1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

TIỂU LUẬN văn học tìm hiểu ba tiểu thuyết bến không chồng, ăn mày dĩ vãng, nỗi buồn chiến tranh

44 55 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm Hiểu Ba Tiểu Thuyết: Bến Không Chồng, Ăn Mày Dĩ Vãng, Nỗi Buồn Chiến Tranh
Thể loại tiểu luận
Định dạng
Số trang 44
Dung lượng 269,5 KB

Cấu trúc

  • 1. Tiền đề đổi mới (3)
  • 2. Tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975 (5)
  • II. Những đổi mới về nội dung (8)
    • 1. Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh (8)
    • 2. Cái nhìn đa chiều về con người (13)
  • III. Những cách tân về nghệ thuật (29)
    • 1. Điểm nhìn trần thuật (29)
    • 2. Thủ pháp đồng hiện và kết cấu dòng ý thức (29)
    • 3. Hiện tượng phân rã cốt truyện (33)
    • 4. Thủ pháp huyền thoại hóa (36)
  • KẾT LUẬN (42)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (44)

Nội dung

a. Đất nước từ chiến tranh chuyển sang cuộc sống hòa bình Năm 1975 là một mốc son lịch sử đánh dấu một thời kì mới của đất nước. Chiến tranh đã đi qua và đất nước bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Văn học cũng như nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác đứng trước yêu cầu đổi mới để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh từ cuộc sống sau chiến tranh và phù hợp với sự phát triển của ý thức và trình độ thẩm mĩ trong tiếp nhận văn học. Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp nối nhau: + Từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến + Từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện. Sau chiến tranh, cuộc sống con người hiện ra nguyên vẹn với những phức tạp, bộn bề của nó. Nói như Nguyễn Minh Châu: “Thời kì sau 1975 diễn ra sự đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi rớt bên trong tâm hồn mỗi con người. Giờ đây, mọi thứ không còn giản đơn, đồng nhất như trước mà có sự đan cài giữa thiện và ác, tốt và xấu, trắng và đen”. Đây chính là mảnh đất màu mỡ thu hút sự khám phá của các nhà văn. b. Đại hội VI của Đảng và nghị quyết 05 của Bộ chính trị Đại hội VI với nghị quyết trung ương V đã mang lại không khí dân chủ, thổi một luồng sinh khí mới cho văn học. Theo đó, người cầm bút cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Những điều này tạo một cú hích cho sự chuyển hướng của văn học. Đây chính là giai đoạn chuyển mình của văn học: một mặt bảo tồn tinh hoa văn học truyền thống, mặt khác, văn học “tự xé rách” mình đi, từng bước trăn trở, thể nghiệm, đáp ứng nhu cầu của xã hội sau chiến tranh đồng thời để khẳng định mình trong xu thế hội nhập với văn học thế giới.

Tiền đề đổi mới

a Đất nước từ chiến tranh chuyển sang cuộc sống hòa bình

Năm 1975 đánh dấu một giai đoạn lịch sử quan trọng cho đất nước, khi chiến tranh kết thúc và đất nước bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Văn học, cùng với nhiều lĩnh vực khác trong xã hội, phải đối mặt với yêu cầu đổi mới để thích ứng với những vấn đề mới phát sinh từ cuộc sống hậu chiến, đồng thời phù hợp với sự phát triển của ý thức và trình độ thẩm mỹ trong tiếp nhận văn học.

Quá trình phát triển của văn học Việt Nam sau 1975 có thể chia ra làm hai chặng đường tiếp nối nhau:

+ Từ 1975 đến 1985 là chặng đường có tính chất chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến

+ Từ 1986 trở đi, văn học chính thức bước vào giai đoạn đổi mới một cách toàn diện.

Sau chiến tranh, cuộc sống con người trở nên phức tạp với sự đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn Đại hội VI của Đảng và nghị quyết 05 của Bộ chính trị đã mang lại không khí dân chủ, khuyến khích các nhà văn nhìn thẳng vào sự thật và đánh giá đúng thực tế Giai đoạn này đánh dấu sự chuyển mình của văn học, vừa bảo tồn tinh hoa văn học truyền thống, vừa khám phá và thể nghiệm để đáp ứng nhu cầu xã hội sau chiến tranh, đồng thời khẳng định vị thế trong xu thế hội nhập quốc tế.

