Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1 Đặc điểm giải phẫu tử cung
Tử cung là một xoang cơ rỗng có kích thước khoảng 6x4x2cm, hình nón cụt, đóng vai trò quan trọng trong việc làm tổ của trứng đã thụ tinh Cấu trúc của tử cung bao gồm ba phần chính: thân, eo và cổ tử cung.
Cổ tử cung thường ở tư thế gập ra trước, với góc 120 độ giữa trục thân và trục cổ tử cung, đồng thời ngả ra trước, tạo góc 90 độ giữa trục thân và trục âm đạo.
Hình 01 Cấu tạo trong của tử cung và vòi tử cung
1 Đáy tử cung 2 Buồng tử cung 3 Thân tử cung 4 Cổ tử cung 5 Ống cổ tử cung 6 Dây chằng riêng buồng trứng 7 Động mạch và tĩnh mạch buồng trứng 8
Tua vòi 9 Phễu vòi 10 Bóng vòi 11 Eo vòi 12 Phần tử cung
2.1.1.1 Hình thể ngoài và liên quan
+Mặt trước dưới còn gọi là mặt bàng quang, áp vào mặt trên của bàng quang, ở đây phúc mạc tạo nên túi cùng bàng quang tử cung
Mặt sau trên được gọi là mặt ruột do liên quan đến ruột non và đại tràng sigma, nơi phúc mạc hình thành túi cùng tử cung trực tràng.
Hài mặt của tử cung được tạo thành bởi đáy tử cung và hai bờ bên phải và trái Động mạch tử cung chạy song song với bờ tử cung trong hai lá của dây chằng rộng Góc bên của tử cung là nơi bờ và đáy gặp nhau, nối tiếp với vòi tử cung và là điểm bám của dây chằng tròn tử cung cùng dây chằng riêng buồng trứng.
Có âm đạo bám vào theo một mặt phẳng từ trên xuống dưới ra trước chia cổ làm hai phần:
Phần trên âm đạo nằm gần bàng quang ở phía trước dưới và trực tràng ở phía sau Cổ tử cung chỉ được ngăn cách với bàng quang bởi tổ chức lỏng lẻo, trong khi với trực tràng, có túi cùng tử cung trực tràng xen vào giữa.
Phần âm đạo nhìn như một mỏm cá mè Ở đỉnh mỏm là lỗ tử cung, lỗ được giới hạn phía trước, phía sau bằng mép trước và mép sau
Eo là phần nối liền giữa cổ và thân tử cung, thường không rõ ràng nhưng sẽ phát triển nhanh trong thời kỳ mang thai, tạo thành đoạn dưới của tử cung Âm đạo kết nối với cổ tử cung, tạo thành vòm âm đạo, bao gồm bốn phần: trước, sau, bên phải và bên trái Trong số đó, túi bịt sau là phần sâu nhất, liên quan đến túi cùng trực tràng tử cung, thường được sử dụng trong các cuộc thăm khám y tế.
Tử cung là một buồng rỗng hình tam giác, kết nối với ống tử cung và thông qua lỗ tử cung với âm đạo.
2.1.1.3 Các phương tiện nâng đỡ tử cung:
Giúp tử cung có được vị trí và tư thế bình thường
Dây chằng ngang cổ tử cung là một dải xơ cơ nối từ cổ tử cung đến thành bên âm đạo, bám vào thành bên của chậu hông Đặc biệt, động mạch tử cung chạy ở bờ trên của dây chằng này, đi đến cổ tử cung và bắt chéo trước niệu quản.
- Dây chằng tử cung cùng: Đi từ mặt sau cổ tử cung vòng quanh trực tràng để bám vào mặt trước xương cùng
- Dây chằng mu cổ tử cung: Đi từ mặt trước cổ tử cung đến mặt sau xương mu
Dây chằng tròn là cấu trúc nối từ góc bên của tử cung đến lỗ bẹn, đi sâu qua ống bẹn và bám tận ở môi lớn, có chức năng giữ tử cung ở tư thế gập trước.
