, lợi dụng đỉnh núi để thiết lập trạm viễn thông và đồn bốt nhằm kiểm soát khu vực Tây Bắc Sài Gòn và ngăn chặn lực lượng vũ trang cách mạng.
Rừng Tây Ninh, với sự đa dạng về hệ động thực vật, đã trở thành kho dự trữ thực phẩm quý giá cho người dân và bộ đội trong những năm tháng kháng chiến Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chiến khu Dương Minh Châu nổi bật là căn cứ quan trọng của miền Đông Nam Bộ Cũng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, nơi đây được biết đến với tên gọi chiến khu C Rừng Tà Dơ và Đồng Rùm đã được Xứ ủy Nam Bộ và Bộ Tư lệnh Nam Bộ sử dụng làm căn cứ chống Pháp, trong khi các cơ quan và tiểu đoàn quân chủ lực Nam Bộ đã trú quân tại chiến khu D và căn cứ Mã Đà, sau đó chuyển về chiến khu Dương Minh Châu để bảo vệ căn cứ chiến lược.
Miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là Tây Ninh, đóng vai trò chiến lược quan trọng với vị trí là cửa ngõ vào Sài Gòn, ảnh hưởng đến kinh tế, chính trị, quân sự và giao lưu quốc tế Khu vực này không chỉ là địa bàn quan trọng trong quá trình xâm lược của thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ mà còn là nơi đông dân với tiềm lực kinh tế lớn Tây Ninh, nằm ở Tây Bắc Sài Gòn, có hai cảng, nhiều sân bay và hệ thống giao thông đường thủy, đường bộ phát triển, được Mỹ-Ngụy đặc biệt chú trọng như một tuyến phòng thủ vào Sài Gòn.
Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, địa thế rừng núi Bắc Tây Ninh đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng căn cứ cách mạng miền Nam Mặc dù quân Mỹ-Ngụy đã sử dụng bom đạn và chất độc hóa học Diôxin để phá hoại rừng núi Tây Ninh nhằm tiêu diệt nơi ẩn náu của bộ đội, nhưng cuối cùng họ đã phải thất bại Căn cứ Bắc Tây Ninh và căn cứ Dương Minh Châu trở thành nơi tập kết, huấn luyện và thành lập các đơn vị bộ đội chủ lực của miền Đông Nam Bộ, như sư đoàn 5, sư đoàn 7, sư đoàn 9 và trung đoàn 4 độc lập Căn cứ Dương Minh Châu không chỉ là điểm tập kết mà còn là nơi chuyển quân liên hoàn giữa các căn cứ khác như Bời Lời, Bến Đình, Bến Dược thuộc hệ thống địa đạo Củ Chi, cùng với căn cứ rừng Nhum, Hòa Hội, tạo thành thế chân kiềng vững chắc và là bàn đạp chiến lược quan trọng trong kháng chiến.
Trong lịch sử lâu dài giữa hai dân tộc, Tây Ninh đã thiết lập mối quan hệ hòa hiếu, mặc dù đôi lúc xảy ra xung đột Nhân dân hai nước gần biên giới có nhiều điểm tương đồng về tập quán và văn hóa, thường xuyên trao đổi hàng hóa nông sản Truyền thống yêu nước và chống giặc ngoại xâm thể hiện rõ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho Tây Ninh xây dựng căn cứ kháng chiến và tiếp nhận hàng hóa từ miền Bắc Sau phong trào Đồng Khởi, cách mạng miền Nam bước vào giai đoạn mới, dẫn đến sự ra đời của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam vào ngày 20/12/1960 Trung Ương Cục miền Nam cũng được thành lập tại Tây Ninh, nơi đây trở thành trung tâm chỉ đạo cho cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và chế độ Ngụy quyền Việt Nam Cộng Hòa, nhờ vào vị trí chiến lược quan trọng của tỉnh.
Quân và dân Tây Ninh chống Mĩ-Ngụy trước năm 1960
1.2.1 Âm mưu và thủ đoạn của Mĩ-Ngụy trong chính sách thực dân kiểu mới ở Tây
Ngày 7/7/1954 Mĩ bí mật đưa Ngô Đình Diệm (người được Mĩ nuôi dưỡng) về nước làm thủ tướng bù nhìn thay thế Bửu Lộc [19, tr 155] Từ tháng 9/1954 đến tháng
Vào tháng 11 năm 1954, Mỹ đã trực tiếp viện trợ cho Diệm và đưa ra kế hoạch 6 điểm nhằm kiểm soát tình hình miền Nam Việt Nam Mục tiêu của Mỹ là độc chiếm miền Nam, biến nơi đây thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới.