Văn học thế giới phát triển đa dạng với nhiều học thuyết ảnh hưởng sâu sắc đến văn học nói chung và văn học Việt Nam nói riêng Các tác phẩm như "Tác phẩm văn học" của Roman Ingarden, "Trên đường đến với ngôn ngữ" của Martin Heidegger, và lý thuyết phân tâm học của Sigmund Freud, cùng với trào lưu chủ nghĩa hậu hiện đại, đã góp phần định hình tư duy và phong cách sáng tác trong lĩnh vực văn học.

Trong hơn mười thế kỷ văn học trung đại, giao lưu văn học của Việt Nam chủ yếu chỉ giới hạn với Trung Quốc, thiếu sự tiếp xúc với văn học toàn cầu Ngày nay, văn học Việt Nam đã mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu những tinh hoa và thành tựu từ bên ngoài để không ngừng sáng tạo và làm mới mình Qua việc tiếp thu có chọn lọc, văn học Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ với sự xuất hiện của nhiều tác giả độc đáo như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái và các cây bút nữ nổi bật như Trần Thùy Mai, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Lê Minh Khuê.

Từ năm 1975, sự mở cửa và hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển đa dạng của xã hội Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học Qua thời gian, sự đổi mới trong văn học không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa Việt Nam mà còn khẳng định vị thế của nó trong giao lưu quốc tế Đồng thời, sự phát triển của ý thức và trình độ thẩm mỹ trong việc tiếp nhận văn học cũng ngày càng được nâng cao, góp phần làm phong phú thêm đời sống văn hóa.

Từ sau 1975, văn học Việt Nam đã phải thích nghi với một đối tượng độc giả mới có trình độ văn hóa cao hơn và khả năng cảm thụ tinh tế hơn Nhiều người tìm đến văn học như một hành trình tự khám phá bản thân qua những trải nghiệm sống, trong khi một số khác muốn hiểu rõ hơn về những xung đột giữa cá nhân và xã hội Điều này thúc đẩy văn học phải có sự bứt phá và thay đổi từ bên trong, buộc các nhà văn phải đổi mới phong cách viết để đáp ứng thị hiếu thẩm mỹ của độc giả hiện đại.

Trong bối cảnh chiến tranh, con người luôn sống trong nỗi lo sợ giữa sự sống và cái chết, không có thời gian để suy ngẫm Các tác phẩm văn học thời kỳ này phải phản ánh thực trạng xã hội, phục vụ cho cuộc đấu tranh giữ nước, đồng thời truyền tải động lực và niềm tin cách mạng, góp phần vào thắng lợi cuối cùng.

Sau chiến tranh, con người bắt đầu nhìn nhận lại bản thân và cuộc sống xung quanh, với mục tiêu sống thật và hoàn thiện hơn Nhiều tác phẩm văn học như "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp, "Thời xa vắng" của Lê Lựu, và "Mùa lá rụng trong vườn" của Ma Văn Kháng đã ra đời, phân tích sâu sắc bản chất nội tại của con người, thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và đông đảo độc giả.

Giát, Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Thư gửi mẹ Âu Cơ (Y Ban)….

Tiểu thuyết viết về chiến tranh trước và sau 1975

Trước năm 1975, đặc biệt trong giai đoạn 1930 – 1945, nhóm Tự lực văn đoàn đã đóng góp quan trọng vào việc hình thành và phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam theo hướng hiện đại hóa.

Sau cách mạng tháng Tám, tiểu thuyết Việt Nam chỉ thực sự phát triển vào những năm 1950, đặc biệt là thể loại tiểu thuyết về chiến tranh Những tác phẩm nổi bật trong giai đoạn này bao gồm "Xung kích" của Nguyễn Đình Thi, "Đất nước đứng lên" của Nguyên Ngọc, "Một chuyện chép ở bệnh viện" của Bùi Đức Ái, "Trước giờ nổ súng" của Lê Khâm, "Cao điểm cuối cùng" của Hữu Mai, và "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng.

Trong kháng chiến chống Mĩ, có những tiểu thuyết được ghi nhận như Vào lửa,

Mặt trận trên cao (Nguyễn Đình Thi), Cửa sông, Dấu chân người lính (Nguyễn Minh

Châu), Vùng trời (Hữu Mai)….