Dây chằng rộng là cấu trúc gồm hai lá phúc mạc liên tiếp, kéo dài từ bờ bên tử cung và vòi tử cung đến thành bên chậu hông Cấu trúc này có hai mặt: mặt trước và mặt sau, trong đó mặt sau gắn với mạc treo buồng trứng Dây chằng rộng có bốn bờ: bờ trên tự do bọc lấy vòi tử cung, bờ trong bám vào bờ bên của tử cung, bờ ngoài gắn vào thành chậu, và bờ dưới là đáy của dây chằng rộng.
Tử cung được giữ vững nhờ vào đáy chậu, và sự ổn định của đáy chậu phụ thuộc vào trung tâm gân của nó Do đó, tổn thương tại trung tâm gân đáy chậu có thể dẫn đến hiện tượng sa sinh dục.
2.1.1.4 Mạch máu và thần kinh: Động mạch tử cung xuất phát từ động mạch chậu trong, chạy dọc xuống dưới đi đến đáy dây chằng rộng bắt chéo trước niệu quản ngang mức và cách cổ tử cung chừng1,5cm Động mạch chạy theo bờ bên tử cung cho đến góc bên va nối với động mạch buồng trứng
Thần kinh tử cung phát sinh từ đám rối thần kinh âm đạo
Tử cung có ba lớp, kể từ ngoài vào trong:
- Thanh mạc chính là lớp phúc mạc bao bọc mặt trước và mặt sau
Lớp cơ của tử cung bao gồm ba lớp: lớp ngoài, lớp giữa và lớp trong Lớp giữa, dày nhất và có cấu trúc đan chéo, được gọi là cơ rối, đóng vai trò quan trọng trong quá trình sinh nở nhờ vào việc cung cấp nhiều mạch máu cho tử cung.
- Lớp trong cùng là lớp niêm mạc, thay đổi theo kỳ kinh
U xơ tử cung (hay u cơ trơn tử cung, nhân xơ tử cung) là khối u lành tính phát triển từ cơ tử cung
Hình 02 Vị trí u xơ tử cung (Atlas giải phẫu người)
Hình 03 Cấu tạo trong u xơ tủ cung
2.1.2.2.Vị trí của u xơ tử cung
Tuỳ theo phần của tử cung,
So với thành tử cung
- U xơ dưới thanh mạc: Có thể có cuống
- U xơ kẽ nằm trong bề dày lớp cơ
- U xơ dưới niêm mạc: Nổi lên trong buồng tử cung Đôi khi có cuống gọi là polyp xơ
2.1.2.3.Cơ chế bệnh sinh và sự phát triển
Cơ chế bệnh sinh của u xơ tử cung vẫn chưa được làm rõ, do đó chưa có phương pháp điều trị nguyên nhân Nhiều nghiên cứu cho rằng u xơ tử cung là kết quả của sự cường estrogen tại chỗ, điều này được giải thích qua các triệu chứng điển hình của bệnh.
- Không có u xơ tử cung trước tuổi dậy thì
- U xơ tử cung có thể tồn tại hoặc có thể giảm bớt sau thời kỳ mãn kinh hoặc sau khi cắt bỏ buồng trứng
- U xơ tử cung tăng đột ngột trong quá trình mang thai, bé đi khi kết thúc mang thai
- U xơ tử cung tăng lên khi điều trị bằng estroprogestatif
- U xơ tử cung to lên sau mãn kinh nếu điều trị bằng estrogen
- Niêm mạc tử cung của người bị u xơ tử cung cho thấy dường estrogen, thông thường có quá sản niêm mạc tử cung gây rong kinh, rong huyết
Triệu chứng phụ thuộc vào vị trí của khối u
- Ra huyết từ tử cung: Dưới dạng cường kinh dần dần trở nên rối loạn kinh nguyệt, ra máu cục lẫn máu loãng, kéo dài 7 -10 ngày hoặc hơn
- Dịch âm đạo: Loãng như nước do biến chứng nhiễm khuẩn phối hợp
- Đau hạ vị hoặc hố chậu: Kiểu tức nặng bụng, đau tăng lên trước khi hành kinh hoặc khi hành kinh
- Rối loạn tiểu tiện: Đái dắt, bí đái, són đái
- Có thể người bệnh đi khám vì vô sinh
Nắn bụng giúp xác định tình trạng bàng quang rỗng và phát hiện vùng hạ vị phồng lên Qua đó, có thể xác định đáy tử cung có khối u nằm ở giữa, với đặc điểm gõ đục, chắc chắn và di động, nhưng không thể nắn được cực dưới của khối u.