Tại Tây Ninh, chính quyền Mỹ-Diệm đã thực hiện các biện pháp cai trị nghiêm ngặt và đàn áp mạnh mẽ Họ áp dụng chính sách mị dân chống cộng sản, nhằm loại bỏ ảnh hưởng của Pháp và xóa bỏ bộ máy cai trị của thực dân Đồng thời, Mỹ-Ngụy cũng xây dựng một hệ thống hành chính kìm kẹp và tăng cường tuyên truyền để bôi nhọ hình ảnh cách mạng và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Mỹ-Diệm đã chủ động thực hiện các chiến dịch bình định tại Tây Ninh nhằm kiểm soát biên giới với Campuchia, tạo thành lá chắn bảo vệ Sài Gòn Nhận thấy vị trí chiến lược của Tây Ninh với nhiều căn cứ kháng chiến, chúng tập trung xây dựng hệ thống giao thông dọc theo Quốc lộ 22 để ngăn chặn tiếp tế cho lực lượng cách mạng Chính quyền Mỹ-Diệm đã huy động dân chúng mở đường và đắp đường dưới danh nghĩa phát triển hạ tầng, nhưng thực chất là để thiết lập vành đai đồn bốt dày đặc nhằm kiểm soát tình hình Vào tháng 5/1955, Mỹ-Diệm đã tiến hành càn quét vào khu dân cư của tín đồ Cao Đài tại Tòa Thánh Tây Ninh, dẫn đến cái chết của ông Tám Đường, Bí thư thị ủy vào ngày 20/7/1955 Đến năm 1956, chúng tiếp tục phát động các cuộc tấn công lớn vào các huyện Gò Dầu, Châu Thành, Trảng Bàng và Dương Minh Châu nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng.
1.2.2 Quân và dân Tây Ninh chống chiến tranh một phía (1954-1960)
Sau khi Mỹ đưa Ngô Đình Diệm về nước, ông được đào tạo để trở thành một tay sai đắc lực cho kế hoạch xâm lược miền Nam Việt Nam, biến khu vực này thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới của Mỹ Vào tháng 11/1954, Mỹ cử Tướng L Collins sang làm đại sứ tại Sài Gòn và công bố kế hoạch 6 điểm nhằm thực hiện ý đồ này, đặc biệt chú trọng đến khu vực Tây Ninh.
Chiến dịch Trương Tấn Bửu diễn ra từ tháng 7/1956 đến tháng 2/1957 là một trong những chiến dịch lớn của Mỹ - Diệm, với các cuộc càn quét quy mô lớn và biện pháp khủng bố tàn bạo như chôn sống, chém đầu, và đánh đập Đầu năm 1957, Mỹ - Diệm đã tiến hành xét duyệt lý lịch các thành phần Tề Ngụy, sa thải và bắt bớ những người bị nghi ngờ có liên hệ với cách mạng, đồng thời đưa vào những cán bộ Việt gian Hệ thống tổ chức ngụy quyền bị suy yếu, với 80% bị tan rã, và nhiều cơ sở cách mạng bị phát hiện và đàn áp, khiến nhiều người phải lánh đi nơi khác Ngoài việc đánh phá, Mỹ - Ngụy còn tăng cường lực lượng quân sự, thành lập các trung đội dân vệ và đồn bốt dày đặc trên các trục lộ quan trọng Họ cũng triển khai kế hoạch xây dựng sân bay và cảng để kiểm soát các tuyến đường thủy, nhằm khai thác tài nguyên và chia nhỏ căn cứ kháng chiến của ta.
Từ cuối năm 1955 đến năm 1958, chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” được triển khai tại các huyện Châu Thành, Trảng Bàng, Gò Dầu và Thị xã Tây Ninh, nhằm đàn áp các gia đình có quan hệ với cách mạng Mỹ-Ngụy đã sử dụng mật thám để quấy rối và gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống của người dân, đồng thời thực hiện âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết Từ năm 1959, chính quyền Diệm thi hành luật 10/59, dẫn đến việc chém giết đồng bào và uy hiếp tinh thần đấu tranh Mặc dù chiến dịch Trương Tấn Bửu gây thiệt hại ban đầu, quân và dân Tây Ninh đã kháng cự mạnh mẽ Đảng bộ tỉnh đã nhanh chóng ổn định tình hình và vạch trần âm mưu của Mỹ-Ngụy, đồng thời hướng dẫn phương pháp đấu tranh cho lực lượng vũ trang và nhân dân Từ 1955-1959, hơn 2000 đồng bào Trảng Bàng đã đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ Vào tháng 10/1957, nhân dân các quận nổi dậy chống bắt lính, khiến quận trưởng Phước Ninh phải chạy trốn Năm 1959, nhân dân Hòa Hiệp, Phước Vinh đã đoàn kết đấu tranh phá vỡ kế hoạch 9 bước của Mỹ-Ngụy, với hơn 180 cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ và hơn 1000 cuộc chống bắt lính, chống chính sách quân sự hóa học đường, thu hút hơn một triệu lượt quần chúng tham gia.