Trong ba mươi năm qua, tiểu thuyết chủ yếu tập trung vào vấn đề chiến tranh, phản ánh những khía cạnh sâu sắc và sôi động của thực tế cuộc sống Văn học thời kỳ này phát triển dưới sự chi phối của hoàn cảnh lịch sử và lãnh đạo của Đảng, với các tác phẩm mang tính sử thi và lãng mạn, nhằm cổ vũ và động viên tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm Những tác phẩm chiến tranh không chỉ phản ánh tình cảm lớn lao của thời đại mà còn tôn vinh vẻ đẹp, sự anh hùng và cao cả trong cuộc chiến Sứ mệnh của các nghệ sĩ trong thời kỳ này được đề cao, biến họ thành những chiến sĩ nghệ thuật, và sự thành công của tiểu thuyết viết về chiến tranh chính là thành công chung của văn học thời kỳ này.

Một số nhà văn không chỉ ngợi ca mà còn phản ánh hiện thực qua việc xây dựng nhân vật với tính mâu thuẫn, bao gồm cả những anh hùng đại diện cho phẩm chất cộng đồng và những nhân vật tiêu cực, yếu hèn, phản bội Tuy nhiên, nhiều tác giả vẫn chưa nhận thức rõ về cảm hứng phê phán trong tác phẩm của mình Các nhân vật thường trải qua quá trình tự vấn và tự đấu tranh, cuối cùng trở về với đồng đội, cuộc chiến đấu và tìm lại bản thân.

Tiểu thuyết thời kỳ này, mặc dù có những điểm mạnh ban đầu, vẫn tồn tại một số điểm yếu đáng chú ý Là thể loại phản ánh hiện thực hiệu quả nhất, tiểu thuyết chưa phát huy hết ưu thế của mình do hoàn cảnh chiến tranh Hiện thực và con người trong tác phẩm chưa được thể hiện trong mối quan hệ phong phú, mà chủ yếu tập trung vào ý thức trách nhiệm công dân và mối quan hệ với cộng đồng, thiếu vắng hình ảnh con người cụ thể và cá nhân Các nhà văn thường nhìn nhận chiến tranh qua lăng kính hào hùng và chiến thắng, mà chưa phản ánh đầy đủ những mặt trái và tổn thất do chiến tranh gây ra Kết quả là, bức tranh về đời sống con người trở nên phiến diện và một chiều.

Văn học theo khuynh hướng sử thi và lãng mạn đã khiến đề tài trở nên hạn chế, làm cho các nhà văn không thể thể hiện hết khả năng sáng tạo của mình Hệ quả là sự đơn điệu trong cá tính và phong cách của họ trở nên rõ rệt.

Những hạn chế trong tiểu thuyết viết về chiến tranh trước 1975 là điều không thể tránh khỏi, nhưng không thể phủ nhận những thành tựu mà chúng mang lại Những tác phẩm này đóng vai trò quan trọng, cung cấp nền tảng tư liệu quý giá cho các tiểu thuyết viết về chiến tranh sau 1975 và góp phần vào sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung.

Quá trình đổi mới văn học từ năm 1975, đặc biệt là sau năm 1986, đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của văn xuôi, trong đó tiểu thuyết nổi bật như thể loại chủ đạo, thể hiện rõ ưu thế của mình trong cách thể hiện nội dung và cảm xúc.

"Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật" là những nguyên tắc cốt lõi phản ánh những vấn đề quan trọng trong đời sống xã hội và vận mệnh con người, đồng thời đáp ứng nhu cầu cấp bách của công chúng hiện nay.

Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới, chủ đề chiến tranh vẫn được khai thác theo hướng sử thi và lãng mạn, thể hiện rõ qua các tiểu thuyết như "Đất trắng" của Nguyễn Trọng Oánh, "Đất Miền Đông" của Nam Hà và "Người cùng quê" của Phan Tứ.

Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật” từ nghị quyết trung ương V của đại hội Đảng lần thứ VI, các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng kể Nổi bật trong số đó là các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Quang Lập, Bảo Ninh, Dương Hướng, Chu Lai và Nguyễn Khắc Trường, thể hiện sự đổi mới trong tư duy sáng tạo và phản ánh sâu sắc thực tiễn xã hội.

Tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã chuyển từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, với cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca đến chiêm nghiệm Thay vì nhìn nhận một cách đơn giản thiện – ác hay bạn – thù, tác phẩm phản ánh một cách đa chiều và phức tạp về hiện thực và số phận con người trong và sau chiến tranh.

Các tác giả tiểu thuyết đã khắc họa con người như những cá thể bình thường trong những hoàn cảnh sống khác nhau, thể hiện bi kịch cá nhân của họ sau chiến tranh Nhân vật trong tiểu thuyết mang nhiều mảnh đời với những "vết dập xóa" trong tâm hồn Với cái nhìn đa chiều, các nhà văn khám phá những góc khuất và nỗi đau mà chiến tranh để lại, những mất mát không thể phai mờ theo thời gian.

Các nhà văn không chỉ đổi mới nội dung mà còn khám phá nghệ thuật qua các khía cạnh như điểm nhìn trần thuật, thời gian trần thuật, kết cấu và giọng điệu trần thuật Chúng tôi sẽ làm rõ những yếu tố này qua ba tiểu thuyết nổi bật về đề tài chiến tranh, trong đó có tác phẩm "Bến không chồng" của Dương.

Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)…

Những đổi mới về nội dung

Cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh

Sau năm 1975, xã hội Việt Nam chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, đánh dấu sự trở lại với cuộc sống bình thường Sự thay đổi trong hoàn cảnh lịch sử đã dẫn đến sự thay đổi trong nhận thức về thực tại cuộc sống và con người Các nhà văn, với quan niệm mới mẻ về hiện thực, đã thể hiện sự nhận thức đa dạng và sâu sắc về cuộc sống, đặc biệt là con người trong và sau chiến tranh Hiện thực chiến tranh không chỉ là những năm tháng hào hùng mà còn chứa đựng nhiều mảng màu tối, như đau thương, mất mát và yếu đuối.

Trong "Nỗi buồn chiến tranh", chiến tranh hiện lên qua hồi ức của Kiên không chỉ là những năm tháng chiến đấu dũng cảm mà còn là những cảnh tang thương, chết chóc với hình ảnh “máu tung xối, chảy tóc” và những thân thể dập vỡ Chiến tranh mang đến những thất bại, kẻ đào ngũ, và cái chết bi thương của đồng đội như Từ, Oanh, Thịnh và những cô gái giao liên trẻ tuổi Những bóng ma đơn độc, lạc lõng, cùng tiếng cười ghê rợn ám ảnh không nguôi, và có những người chết không được một nấm mồ, hồn mãi lang thang, biến thành ma cà rồng đi hút máu người "Nỗi buồn chiến tranh" khắc họa một thực tế đầy rẫy hình ảnh ám ảnh về cái chết, khiến người đọc cảm nhận rõ ràng nỗi đau và sự tàn khốc của chiến tranh.

Trong tác phẩm, cái chết được mô tả một cách ám ảnh với hình ảnh “đống giẻ nát nhừ vắt mình trên bờ công sự” (tr.90), phản ánh sự tàn khốc của chiến tranh Những cái chết dồn dập trong tâm trí nhân vật Kiên, đặc biệt là trong trận Plây-Cần năm 1972, nơi “thây người la liệt” và “máu tới bụng chân” (tr.23) Từ đó, không khí của cuốn tiểu thuyết trở nên nặng nề với “bầu không khí của những khu rừng tăm tối, ngùn ngụt tử khí và lam chướng” (tr.93), nơi những di vật và bộ xương mũn nát được vớt lên từ đáy rừng cây, tạo nên một bức tranh kinh hoàng về chiến tranh.

Trong bối cảnh sinh tử ác liệt, người lính không chỉ phải chiến đấu mà còn phải đối mặt với những thiếu thốn và khó khăn tột cùng Họ phải chịu đựng bệnh tật khủng khiếp và nỗi đói triền miên, khiến cuộc sống trở nên khắc nghiệt Khẩu phần lương thực giảm sút nhanh chóng, giống như nước trong bình đập vỡ đáy, khiến họ khổ sở vì đói và sốt rét Tình trạng sức khỏe suy yếu, quần áo rách nát, và những vết thương lở loét khiến cho hình ảnh của họ trở nên tồi tệ, không còn ai nhận ra bộ dạng của những người lính can đảm này.

Trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn, những chấn động tâm lý là điều không thể tránh khỏi đối với người lính Can đã chia sẻ với Kiên rằng: “Tôi không sợ chết, nhưng việc liên tục bắn giết như thế này sẽ làm hủy hoại nhân tính của con người.”

Dạo này đêm nào tôi cũng mộng thấy mình chết và tôi bơi ra khỏi xác và xác biến thành con ma cà rồng đi hút máu người”.

Chiến tranh luôn gắn liền với hy sinh và cái chết, và chỉ những người trực tiếp tham gia mới hiểu được nỗi đau này Theo thời gian, những ký ức đau thương đã ăn sâu vào tâm trí Kiên, trở thành một phần không thể tách rời trong cuộc sống của anh Những hồn ma từ quá khứ vẫn âm thầm ám ảnh, kéo dài nỗi buồn của chiến tranh trong tâm hồn anh.

Bảo Ninh là nơi tái hiện chân thực nỗi buồn của chiến tranh, từ lo lắng đến những phút yếu đuối của người lính Nhà văn mô tả chiến tranh như một "cõi không nhà, không cửa," nơi con người phải đối mặt với sự cô đơn và khổ cực Trong những khoảnh khắc yếu đuối, các chiến sĩ trong trung đội của Kiên đã khiến anh phải lặng im và cảm thông trước tiếng gọi của tuổi trẻ, phản ánh thực tế khắc nghiệt của cuộc chiến.

"Ăn mày dĩ vãng" là một tiểu thuyết chiến tranh sâu sắc, không chỉ khám phá cuộc đấu tranh giữa hai phe mà còn đào sâu vào tâm lý, tình yêu của người lính, cũng như những khía cạnh tối tăm trong thời chiến và thời bình Tác phẩm phản ánh cuộc sống của các chiến sĩ khi trở về từ chiến trường, mang đến cái nhìn toàn diện về hậu quả của chiến tranh.

Tác phẩm không chỉ ca ngợi sự dũng cảm, đức hi sinh và tình yêu của những người lính, mà còn khám phá những góc khuất trong thời chiến và thời hậu chiến Sự khác biệt này làm cho nó nổi bật so với các sáng tác cùng đề tài trước đây, vốn chỉ tập trung vào việc ngợi ca và cổ vũ sức mạnh tinh thần của dân tộc.

Hình ảnh chiến tranh được khắc họa sâu sắc qua hồi ức của nhân vật Hai Hùng, một người lính, cho thấy không chỉ sự kiên cường của các chiến sĩ mà còn những cảm xúc thầm kín và phút yếu lòng của họ Dù là anh hùng trên chiến trường, nhân vật Tám Tính vẫn mang trong mình những khát khao đời thường mãnh liệt, cho thấy họ cũng là những con người với những ham muốn tự nhiên về cuộc sống và tình yêu Hai Hùng, với hình ảnh lý tưởng, trở thành hình mẫu lý tưởng cho nhiều cô gái, nhưng cũng không tránh khỏi những cám dỗ và nỗi thất vọng trong tình yêu, minh chứng cho sự đa chiều trong tâm hồn con người giữa bối cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.

Trong chiến tranh, những sơ suất đáng tiếc có thể cướp đi sinh mạng con người một cách vô lý, như vụ nổ do quả lựu đạn tháo chốt trong túi áo Khiển, làm tan hoang một vùng đất và lấy đi mạng sống của một người lính Những cái chết khủng khiếp, như cái chết của cậu bé Bảo do quả đạn pháo, ám ảnh những người lính dù họ có gan dạ đến đâu Nhân vật Hai Hùng tự xem mình là kẻ ăn mày dĩ vãng, cùng đồng đội trở thành những người lạc lõng sau chiến tranh, luôn tìm kiếm quá khứ để sống Không chỉ có vậy, còn có những kẻ lợi dụng quá khứ như Địch, một sĩ quan ngụy, để trục lợi Chiến tranh kết thúc không đồng nghĩa với cái ác đã bị đẩy lùi; chúng vẫn tồn tại và đòi hỏi sự cảnh giác từ chúng ta.