- Đặt mỏ vịt: Có thể xuất hiện polyp có cuống nằm ở ngoài cổ tử cung
Thực trạng
Năng lực chuyên môn và điều kiện hạ tầng tại bệnh viện cơ sở
Dưới thời Pháp thuộc, khu vực bệnh viện hiện nay từng là một nhà tu, sau đó trở thành nhà thương Võ Tánh Sau khi hòa bình lập lại, nhà thương được tu sửa để phục vụ khám, chữa bệnh cho cán bộ, công nhân viên chức Ngày 19/7/1955, bác sĩ Hoàng Tích Trí ký Nghị định 615-ZYO/NĐ/3A, chính thức thành lập bệnh viện “C”, nền tảng cho bệnh viện Phụ - Sản Trung ương hiện nay Ngày 08/11/1960, Bộ Y tế có QĐ 708/BYT tổ chức lại bệnh viện “C” theo hướng chuyên khoa phụ sản Đến ngày 14/5/1966, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký Quyết định số 88/CP đổi tên bệnh viện thành Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh, đánh dấu sự ra đời của viện chuyên ngành đầu tiên tại Việt Nam nghiên cứu sức khỏe phụ nữ và trẻ sơ sinh Năm 2003, trước nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản ngày càng cao, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định 2212/QĐ-BYT đổi tên Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ sơ sinh thành bệnh viện Phụ - Sản Trung ương, tiếp tục thực hiện các chức năng khám, chữa bệnh với yêu cầu cao hơn.
Bệnh viện Phụ - Sản Trung ương có quy mô 1000 giường bệnh nội trú, bao gồm 08 phòng chức năng, 14 khoa lâm sàng, 09 khoa cận lâm sàng và 07 trung tâm Đây là cơ sở đầu ngành về phụ sản, sinh đẻ kế hoạch và sơ sinh, đồng thời cũng là nơi đào tạo đại học và sau đại học, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo tuyến và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực này trên toàn quốc Với bề dày truyền thống và đội ngũ giáo sư, bác sĩ được đào tạo bài bản trong nước và nâng cao tay nghề tại các nước tiên tiến, bệnh viện cam kết cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản chất lượng cao.
Bệnh viện có đội ngũ y bác sĩ tay nghề cao, được đào tạo bài bản và có tâm huyết với nghề Hệ thống trang thiết bị khám chữa bệnh được đầu tư hiện đại và chuyên sâu, bao gồm các máy xét nghiệm sinh hóa, huyết học và miễn dịch Nhiều hệ thống xét nghiệm tiên tiến như Autodelfia cho sàng lọc trước sinh và sơ sinh, Tendem Mass cho sàng lọc rối loạn chuyển hóa, và Sequensing cho xét nghiệm QF-PCR đã được áp dụng, giúp bác sĩ chẩn đoán và điều trị bệnh một cách chính xác.
Từ năm 1955 đến cuối năm 1969, Bệnh viện đã thành lập khoa Phụ, và vào năm 1970, một bộ phận được tách ra để thành lập phòng A1, chuyên điều trị các bệnh phụ khoa như u xơ tử cung, u nang buồng trứng, chửa ngoài tử cung, sa sinh dục, vô sinh và viêm nhiễm sinh dục Từ năm 1971 đến 1975, phòng này được gọi là phòng Phụ I và bổ sung thêm điều trị dò bàng quang sinh dục Từ năm 1975 đến nay, phòng đã được đổi tên thành khoa Phụ Ngoại, với tổng số nhân viên là 37, bao gồm 12 bác sĩ, 23 điều dưỡng và nữ hộ sinh, cùng 02 hộ lý.