Ngay sau đó, Mĩ – Ngụy đã phát động các cuộc hành quân càn quét trên nhiều địa phương tỉnh, thực hiện luật 10/59 của Diệm, dẫn đến việc chém giết đồng bào Hàng loạt cán bộ ở các địa phương như Châu Thành, Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng, Dương Minh Châu và Thị xã Tây Ninh bị bắt và sát hại Nhiều đồng chí trung kiên của Đảng đã hy sinh Lãnh đạo tỉnh, như đồng chí Hoàng Lê Kha, bị bắt, đánh đập và đưa về Tam Hạp huyện Châu Thành để xử án, nhưng trước khi ra pháp trường, đồng chí vẫn hiên ngang vạch mặt kẻ thù hại dân hại nước.
Các phong trào đấu tranh của quân và dân Tây Ninh đã yêu cầu hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tuân thủ hiệp định Giơnevơ, đồng thời đòi hỏi dân sinh và dân chủ Họ đã chống lại các cuộc càn quét, bắt lính và sát hại những người yêu nước theo cách mạng Dưới sự lãnh đạo của đảng, quân và dân Tây Ninh đã làm cho kẻ thù khiếp sợ, bảo vệ lực lượng, che giấu cán bộ và bảo vệ căn cứ, chuẩn bị cho nhân dân Tây Ninh bước vào một giai đoạn lịch sử quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và chế độ Ngụy quyền.
Tây Ninh, tỉnh miền Đông Nam Bộ, nằm phía Tây Bắc thành phố Hồ Chí Minh, có lịch sử khai phá từ khoảng 3000 năm trước với nhiều di chỉ khảo cổ Vào giữa thế kỷ XVII, Tây Ninh là vùng đất hoang vu, nhưng đã thu hút nhiều người Việt đến khai hoang trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh (1627-1672) Năm 1658, vùng đất Tây Ninh được hình thành, và đến năm 1836, dưới triều vua Minh Mạng, tỉnh Phiên An được đổi tên thành tỉnh Gia Định, với phủ Tây Ninh ra đời như một đơn vị hành chính Quá trình phát triển của Tây Ninh gắn liền với sự hy sinh, công sức của người dân trong việc xây dựng một vùng đất trù phú, thể hiện tinh thần đoàn kết và yêu nước trong việc bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Sau thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Hiệp định Giơnevơ, Mỹ đã thay thế Pháp, can thiệp vào miền Nam Việt Nam với chính sách xâm lược, biến nơi đây thành thuộc địa mới và thiết lập chính quyền Ngô Đình Diệm Tây Ninh trở thành mục tiêu chiến lược quan trọng, nơi Mỹ - Ngụy tiến hành các cuộc càn quét quy mô lớn với các chiến dịch “Tố cộng”, “Diệt cộng”, dẫn đến nhiều người yêu nước bị sát hại Mặc dù lực lượng cách mạng ở Tây Ninh bị tổn thất nặng nề, nhưng chính sách cai trị độc tài của Ngô Đình Diệm đã kích thích phong trào đấu tranh cách mạng của quân và dân nơi đây.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo của tỉnh ủy Tây Ninh, lực lượng vũ trang đã phối hợp với quân và dân Tây Ninh chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược Chiến thắng Tua Hai không chỉ mở đầu phong trào “Đồng Khởi” vũ trang ở miền Đông Nam Bộ mà còn gây thiệt hại nặng nề cho Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm Sau chiến thắng này, 2/3 số xã trong tỉnh đã được giải phóng, góp phần quan trọng vào việc phá sản chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ, đưa cách mạng miền Nam và Tây Ninh bước sang giai đoạn mới đầy cam go từ 1960 đến 1969 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG VŨ TRANG TÂY NINH
Xây dựng và củng cố lực lượng cách mạng
2.1.1 Chiến thắng Tua Hai (26/1/1960) mở đầu phong trào “Đồng Khởi” ở miền Đông Nam Bộ
Cuối tháng 12 năm 1945, theo nghị quyết của Hội nghị xứ ủy Nam Bộ, khu 7 quyết định hợp nhất các lực lượng vũ trang và thành lập chi đội Ngày 5/3/1946, khu trưởng khu 7 đã ký quyết định thành lập chi đội 11 tỉnh Tây Ninh, đánh dấu ngày truyền thống lực lượng vũ trang tỉnh này Qua các cuộc chiến, nhiều người con Tây Ninh với tinh thần yêu nước đã tự nguyện gia nhập lực lượng vũ trang, được Đảng lãnh đạo và rèn luyện, góp phần vào những chiến thắng lịch sử của quân và dân Tây Ninh, đặc biệt là chi đội 11 và Trung đoàn 311, trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Cuối năm 1959, chế độ Mĩ - Diệm đã tiến hành đàn áp mạnh mẽ phong trào cách mạng tại miền Nam, sử dụng máy chém để khủng bố những người yêu nước và tham gia kháng chiến Các chiến dịch "Tố cộng" và "diệt cộng", cùng với luật 10/59, đã dẫn đến nhiều vụ chém giết đồng bào Trong bối cảnh đó, phong trào cách mạng tại miền Nam, đặc biệt là quân và dân Tây Ninh, đã dấy lên ngọn lửa đấu tranh mạnh mẽ, thể hiện lòng căm thù đối với kẻ thù và chế độ Mĩ Ngụy.