Nhan đề “Ăn mày dĩ vãng” khơi gợi nhiều suy nghĩ về mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại Nó đặt ra câu hỏi về vai trò của quá khứ trong cuộc sống hiện tại và nhắc nhở chúng ta cách sống sao cho xứng đáng với những trải nghiệm đã qua.

Cuộc chiến mang đến nhiều vấn đề nhạy cảm và đau thương, ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần của người lính Do đó, trong một thời gian dài, văn học Việt Nam đã tránh né việc phản ánh thực tế khắc nghiệt của chiến tranh.

Trong bối cảnh chiến tranh khốc liệt, hậu phương cũng mang nỗi đau và sự chờ đợi Các nhà văn trước đổi mới đã khắc họa hình ảnh những người mẹ, người vợ ngóng trông con, chồng trở về với niềm hy vọng và tự hào Tuy nhiên, sau 1975, đặc biệt qua tác phẩm “Bến không chồng” của Dương Hướng, góc khuất của hậu phương được thể hiện một cách sâu sắc và trọn vẹn, phản ánh nỗi niềm và sự hy sinh của những người ở lại.

Trong thời gian dài của chiến tranh, nhiều người mẹ và vợ đã phải chịu đựng nỗi cô đơn, chờ đợi những người lính ra trận mà không bao giờ trở về Họ chôn dấu những khát khao hạnh phúc cá nhân, và theo năm tháng, nhan sắc cùng tuổi xuân của họ dần phai tàn Những “bến không chồng” trở thành biểu tượng cho nỗi đau mà chiến tranh đã gây ra cho cả dân tộc, khi hàng triệu đàn ông ra trận.

Cái nhìn đa chiều về con người

Trong bài viết "Chiến tranh" (1978), Nguyễn Minh Châu đặt ra câu hỏi về tương lai của tiểu thuyết chiến tranh sau thời kỳ kháng chiến, khi mà các vấn đề và số phận nhân vật đã được thể hiện đầy đủ Ông nhấn mạnh rằng tiểu thuyết cần tìm kiếm một góc nhìn mới, không trùng lặp với hồi ký chiến tranh, và sự lựa chọn duy nhất là viết về con người với những khía cạnh đa dạng trong cuộc sống thực Tiểu thuyết chiến tranh không thể để các sự kiện lấn át nhân vật, mà phải làm nổi bật bi kịch cá nhân trong bối cảnh dân tộc Qua thời gian, những suy nghĩ sâu sắc về số phận con người đã hình thành một loại nhân vật mới, mang diện mạo tinh thần độc đáo trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975.

Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết hậu chiến, đặc biệt được khởi nguồn từ tác phẩm Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu, đã tạo nên một hiện tượng nổi bật trong văn học Việt Nam Từ đó, cảm hứng này tiếp tục được thể hiện sâu sắc trong nhiều tác phẩm khác, giúp người đọc nhận thức lại hiện thực và suy ngẫm về cuộc sống Những tác phẩm tiêu biểu như Thời xa vắng của Lê Lựu và Mảnh đất tình yêu của Nguyễn Minh Châu đã góp phần làm phong phú thêm dòng văn học này.

Sự xuất hiện của kiểu nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh như trong "Chim én bay" của Nguyễn Trí Huân, "Bến không chồng" của Dương Hướng, "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, và "Ăn mày dĩ vãng" của Chu Lai, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong tư duy nghệ thuật tiểu thuyết Điều này không chỉ khẳng định sự đổi mới trong văn học Việt Nam hiện đại mà còn xác lập lộ trình mới cho sự phát triển của thể loại này.

Tiểu thuyết hậu chiến đã chuyển hướng khám phá người lính từ góc độ cá nhân và đời tư, thay vì xây dựng hình tượng anh hùng đại diện cho cộng đồng như trước đây Sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người đã tạo nên những thành tựu quan trọng cho văn học chiến tranh Việt Nam Người lính được khắc họa với những khía cạnh đa dạng của con người đời thường, trở nên chân thực và gần gũi hơn, đặc biệt là trong những bi kịch tinh thần Các tác phẩm như “Bến không chồng” (Dương Hướng), “Nỗi buồn chiến tranh” (Bảo Ninh), và “Ăn mày dĩ vãng” (Chu) đã thể hiện rõ nét sự chú trọng này.