Chức năng nhiệm vụ của khoa:
- Khám điều trị, phẫu thuật các bệnh lý phụ khoa lành tính: u xơ tử cung, u nang buồng trứng, polyp buồng tử cung, viêm phần phụ, dị dạng sinh dục (23/3/
2016 Bệnh viện đã thành lập Trung tâm Sàn Chậu nên những người bệnh Sa sinh dục đã chuyển sang Sàn Chậu)…
Điều trị và phẫu thuật các bệnh lý cấp cứu như chửa ngoài tử cung, u buồng trứng xoắn, vỡ nang buồng trứng chảy máu, u xơ tử cung và polyp buồng tử cung gây băng kinh thiếu máu là rất cần thiết để bảo vệ sức khỏe phụ nữ.
- Phẫu thuật nội soi như cắt tử cung, bóc u xơ, soi buồng tử cung
- Phẫu thuật đường âm đạo, cắt tử cung đường âm đạo
Các thành tích đã đạt được:
Phẫu thuật nội soi đang phát triển mạnh mẽ với nhiều kỹ thuật tiên tiến như cắt tử cung, bóc u xơ, phẫu thuật soi buồng tử cung và các phẫu thuật đường âm đạo, cũng như những ca phẫu thuật liên quan đến dị dạng sinh dục Mức độ khó của các loại phẫu thuật này ngày càng được nâng cao, với hơn 3.500 ca phẫu thuật được thực hiện hàng năm, trong đó phẫu thuật nội soi chiếm 88%.
Chẩn đoán sớm và chính xác chửa ngoài tử cung là rất quan trọng Phương pháp điều trị nội khoa bằng Methotrexate được áp dụng cho 35-40% trường hợp chửa ngoài tử cung, với tỉ lệ thành công đạt đến 90%.
Trong những năm gần đây, số lượng bệnh nhân chửa vết phẫu thuật và chửa ống cổ tử cung đã gia tăng đáng kể, từ hơn 100 người bệnh mỗi năm trong giai đoạn 2011 – 2012 lên hơn 400 người bệnh mỗi năm trong giai đoạn 2013 – 2014 Tỷ lệ điều trị thành công đạt tới 97% mà không cần phẫu thuật, thông qua các phương pháp như hút thai dưới siêu âm đơn thuần hoặc phối hợp điều trị bằng Methotrexate.
Tình hình điều trị U xơ tử cung tại khoa ngoại phụ
Theo thống kê, mỗi năm có khoảng 700-750 ca phẫu thuật u xơ tử cung tại khoa phụ ngoại, trong đó 50% được thực hiện bằng phương pháp mổ nội soi, còn lại là mổ mở Phẫu thuật mở thường được chỉ định khi bệnh nhân gặp phải các vấn đề sức khỏe phối hợp khác.
Thực trạng chăm sóc người bệnh sau phẫu thuật u xơ tử cung
Theo Dương Thị Cương và Nguyễn Đức Hinh đã thống kê có 18% – 20% phụ nữ trên 35 tuổi mắc u xơ tử cung, có 3% phụ nữ bị u xơ tử cung ở tuổi 20 [8]
Chúng tôi tiến hành khảo sát trên 30 người bệnh được phẫu thuật u xơ tử cung trong tháng 07/2018 Thống kê thấy rằng người bệnh là nữ, tuổi cao nhất là
Theo nghiên cứu của Trần Thị Phương Nhung, số ngày nằm viện trung bình sau phẫu thuật mở là 4,3 ngày (±1,14), với thời gian tối thiểu là 3 ngày và tối đa là 9 ngày Trong khi đó, số ngày nằm viện trung bình sau phẫu thuật nội soi là 4,02 ngày (±1,34), với thời gian tối thiểu là 2 ngày và tối đa là 9 ngày.
Chúng tôi đã thực hiện khảo sát về thời gian nằm viện từ 2 đến 9 ngày đối với 30 bệnh nhân, trong đó có 15 bệnh nhân phẫu thuật nội soi và 15 bệnh nhân phẫu thuật mở Kết quả cho thấy không có biến chứng hay tai biến nào xảy ra trong quá trình phẫu thuật Quy trình chăm sóc bệnh nhân cơ bản bao gồm nhiều vấn đề quan trọng.