Vào tháng 1 năm 1959, Hội nghị lần thứ 15 của Ban chấp hành Trung Ương Đảng diễn ra tại Hà Nội, phân tích tình hình và mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam sau kháng chiến chống Pháp Nghị quyết 15 khẳng định rằng con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân Nghị quyết này có ý nghĩa to lớn, đáp ứng nhu cầu bức thiết của cách mạng miền Nam, mở đường cho sự tiến lên và thoát khỏi nguy hiểm, đồng thời thể hiện nguyện vọng của nhân dân miền Nam trong việc vùng lên chống lại áp bức Đảng đã chỉ đạo Xứ ủy Nam Bộ tập trung lực lượng để mở màn phong trào vũ trang “Đồng Khởi” ở miền Đông Nam Bộ, dẫn đến quyết tâm tấn công căn cứ Tua Hai của Mỹ - Ngụy.
Căn cứ Tua Hai, cách thị xã Tây Ninh khoảng 7km về phía Tây Bắc, được quân Ngụy Sài Gòn chọn làm vị trí đóng quân của Trung đoàn 32 nhằm kiểm soát phong trào cách mạng ở Tây Ninh Nơi đây có cấu trúc hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 800m, với tường đát cao 1m bao quanh và được canh phòng cẩn mật với hàng chục vọng gác cùng các ụ chiến đấu, quân số thường xuyên lên tới gần 2000 tên được trang bị vũ khí hiện đại Để tiêu diệt căn cứ này, Ban Quân sự miền Đông đã quyết định sử dụng lực lượng đặc công bí mật đột nhập, kết hợp với các đơn vị bộ binh đồng loạt tấn công Nhiệm vụ được giao cho đại đội 59, 65, 70, 80 và 2 trung đội vũ trang tỉnh Tây Ninh, với tổng quân số khoảng 300 chiến sĩ và hơn 300 dân công Trang bị của ta gồm 1 súng đại liên, 4 trung liên, 100 súng trường, tiểu liên, 70 trái nổ và thủ pháo, nhằm phục vụ cho cuộc chiến đấu lâu dài trong kháng chiến chống Mỹ.
Vào ngày 25/1/1960, các đơn vị quân đội ta đã tổ chức hành quân và chiếm lĩnh trận địa địch một cách an toàn nhờ sự chuẩn bị chu đáo và sự hỗ trợ từ nhân dân Tây Ninh Đến 23h cùng ngày, khi các đơn vị sẵn sàng tiến công, địch bất ngờ tập trung quân trong doanh trại và xe ô tô di chuyển trên quốc lộ 22 Trước tình hình này, đồng chí Nguyễn Hữu Xuyến, trưởng ban quân sự miền Đông, quyết định tạm dừng nổ súng để nắm bắt tình hình Đến 23h30, trinh sát của ta báo cáo địch tập trung tại doanh trại tiểu đoàn 1 (trung đoàn 32) để chuẩn bị càn quét khu vực Khe Đôn Lệnh được đưa ra là chờ cho địch ngủ để tiến hành tấn công Đúng 0h30’ ngày 26/1/1960, các chiến sĩ đặc công đã thực hiện đánh bom vào sở chỉ huy trung đoàn 32 Ngụy, đồng thời tiến hành tấn công vào các doanh trại của sĩ quan và hai tiểu đoàn 1 và 2 trung đoàn 32.
Trong trận đánh vào căn cứ Tua Hai, chỉ huy địch bị tiêu diệt phần lớn, khiến quân địch hoang mang và phải bỏ chạy hoặc đầu hàng Một số ít cố thủ tại các ụ chiến đấu ở phía Đông Bắc đã dùng đại liên chống trả, gây ra một số thương vong cho ta Trước tình huống khó khăn, Chính trị viên đại đội 59 đã ra lệnh lấy súng đại liên của địch để chế áp hỏa lực, tạo điều kiện cho ta chiếm lĩnh hoàn toàn căn cứ Vào lúc 3h30’ ngày 26/1/1960, các đơn vị rút khỏi trận địa, tổ chức 3 xe ôtô của địch chở chiến lợi phẩm và vũ khí, nhưng trên đường về bị địch truy kích buộc phải bỏ lại xe Kết quả, ta đã tiêu diệt 76 tên địch, bắt hơn 400 tên và thu giữ hơn 1500 súng các loại, bao gồm hai súng cối 81mm, hai súng DKZ 57mm và 25 máy thông tin.