Lai) chúng ta sẽ thấy rõ điều đó:

Trong tiểu thuyết “Bến không chồng”, nhân vật Nguyễn Vạn trở về làng Đông với tư cách một anh hùng, mang theo hình ảnh của một chiến sĩ Điện Biên Là một thương binh, Vạn tự hào khoe tấm huân chương lấp lánh trên ngực, biểu trưng cho quá khứ hào hùng của mình.

Nguyễn Vạn, một nhân vật nổi bật ở Điện Biên Phủ, đã trở thành thần tượng trong làng với những tấm huân chương lấp lánh trên ngực, nhưng điều khiến anh lo lắng nhất là việc mất lòng tin của dân và Đảng Dù vẻ ngoài rạng rỡ, Vạn mang trong mình di chứng của chiến tranh, sống lặng lẽ và cô đơn, sử dụng sự lãnh đạm để che giấu nỗi niềm riêng Tư duy và nếp sống thời chiến đã biến anh thành một con người cứng rắn, ngay cả tình yêu với những người phụ nữ như Nhân hay Hạnh cũng bị anh chối bỏ, coi đó là những phút giây yếu đuối không xứng đáng với phẩm chất của một chiến sĩ cách mạng.

Trong chiến tranh, những người như Vạn xả thân vì lý tưởng cao đẹp, nhưng khi trở về thời bình, Vạn trở nên lạc lõng và thậm chí là nỗi “khiếp sợ” cho dân làng Những huân chương lấp lánh trên ngực không mang lại hạnh phúc cho Vạn, mà còn khiến anh bị kết án bởi chính đứa cháu yêu thương: “Chú hèn lắm! Chú là người không có tim” Vạn mong muốn trở thành biểu tượng cho làng Đông, nhưng lại phải đối mặt với sự thờ ơ của mọi người, những người chỉ chăm chăm vào hiện tại trong khi Vạn vẫn sống mãi trong quá khứ Như Hạnh đã nhận xét, Vạn là người không ai tốt bằng nhưng cũng không ai cô đơn và khổ sở hơn.

Trong tác phẩm, nhân vật Vạn phải đối mặt với cuộc chiến nội tâm giữa lý trí và tình cảm, giữa lý tưởng và bản năng Dương Hướng đã khắc họa sâu sắc bi kịch của Vạn, người tự tách mình khỏi thế giới để trở thành “thánh nhân”, nhưng lại sống trong sự vật lộn đau đớn Nỗi khổ của Vạn xuất phát từ việc không dám sống thật với bản thân và từ chối những khao khát tự nhiên Ông liên tục đào sâu vào quá khứ để tránh né những điều tốt đẹp mà mình xứng đáng có Chỉ trong khoảnh khắc say rượu, Vạn mới dám thả mình vào tiếng gọi của bản năng, trải qua cảm xúc mãnh liệt và sự tự do tội lỗi.

Cuộc sống của Nguyễn Vạn, mặc dù có khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi, vẫn chìm trong dằn vặt và tội lỗi Sau đêm giông bão, Vạn không còn dám nhìn vào mắt ai trong làng Đông, cảm thấy xấu hổ ngay cả với trẻ nhỏ Sự tự kiểm soát và niềm tin vào những chuẩn mực đạo đức lỗi thời đã khiến Vạn không thể thoát khỏi bi kịch Tiểu thuyết Dương Hướng đặt ra câu hỏi về hạnh phúc giữa những ràng buộc cá nhân, và hạnh phúc bất ngờ đến khi Hạnh xuất hiện, nhưng Vạn không dám đánh đổi danh dự để giữ lấy nó Cuối cùng, anh đã tìm đến cái chết như một cách trốn tránh, để lại nỗi thương cảm cho dân làng Đám tang của Vạn mang ý nghĩa như một sự tiễn đưa quá khứ, phản ánh những xót xa và bất hạnh trong cuộc đời.

Bi kịch của Vạn phản ánh nỗi đau của một người không dám sống thật với bản thân, dẫn đến sự mất mát chính mình Đây là câu chuyện về sự ngộ nhận và chủ nghĩa khắc kỷ lỗi thời, với cái chết của Vạn như một lời cảnh tỉnh cho những ai chỉ biết giữ chặt quá khứ một cách máy móc Đặc biệt, nhân vật người lính trong tiểu thuyết hậu chiến thường không thể hiện bản thân trong những sự kiện ác liệt, tạo nên một bối cảnh đầy sâu sắc cho tác phẩm.