3.2.1 Chăm sóc người bệnh ngay sau phẫu thuật và dấu hiệu sinh tồn
Sau phẫu thuật, bệnh nhân được theo dõi và chăm sóc tại phòng hậu phẫu của khoa Gây mê trong 2-3 giờ để phòng ngừa biến chứng từ gây tê, gây mê và các biến chứng ngay sau phẫu thuật Tại đây, điều dưỡng viên thực hiện chế độ chăm sóc cấp 1 và theo dõi liên tục các dấu hiệu sinh tồn bằng máy monitor Khi các dấu hiệu sinh tồn ổn định và tác dụng của thuốc tê, thuốc mê đã hết, cùng với việc loại trừ nguy cơ biến chứng, bệnh nhân sẽ được chuyển giao về khoa Phụ ngoại để tiếp tục theo dõi Trong số các bệnh nhân được khảo sát, không có ai gặp phải biến chứng ngay sau phẫu thuật.
Trong 12 giờ đầu sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được chuyển về khoa và theo dõi chặt chẽ bởi bác sĩ và điều dưỡng Các chỉ số sinh tồn như huyết áp, mạch, nhiệt độ, nhịp thở và nước tiểu sẽ được kiểm tra 3 giờ một lần để phát hiện sớm dấu hiệu bất thường sau gây mê và phẫu thuật Bệnh nhân cũng sẽ được hướng dẫn nằm bất động tại giường, với đầu kê cao, nhằm hạn chế tối đa việc ngồi dậy, đi lại hoặc thay đổi tư thế đột ngột Tất cả bệnh nhân đều được theo dõi và hướng dẫn cẩn thận trong giai đoạn này.
Ghi chép hồ sơ bệnh án của điều dưỡng rất chi tiết và đầy đủ, phản ánh chính xác diễn biến bệnh tình, thực hiện đúng và đầy đủ các y lệnh điều trị, đồng thời đánh giá hiệu quả tiến triển của người bệnh.
Trong những ngày tiếp theo, nếu người bệnh có dấu hiệu sinh tồn trong giới hạn bình thường, điều dưỡng sẽ chuyển sang chế độ chăm sóc cấp 3, theo dõi dấu hiệu sinh tồn một lần mỗi ngày hoặc khi có bất thường Đáng chú ý, không có trường hợp nào trong 17 bệnh nhân nghiên cứu xuất hiện dấu hiệu bất thường sau phẫu thuật.
3.2.2 Dùng thuốc và chăm sóc giảm đau sau phẫu thuật người bệnh trước phẫu thuật đều được dùng kháng sinh dự phòng tiêm Tĩnh mạch chậm trước phẫu thuật từ 30 phút đến 1h, thường dùng Cefalosphorin thế hệ
Trước phẫu thuật, bệnh nhân được sử dụng liều 1g thuốc Sau phẫu thuật, tất cả bệnh nhân đều được truyền dịch Ringer lactat và Glucose 5% Tiêm kháng sinh Cefoxitin với liều 1g, chia làm 2 lần trong ngày Tại khoa, bệnh nhân được điều trị bằng một loại kháng sinh đơn thuần là Cefalosporin thế hệ I-II theo liều quy định.
Sau phẫu thuật, tất cả bệnh nhân đều trải qua cảm giác đau tại vết mổ, với mức độ đau được đánh giá từ 4-6 điểm theo thang VAS Trong số 30 bệnh nhân, có 8 người có điểm đau VAS đạt 6 và đã đăng ký dịch vụ giảm đau do khoa GMHS cung cấp Đáng chú ý, 100% bệnh nhân sử dụng dịch vụ giảm đau đều ghi nhận mức độ đau giảm xuống còn 2-3 điểm sau khi dùng thuốc.