Trận đánh Tua Hai là thắng lợi nổi bật nhất ở miền Đông Nam Bộ từ sau 1954 đến 1960, mở đầu cao trào “Đồng Khởi” Thắng lợi này đã mang lại một lượng lớn vũ khí, giúp trang bị cho các đơn vị địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ – Ngụy Chiến thắng Tua Hai thể hiện quyết tâm cao của Ban chỉ huy quân sự miền Đông, biết nắm bắt điểm yếu của địch và xây dựng kế hoạch tấn công hợp lý Nhờ vào sự bí mật, bất ngờ và tấn công đồng loạt từ nhiều hướng, ta đã tạo ra thế áp đảo, giành thắng lợi nhanh chóng Việc chỉ huy trận đánh cũng rất bình tĩnh, quyết đoán và sáng tạo, xử lý tình huống hiệu quả để chiếm căn cứ địch nhanh nhất.
Chiến thắng Tua Hai vào ngày 26/1/1960 là niềm tự hào lớn lao của quân và dân Tây Ninh, đồng thời là dấu mốc quan trọng trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ Chiến thắng này đã gây ra cú sốc mạnh mẽ cho chính quyền Ngô Đình Diệm, khiến họ rơi vào tình trạng hoang mang Chỉ sau vài tháng, 2/3 số xã trong tỉnh Tây Ninh đã được giải phóng, hơn 120 tổ chức tề xã, ấp bị triệt phá Điều này chứng tỏ rằng chiến thắng Tua Hai đã góp phần làm thất bại hoàn toàn chiến lược "chiến tranh đơn phương" của đế quốc Mỹ, đồng thời mở ra một giai đoạn phát triển mới cho cách mạng miền Nam, đặc biệt là Tây Ninh.
2.1.2 Tây Ninh đẩy mạnh xây dựng lực lượng cách mạng
Chiến thắng Tua Hai vào ngày 26 tháng 1 năm 1960 đã khơi dậy tinh thần đấu tranh của nhân dân, biến phong trào “Đồng Khởi Võ Trang” tại Nam Bộ thành cao trào khởi nghĩa vũ trang mạnh mẽ Số lượng lớn vũ khí thu được từ địch trong trận Tua Hai đã trở thành nguồn lực quan trọng, góp phần tạo ra hàng vạn vũ khí mới cho phong trào, giúp phá vỡ hàng ngàn chính quyền địch ở nông thôn miền Nam.
Kể từ cao trào đấu tranh chính trị, quần chúng đã thành lập một lực lượng vũ trang công khai có tổ chức, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, đóng vai trò nòng cốt hỗ trợ cho phong trào Nhiều cán bộ, chiến sĩ, bao gồm cả con em của nhân dân Tây Ninh, đã được cử lên làm nòng cốt để xây dựng lực lượng vũ trang của Miền và quân khu Đông Nam Bộ, trong đó có 14 đồng chí được đưa về.
Tây Ninh làm nòng cốt công khai chính thức xây dựng lực lượng vũ trang địa phương
Tổ chức biên chế đầu tiên được thành lập với một trung đội, do đồng chí Ngô Thành Sáng làm trung đội trưởng, đồng chí Thái Văn Thơm làm trung đội phó và đồng chí Trịnh Văn Đặng là chính trị viên được Tỉnh ủy cử sang Trung đội được chia thành ba tiểu đội, với các tiểu đội trưởng là đồng chí Lân, Thành và Thu, cùng các chiến sĩ Bền, Hùng và Đước.
Oanh, Công, Hoài, Nô, Hoàng và Tâm là những thành viên trong trung đội Trung đội này được trang bị 14 khẩu súng thu được từ trận đánh Tua Hai, bao gồm 1 trung liên Browning, 1 trung liên Brenn và 6 khẩu Garant.
3 Carabine và 3 trường Mas [8, tr 111]
Tên gọi của đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Tây Ninh trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã gây ra nhiều ý kiến khác nhau Tại cuộc họp Tỉnh ủy vào ngày 30/1/1960, đồng chí Tám Hoà, Bí thư tỉnh ủy, đã đề xuất rằng mặc dù đơn vị hiện tại chỉ là một “b”, nhưng với tình hình thuận lợi của cách mạng, có khả năng phát triển thành một “d” Ông đề nghị đặt tên cho đơn vị này là d14, dựa trên con số chẵn, và nhận được sự đồng thuận từ Thường vụ tỉnh ủy Như vậy, đơn vị lực lượng vũ trang đầu tiên của Tây Ninh đã chính thức ra đời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Mĩ cứu nước chính thức ra mắt vào ngày 1/2/1960, sau khi tỉnh uỷ Tây Ninh đã chỉ đạo các huyện thị tích cực tích luỹ cơ sở vật chất và hậu cần kĩ thuật từ năm 1959 để phát triển lực lượng cách mạng Đồng chí Sáu Trương, Trưởng ban quân sự mới được bổ nhiệm, đã nhận trách nhiệm này sau khi đồng chí Hoàng Lê Kha bị bắt vào tháng 10/1959 Nhiệm vụ của ban hậu cần được xác định rõ ràng nhằm chuẩn bị cho sự hình thành các lực lượng vũ trang.
Khẩn trương xây dựng lực lượng phục vụ và tạo nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, thuốc men, vũ khí cho lực lượng võ trang mới hình thành Đồng chí Tư Bịch đã đến một số địa phương để tìm kiếm cơ sở cách mạng, khuyến khích các đồng chí tham gia thành lập ngành hậu cần Tại xã An Tịnh-Trảng Bàng, đồng chí đã gặp đồng chí Cao Văn Xuân, một Đảng viên làm việc tại xưởng sửa chữa cơ khí, để xây dựng cơ sở trong công nhân cơ khí Trước khi ra chiến khu, đồng chí Xuân đã kết nối với đồng chí Hai Thảnh và một số đồng chí khác có tay nghề, cùng tham gia cách mạng Vào tháng 8/1960, xưởng sửa chữa thô sơ được thành lập dưới sự phụ trách của đồng chí Cao Văn Xuân với sự tham gia của các đồng chí khác Đến cuối năm 1960, đội ngũ thợ kỹ thuật đã phát triển lên 20 đồng chí, và đến tháng 10/1960, xưởng đã hoạt động ổn định trong khu vực Nước Đục-Bà Hảo Các đồng chí đã mang theo máy móc và dụng cụ cần thiết vào vùng giải phóng, tạo nền tảng quý giá cho việc thành lập xưởng.
Lực lượng vũ trang Tây Ninh chống chiến lược chiến tranh đặc biệt (1961- 1964)
2.2.1 Âm mưu của Mĩ-Ngụy thực hiện chiến tranh đặc biệt ở Tây Ninh
Thắng lợi từ phong trào “Đồng Khởi” ở Miền Nam đã khiến chính quyền Sài Gòn rơi vào khủng hoảng, làm thất bại chiến lược “chiến tranh đơn phương” của Aixenhao Trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, Tổng thống G.Kennơđi đã điều chỉnh chính sách của Mỹ, thay thế chiến lược “trả đũa ồ ạt” bằng “phản ứng linh hoạt” với ba loại hình chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực Chiến tranh đặc biệt, hay còn gọi là chiến tranh chống du kích, nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc, sử dụng lực lượng quân sự bản địa được Mỹ trang bị và chỉ huy Ngày 20/1/1961, G.Kennơđi đã công bố học thuyết mới và chọn Việt Nam làm nơi thí điểm cho cuộc “chiến tranh đặc biệt”.
Trong bối cảnh âm mưu của Mĩ-Nguỵ, tại Tây Ninh, sau kinh nghiệm từ cuộc chiến tại Tua Hai và sự tấn công của ta vào hàng loạt hệ thống đồn bốt, Nguỵ quân bắt đầu củng cố lực lượng dân vệ bảo an Họ ráo riết thanh lọc các “phần tử cộng sản” và nghi ngờ thân cộng sản ra khỏi bộ máy, đồng thời xây dựng hệ thống đồn bốt kiên cố hơn Trong những tháng cuối năm 1960 và đầu năm 1961, chính quyền Diệm đã tổ chức 67 cuộc càn lớn nhỏ nhằm chiếm lại các vùng ven và căn cứ giải phóng, trong đó có các đồn như Suối Sâu, Trãng Dầu, Sớm Sóc và ngã ba Hai Châu.
Ngã ba Cây Khế và Bùng Binh nằm trong huyện Trảng Bàng, trong khi Hãng đường Ê-Cô-Nên, nhà Vuông Cháy, Bản Dung, và Trí Bình thuộc huyện Châu Thành, xã Phan, Quy Thiện, Chà.
Trong huyện Dương Minh Châu, các lực lượng đang tích cực củng cố hệ thống công sự và trận địa, cùng với hàng rào vật cản tại tiểu khu Tây Ninh và tòa hành chính tỉnh Ở phía Đông Nam, họ đã cho xây dựng thêm chi khu Khiêm Hanh, trong khi ở phía Tây cũng có các công trình xây dựng mới.
Âm mưu và hoạt động tại khu Gò Dầu Thượng là một phần trong kế hoạch tổng thể của chính quyền tỉnh Tây Ninh, nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược “bình định” Mục tiêu của chiến lược này là tập trung dân cư theo chủ trương của đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn trong bối cảnh “chiến tranh đặc biệt”.
2.2.2 Lực lượng vũ trang Tây Ninh góp phần đánh bại kế hoạch “ Stalay-Tay lo” và “Giônxơn-Mac Namara” - Nội dung chủ yếu của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”
Quá trình hình thành kế hoạch “Sta-lây và Tay-lo”: Nội dung chủ yếu của chiến lược “chiến tranh đặc biệt” 1961-1963 ở miền Nam Việt Nam
Cuối năm 1960 và đầu năm 1961, phong trào nổi dậy tại Tây Ninh và miền Nam Việt Nam kết hợp giữa đấu tranh chính trị và vũ trang, lan rộng đến các vùng có tôn giáo như Cao Đài và Thiên Chúa giáo Hình thức đấu tranh chính trị trực diện ngày càng phổ biến, trong khi hoạt động vũ trang phát triển mạnh mẽ, tiêu hao sinh lực địch và hỗ trợ quần chúng Để đối phó với phong trào cách mạng, từ tháng 3/1960, dưới sự chỉ đạo của Đại sứ Mỹ Durbrow, một kế hoạch chống nổi loạn đã được đề ra, tăng cường quân ngụy từ 150.000 lên 170.000 quân Tuy nhiên, đến tháng 1/1961, khi Kennedy lên làm tổng thống, kế hoạch này mới chính thức được phê duyệt với chi phí 41 triệu đôla Đến ngày 15/5/1961, Kennedy quyết định chuyển sang chiến lược "chiến tranh đặc biệt", nhằm ngăn chặn sự thống trị của Cộng sản tại Nam Việt Nam, tăng cường cố vấn và viện trợ quân sự, mở rộng quyền hạn cho phái đoàn cố vấn, và nâng quân ngụy lên 200.000 quân, phát triển lực lượng không quân và hải quân để kiểm soát nội địa và biên giới.
Với sự hỗ trợ từ Mỹ, chính quyền Ngụy ở Tây Ninh đã tập trung nâng cao chất lượng lực lượng bảo an và dân vệ, trở thành lực lượng chủ yếu trong nhiệm vụ “phòng thủ diện địa” Sau khi rút lui, các đơn vị chủ lực được điều động đi nơi khác để củng cố Vào ngày 24/6/1961, Mỹ và Ngụy đã tái phân chia chiến trường, đưa Tây Ninh vào khu chiến thuật 31 và điều Trung đoàn 9 thuộc Sư đoàn 5 về đây để ngăn chặn tiến công từ biên giới, đồng thời bảo vệ Bắc Sài Gòn và hỗ trợ bình định Tây Ninh còn được tăng cường với một thiết đoàn tăng M113 gồm 47 chiếc, 4 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 tiểu đoàn thủy quân lục chiến, cùng nhiều phương tiện chiến tranh khác Bên cạnh việc phát triển lực lượng bảo an, Mỹ cũng thiết lập các tổ chức như “tổ chức thanh thiếu niên chiến đấu” ở cấp xã và “thanh nữ cộng hòa” tại mỗi quận do CIA chỉ đạo.
Lệ Xuân phụ trách huấn luyện và chỉ huy
Về mặt hành chính, địch đã từng bước quân sự hóa hệ thống ngụy quyền bằng cách chuyển giao các sĩ quan nắm giữ chức vụ tỉnh trưởng và quận trưởng, đồng thời đưa các tổng đoàn bảo an và dân vệ trực thuộc bộ Quốc phòng ngụy Họ cũng tập trung củng cố và tăng cường phòng thủ tại tiểu khu Tây Ninh, tòa hành chính và các ty, sở, chi khu Phước Ninh.
Hiếu Thiện và Khiêm Hanh đã thành lập các yếu khu chợ Cầu và Phước Hội, đồng thời bổ nhiệm vũ Đức Nhuận làm tỉnh trưởng thay Ngọc Thôi, Trần Văn Hai làm trưởng ty công an thay Đoàn Đình Tứ, và Ngô Thiện Phước làm quận trưởng Hiếu Thiện thay Lâm Văn Thao Họ cũng đưa Thái Trần Lê làm quận trưởng Trảng Bàng và Trịnh Văn Ty làm quận trưởng Phước Ninh Để hỗ trợ các phe nhóm chống phá cách mạng, họ đã mời Nguyễn Thành Phương - Tướng Cao Đài thành lập Mặt trận Liên Tôn, nhưng khi thất bại, họ lại ủng hộ Văn Thành Cao tập hợp cựu Cao Đài thành lập lực lượng đặc biệt khoảng 200 người, được trang bị đầy đủ và chiếm đóng khu nhà Mồ, Bình Thạnh-Trảng Bàng.
Trên chiến trường Tây Ninh, quân đội Mỹ - Ngụy áp dụng chiến thuật “Trực thăng vận” và “Thiết xa vận” một cách triệt để, sử dụng chi đội M113 để càn quét, phá rừng, kết hợp với trực thăng đổ quân Họ đồng thời bắn phá bừa bãi vào các làng mạc và căn cứ kháng chiến từ nhiều trận địa pháo tại Trâm Vàng, Bàu Đồn, Trảng Bàng, Trảng Lớn, Tây Ninh, và Chà Rầy Tất cả các hoạt động quân sự này nhằm phục vụ cho chương trình gom dân lập “Ấp chiến lược”, được coi là “quốc sách” và “xương sống” trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - Ngụy, với mục tiêu nhanh chóng bình định miền Nam và đối phó với chiến tranh du kích.
Cuối tháng 7/1961, Mĩ-Diệm đã chọn Tây Ninh, Bình Dương và Biên Hòa làm thí điểm cho chương trình “thực thi quốc sách ấp chiến lược” Từ ngày 25/7 đến 9/8/1961, các tỉnh trưởng và lãnh đạo chính quyền ba tỉnh này đã tham gia tập huấn Sau đó, Vũ Đức Nhuận, tỉnh trưởng Tây Ninh, đã lập kế hoạch bình định Tây Ninh trong 15 tháng, chia thành 5 giai đoạn, với mục tiêu gom 270.000 dân vào 173 ấp chiến lược Để thực hiện kế hoạch này, một cuộc càn quét quy mô lớn đã được tiến hành, sử dụng lực lượng Bảo an và Dân vệ để loại trừ quân ta khỏi khu vực Năm 1961, địch đã thực hiện nhiều cuộc càn quét, và đến năm 1962, số lượng cuộc càn quét đã tăng gấp đôi Cuộc càn “Sao mai” kéo dài hơn 10 ngày đã sử dụng nhiều trung đoàn chủ lực để tấn công vào căn cứ của ta Địch áp dụng nhiều thủ đoạn quân sự kết hợp với chiến tranh tâm lý nhằm kiểm soát và tiêu diệt các lực lượng vũ trang của ta, đồng thời ép buộc người dân tham gia vào các tổ chức phản động.
Tại Dương Minh Châu, vào ngày 7/11/1961, đại đội 31 bộ đội địa phương huyện phối hợp cùng du kích xã Suối Đá và xã Phan đã bao vây bốt Khe Đon Tiếp theo, du kích Lộc Ninh đã bức rút bốt Lộc Ninh và tiêu diệt 1 trung đội dân vệ vào đêm 25/11/1961 Từ 23 đến 30/12/1961, đại đội 33 (Liên huyện Trảng Bàng-Gò Dầu) cùng du kích và nhân dân tại các xã vùng Ruột đã chặn đánh địch tại Xóm Rộc, tiêu diệt 1 đại đội bảo an vào ngày 17/12/1961 Ngày 10/11/1961, tỉnh đã chỉ đạo tách Gò Dầu-Trảng Bàng thành 2 huyện riêng để chuẩn bị lực lượng đối phó với kế hoạch bình định của Mỹ-Ngụy Tại Trảng Bàng, đại đội 54 và du kích huyện đã được củng cố, đồng thời tiểu đoàn 14 được điều về hoạt động tại đây, hướng dẫn nhân dân làm công sự và phục kích đánh đồn Xóm Sóc, tiêu diệt 69 tên vào ngày 20/11/1961, với tổn thất nhẹ cho ta (2 chiến sĩ hy sinh và 2 bị thương).
Trong giai đoạn 1962-1964, chiến trường Tây Ninh chứng kiến âm mưu lập “Ấp chiến lược” của quân Mỹ, với hàng trăm chuyến bay Da-Ko-Ta rải chất độc hóa học, khiến cây rừng trụi lá và hàng trăm héc ta hoa màu của nông dân bị tàn phá Quân địch không ngừng ném bom và pháo kích vào các đồn, đồng thời tổ chức các cuộc tấn công vào căn cứ của ta, sử dụng lực lượng “cảnh sát Chày vồ” để đàn áp dân chúng ở các xã huyện Châu Thành, Trảng Bàng, Gò Dầu, Dương Minh Châu Hậu quả là nhiều cán bộ của ta bị bắt hoặc phải rút lui, khiến bộ đội và du kích không thể gắn bó với nhân dân, gây ra nhiều khó khăn và thiệt hại cho lực lượng ta.
Từ tháng 2/1962, Bộ Chính trị đã chỉ đạo các lực lượng vũ trang ở miền Nam và các tỉnh địa phương chủ động tổ chức các trận đánh lớn nhỏ nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích, và phá hủy các "Ấp chiến lược" Các lực lượng cần tấn công khi địch sơ hở tại các đồn bốt và trong quá trình tuần tra càn quét Để đạt được hiệu quả cao, cần thực hiện tốt các biện pháp trên cả ba mặt trận: chính trị, quân sự và binh vận.