“kiểu nhân vật hành động” mà chủ yếu xuất hiện trong trạng thái suy tư, chiêm nghiệm,

Trong tiểu thuyết hậu chiến, người lính sống với thời gian hai chiều, vừa là hiện tại đối mặt với cuộc sống thường ngày, vừa là quá khứ cần được nhận thức lại Họ ý thức rõ ràng về sự tồn tại của bản thân như những người chiến thắng, nhưng cái giá của chiến thắng đôi khi khiến họ phải ngoái nhìn về quá khứ Những ký ức về chiến trường, các đồng đội, và những trải nghiệm đau thương làm sống dậy trong họ những cảm xúc về chiến thắng, mất mát, tình yêu, hận thù, cũng như sự cay đắng trước sự yếu hèn và bội phản.

Trong "Nỗi buồn chiến tranh", Kiên bị cuốn vào những hồi ức đau thương từ quá khứ, khiến anh rơi vào trạng thái bấn loạn và mộng mị Quá khứ trở thành bầu "sinh quyển" bao bọc cuộc sống của anh, với những kỷ niệm bi thảm và nỗi đau mà anh đã cố gắng quên nhưng lại dễ dàng bị gợi nhớ bởi những chi tiết tầm thường trong đời sống hàng ngày Đêm đêm, giữa giấc ngủ, anh nghe thấy tiếng chân của mình vang lên trên phố, như một lời nhắc nhở về những ký ức xa xưa Đối với Kiên, cuộc đời giống như con thuyền bơi ngược dòng, không ngừng bị đẩy trở lại quá khứ, trong khi tương lai dường như đã nằm lại phía sau.

Trong tác phẩm "Ăn mày dĩ vãng", nhân vật Tư Lan gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của mình với tên gọi Ba Sương Trong thời kỳ chiến tranh, cô không chỉ tham gia công tác cứu thương mà còn tận tâm chăm sóc cho những người xung quanh.

Ba Sương, một người lính trung kiên, đã trải qua những hoàn cảnh khắc nghiệt và đau thương trong cuộc đời mình, đặc biệt là mối tình với Hai Hùng, trung đội trưởng của trung đội trinh sát Sau khi bị địch bắt trong một lần nấp dưới hầm, Ba Sương đã bị thương nặng và mọi người tưởng cô đã chết, nhưng Hai Hùng đã liều mình cướp lại xác cô để chôn cất Sự hy sinh của cô đã khiến tên tuổi Ba Sương trở thành biểu tượng của lòng kính trọng và biết ơn, được vinh danh là đảng viên trung kiên và dự định tạc tượng Tuy nhiên, để tránh bị lật lại quá khứ đau thương, cô đã thay tên đổi họ và sống một cuộc đời mới, nhưng lại rơi vào tay tên Địch, kẻ đã lợi dụng điểm yếu của cô Cuộc sống của cô trở nên hỗn loạn với những bữa tiệc thâu đêm và những vụ tham ô Trong khi đó, Tư Lan, dù sống trong sự xa hoa, vẫn không thể thoát khỏi ám ảnh quá khứ và luôn dõi theo cuộc đời Hai Hùng, cảm thấy sự giằng xé giữa cuộc sống hiện tại và ký ức đau thương Cô đã chia sẻ nỗi khổ đau của mình với viên đại úy Tường, thể hiện sự phân ly giữa phần sống và phần chết trong tâm hồn mình.

Cuối cùng, sau khi Hai Hùng xác nhận Tư Lan chính là Ba Sương nhờ vào nốt ruồi trên ngực, cô đã quyết định gặp đại úy Tường, người đã thực hiện nguyện vọng của Hai Hợi và cứu sống cô Tuy nhiên, tên Địch đã xuất hiện và uy hiếp cô, khiến cô phải đối mặt với nỗi đau từ chấn thương năm xưa Áp lực này đã dẫn đến cái chết thực sự của cô, khép lại bi kịch trong cuộc đời cô đơn của cô.

Những cách tân về nghệ thuật

Ngày đăng: 02/09/2021, 21:04

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w