Đối với những bệnh nhân không sử dụng dịch vụ giảm đau, điều dưỡng viên sẽ giải thích và động viên để họ hiểu rõ về triệu chứng đau tại vết phẫu thuật Tất cả bệnh nhân đau đều được cung cấp thuốc giảm đau thông thường qua đường uống (ultracef + paracetamol), cùng với sự chăm sóc tận tình của thầy thuốc và điều dưỡng giúp họ cảm thấy thoải mái hơn, giảm lo lắng và căng thẳng, từ đó làm giảm triệu chứng đau tại chỗ Theo nghiên cứu, hầu hết bệnh nhân đều giảm nhiều hoặc hết hẳn cơn đau sau 36 giờ phẫu thuật.
Hình 4: Dùng thuốc cho người bệnh sau phẫu thuật 3.2.3 Theo dõi nhu động ruột sau phẫu thuật
Tất cả các người bệnh tham gia nghiên cứu đều được gây mê nội khí quản có dùng thuốc giãn cơ trong phẫu thuật
Khi bệnh nhân có dấu hiệu nhu động ruột trở lại, họ đã được cho ăn hoặc uống, giảm chướng bụng và đau vết phẫu thuật Tất cả bệnh nhân trong nghiên cứu đều có hiện tượng trung tiện sau phẫu thuật trong khoảng 24 giờ, với trường hợp sớm nhất ghi nhận trung tiện sau 6 giờ Không có bệnh nhân nào gặp phải tình trạng chướng bụng trở lại và họ có thể ăn hoặc uống nhẹ sau vài giờ Đặc biệt, không có trường hợp nào bị rối loạn nhu động ruột sau phẫu thuật.
3.2.4 Chăm sóc đại tiểu tiện, ống sonde
Trong 30 người bệnh nghiên cứu không có người bệnh nào phải đặt sonde dạ dày trước phẫu thuật vì đều được phẫu thuật chuẩn bị, nhịn ăn uống hoàn toàn > 6h trước phẫu thuật Sau phẫu thuật về có một số người bệnh có dấu hiệu chướng bụng, đầy hơi, buồn nôn nhẹ, có thể có nôn khan nhẹ, các người bệnh này đều được điều dưỡng viên hướng dẫn theo dõi , động viên tình thần tránh lo lắng, hướng dẫn tự vận động tại giường nằm để kích thích nhu động ruột
Không có bệnh nhân nào cần đặt sonde dẫn lưu vết phẫu thuật Tất cả 100% bệnh nhân được nghiên cứu đều có khả năng tiểu tiện trong khoảng thời gian từ 12 đến 24 giờ sau phẫu thuật Sau phẫu thuật, bệnh nhân có dẫn lưu nước tiểu, và ống dẫn này được rút ra sau từ 6 đến 12 giờ.
Không có trường hợp nào bí tiểu hay chảy máu sau phẫu thuật
Dưới sự giám sát và hướng dẫn của điều dưỡng viên, tất cả 30 bệnh nhân sau phẫu thuật đều tuân thủ chế độ ăn uống, dẫn đến việc không có ai gặp phải triệu chứng táo bón Tất cả bệnh nhân đều có thể đại tiện bình thường trở lại trong khoảng thời gian từ 24 đến 36 giờ.
Ngày đầu tiên sau phẫu thuật, điều dưỡng viên không thay băng vết mổ, nhưng cần theo dõi quy trình băng vết mổ Trong nghiên cứu với 30 bệnh nhân, tất cả băng vết mổ sau phẫu thuật đều khô, lượng máu dịch thấm vào băng rất ít, và không có dấu hiệu chảy máu trong vết mổ.
Các ưu điểm, nhược điểm
- Trang thiết bị cơ sở hạ tầng của bệnh viện tốt, sạch sẽ đảm bảo cho quá trình chăm sóc người bệnh
Điều dưỡng viên tại bệnh viện, đặc biệt là trong khoa ngoại, được đào tạo chuyên nghiệp và tham gia các khóa học về chăm sóc bệnh nhân, tư vấn sức khỏe và dinh dưỡng Họ thường xuyên cập nhật kiến thức tại các bệnh viện tuyến trên để nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc.
Lãnh đạo bệnh viện và các khoa phòng luôn chú trọng đến công tác chăm sóc người bệnh, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ Họ tập trung vào việc phát huy và xây dựng quy trình cơ bản, đồng thời quản lý hiệu quả để đảm bảo sự hài lòng của bệnh nhân.
Người bệnh nhận được sự chăm sóc theo quy trình chuẩn với sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận, đảm bảo phối hợp hiệu quả giữa bác sĩ và điều dưỡng Kết quả chăm sóc người bệnh ngày càng tiến triển tích cực, không xảy ra biến chứng bất thường.
Công tác tư vấn và chăm sóc sức khỏe sau khi ra viện cho người bệnh đang được chú trọng, với những tiến triển đáng ghi nhận từ đội ngũ nhân viên y tế tại Trung tâm.
- Công tác chăm sóc về dinh dưỡng người bệnh bước đầu hình thành, được định hướng đúng, phát triển bước đầu, đã có tính hệ thống và chuyên nghiệp
- Người bệnh được hướng dẫn chế độ tập luyện hợp lý theo thời gian và tình trạng sức của người bệnh
Những ngày sau phẫu thuật, việc phối hợp chặt chẽ giữa bác sĩ và điều dưỡng là rất quan trọng Cần bổ sung các biện pháp giảm đau hiệu quả cho bệnh nhân và xây dựng quy trình chăm sóc chuẩn mực Đồng thời, sự phối hợp chuyên môn với chuyên khoa gây mê hồi sức trong 24 giờ đầu sau phẫu thuật là bắt buộc để đảm bảo an toàn và hiệu quả cho người bệnh.
Người bệnh chưa nhận được sự chăm sóc toàn diện do hạn chế về cơ sở hạ tầng và nhân lực, cùng với việc thiếu sự phối hợp giữa các chuyên khoa Hiện tại, quá trình chăm sóc người bệnh chủ yếu phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ gia đình.
Hiện nay, dinh dưỡng cho người bệnh chủ yếu do gia đình tự đảm nhận, vì bệnh viện chưa đủ điều kiện cơ sở vật chất để cung cấp khẩu phần ăn cho bệnh nhân.
- Kỹ năng tư vấn giáo dục sức khỏe chưa tốt, chưa chuyên nghiệp, còn chung chung, nhiệm vụ chủ yếu được dành cho bác sỹ điều trị
Vấn đề chống nhiễm khuẩn chéo và nhiễm khuẩn bệnh viện hiện vẫn chưa được chú trọng đầy đủ Công tác chăm sóc để ngăn ngừa nhiễm trùng cơ hội cũng chưa được đề cập trong quy trình chăm sóc, dẫn đến những rủi ro cho bệnh nhân.
Lực lượng điều dưỡng hiện tại còn thiếu, trong khi số lượng bệnh nhân ngày càng đông, dẫn đến việc không đủ thời gian để theo dõi sát sao các dấu hiệu sinh tồn và cung cấp chăm sóc toàn diện cho người bệnh.
- Điều dưỡng cần bổ sung thêm các khóa học đào tạo giáo dục sức khỏe cho người bệnh một cách bài bản
Giải pháp
Dựa trên những ưu nhược điểm của cơ sở, tôi đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ và cải thiện công tác chăm sóc người bệnh.
Xây dựng một quy trình chăm sóc toàn diện cho người bệnh là rất quan trọng, bao gồm việc chuẩn bị cơ sở vật chất và nhân lực một cách chu đáo Quy trình này cần được phát triển một cách hệ thống và chuyên nghiệp để đảm bảo chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
2 Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho Điều dưỡng bằng các khóa học chuyên khoa để có đủ kiến thức chăm sóc, tư vấn chuyên sâu
3 Thường xuyên kiểm tra, đánh giá quy trình điều dưỡng Cần có chế độ khen thưởng thích hợp để khích lệ tinh thần làm việc của nhân viên
Dinh dưỡng cần được xây dựng dựa trên suất ăn của người bệnh, nhằm đảm bảo sức khỏe tối ưu Khi bệnh nhân xuất viện, cần nhắc nhở họ tái khám định kỳ Đồng thời, chú trọng đến công tác giáo dục và tư vấn sức khỏe, phòng bệnh, cũng như phát hiện bệnh sớm để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe.