Mục đích yêu cầu nghiên cứu
- Điều tra hiện trạng rác thải sinh hoạt trên địa bàn 22 xã thị trấn của huyện Tĩnh Gia.
- Đánh giá thực trạng về quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt.
- Đề xuất một số giải pháp để quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn.
- Nắm vững cơ sở pháp lý về vấn đề quản lý chất thải rắn.
- Đánh giá đúng thực trạng công tác quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn nghiên cứu.
- Các giải pháp đưa ra đáp ứng yêu cầu của thực tế.
TỔNG QUAN 8
Tình hình phát sinh và quản lí CTR trên thế giới và Việt Nam
2.2 Tình hình phát sinh và quản lý CTR trên thế giới và Việt Nam 2.2.1 Trên thế giới a Tình hình phát sinh
Trong vài thập kỷ qua, sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy kinh tế và gia tăng dân số, dẫn đến vấn đề chất thải ô nhiễm môi trường sống trở thành thách thức lớn cho hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Vào ngày 13/08/2009, dân số thế giới đạt 6,777 tỉ người theo Cục điều tra dân số Mỹ Nếu mỗi người thải ra khoảng 0,5 kg chất thải mỗi ngày, thì tổng lượng rác thải hàng ngày lên tới khoảng 3,4 triệu tấn, dẫn đến hàng tỷ tấn rác thải được đưa vào môi trường mỗi năm.
Mức độ rác thải sinh hoạt ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào mức sống, với CHLB Nga trung bình 300 kg/người/năm, tương đương khoảng 50 triệu tấn rác mỗi năm, trong khi Pháp có lượng rác thải cao hơn, đạt 1 tấn/người/năm và tổng cộng khoảng 35 triệu tấn Đây chỉ là số liệu về rác thải sinh hoạt, chưa bao gồm lượng chất thải rắn từ quá trình sản xuất của các nhà máy chế biến thực phẩm, đồ uống, và hóa chất.
Với lượng chất thải sinh hoạt lớn hàng ngày, ngành xử lý chất thải đã thu hút nhiều công ty lớn hoạt động trên quy mô quốc gia Tại Mỹ, công ty Waste Management Inc đã chiếm lĩnh thị trường Trung Cận Đông, cùng với sự góp mặt của công ty Browning.
Feris Industris Inc operates globally, with significant presence in various countries In the UK, it collaborates with companies like Attwood PIC and Biffa (BET PLC), while in France, it partners with Cie Lyonnaise dé Eaux These partnerships generate substantial annual revenue for the company.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới vẫn đang gặp phải tình trạng rác thải không được xử lý hoặc xử lý không đạt yêu cầu, gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho môi trường.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, vấn đề xử lý rác thải, đặc biệt là rác thải sinh hoạt, trở thành một trong những thách thức lớn đối với các nước đang và chậm phát triển Tình hình quản lý rác thải hiện nay cần được cải thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững.
Hàng năm, lượng chất thải thu gom trên toàn cầu dao động từ 2,5 đến 4 tỷ tấn, không bao gồm các lĩnh vực xây dựng, khai thác mỏ và nông nghiệp Vào năm 2004, tổng lượng chất thải thu gom ước tính khoảng 1,2 tỷ tấn, chủ yếu đến từ các quốc gia OECD và các khu đô thị mới nổi cùng với các nước đang phát triển.
Bảng 2.1: Khối lượng CTR đô thị trên thế giới
Khu vực Khối lượng thu gom (triệu tấn)
Các nước thuộc tổ chức OECD 620
Cộng đồng các quốc gia độc lập 65
Châu Á (trừ các nước OECD) 300
(Nguồn: Trung tâm thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, 2007)
Quản lý chất thải là một nhiệm vụ phức tạp do sự biến động lớn về thành phần và tính chất của rác thải Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khả năng kinh tế, thói quen và công nghệ của khu vực Tùy thuộc vào tính chất của rác thải, cần lựa chọn các biện pháp phù hợp để đạt hiệu quả cao về kinh tế, xã hội và môi trường.
Cơ cấu quản lý lĩnh vực chất thải rắn của Nhật:
Sở Quản lý chất thải và tái chế
Phòng Hoạch định chính sách Đơn vị quản lý chất thải
Phòng Quản lý chất thải công nghiệp
Sơ đồ 2.1 Tổ chức quản lý CTR tại Nhật Bản
Bộ Môi trường có nhiều phòng ban, trong đó Sở Quản lý Chất thải và Tái chế đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý chất thải, thúc đẩy tái sử dụng và tái chế, đồng thời khuyến khích sử dụng tài nguyên tái tạo một cách hợp lý nhằm bảo tồn môi trường sống và tối ưu hóa nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Bộ Môi trường có tổng cộng 7 văn phòng môi trường được đặt tại các địa phương trên toàn quốc Những văn phòng này hoạt động như các chi nhánh của Bộ, đảm nhận nhiệm vụ quan trọng trong việc quản lý và bảo vệ môi trường tại từng khu vực.
- Quản lý chất thải và tái chế tại địa phương.
- Quản lý hoạt động bảo tồn môi trường.
- Bảo tồn và phát triển môi trường tự nhiên.
- Bảo vệ và quản lý đời sống hoang dã
Tại Nhật Bản, khung pháp lý quốc gia tập trung vào việc giảm thiểu chất thải và xây dựng xã hội tái chế thông qua các luật và quy định như Luật quản lý rác thải và giữ vệ sinh công cộng (1970), Luật quản lý rác thải (1992), Luật thúc đẩy sử dụng tài nguyên tái chế (1991), Luật tái chế vỏ hộp và bao bì (1996) và Luật tái chế thiết bị điện (1998) Những quy định này đã giúp Nhật Bản chuyển đổi từ hệ thống quản lý chất thải truyền thống sang mô hình xử lý nguyên liệu theo chu trình 3R (giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế).
Các hộ gia đình cần phân loại rác thải sinh hoạt thành ba loại: rác hữu cơ dễ phân hủy, rác khó tái chế và rác có thể tái chế Việc này giúp nâng cao hiệu quả thu gom và xử lý chất thải, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Rác thải được phân loại thành ba loại chính: rác hữu cơ, rác có thể tái chế và rác khó tái chế Rác hữu cơ được thu gom hàng ngày để sản xuất phân compost, trong khi rác khó tái chế sẽ được đưa đến nhà máy đốt rác để thu hồi năng lượng Các loại rác có thể tái chế phải được đựng riêng trong túi màu sắc khác nhau và mang đến điểm tập kết theo giờ quy định, dưới sự giám sát của đại diện cộng đồng Công ty vệ sinh thành phố sẽ thu gom rác theo lịch trình Nếu các hộ gia đình không phân loại rác đúng cách, họ sẽ bị phạt Đối với rác cồng kềnh như tivi, tủ lạnh hay máy giặt, cần đặt trước cổng vào ngày 15 hàng tháng để chờ xe thu gom, không được bỏ tùy tiện trên hè phố.
Sau khi thu gom rác, công ty vệ sinh xử lý rác cháy được bằng cách đưa vào lò đốt để tạo năng lượng cho máy phát điện, trong khi rác không cháy sẽ được ép nhỏ và chôn sâu trong lòng đất Phương pháp này không chỉ tận dụng nguồn rác mà còn góp phần giảm ô nhiễm môi trường Các gia đình thường phải mua túi đựng rác từ cửa hàng để thực hiện việc thu gom rác thải.
Hiện trạng CTR sinh hoạt
Tỉnh Thanh Hóa hiện có 33 đô thị, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã (Bỉm Sơn và Sầm Sơn) và 30 thị trấn Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu từ các khu dân cư, trung tâm dịch vụ, thương mại, công sở, trường học và các công trình công cộng.
2.3.2 Hiện trạng thu gom CTR sinh hoạt
Tại các đô thị lớn gồm Thành phố Thanh Hóa và 2 thị xã Bỉm Sơn và Sầm Sơn.
Bảng 2.3: Hiện trạng thu gom CTR sinh hoạt tại các đô thị lớn
TT Đô thị Dân số đô thị (người)
Khối lượng chất thải phát sinh (tấn/ngày)
Khối lượng chất thải thu gom (tấn/ngày)
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Thanh Hóa năm 2009)
Công tác thu gom chất thải rắn (CTR) ở khu vực này đã được tổ chức bài bản, với các Công ty Cổ phần môi trường đảm nhận nhiệm vụ thu gom và xử lý Hiệu suất thu gom đạt khoảng 80 - 90%, nhờ vào việc trang bị phương tiện chuyên dụng và đội ngũ công nhân lên đến hàng trăm người Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức như thiết bị và máy móc chưa đáp ứng đủ nhu cầu hiện tại, cùng với kinh phí cho công tác thu gom và vận chuyển còn hạn chế.
2.3.3 Hiện trạng xử lý CTR sinh hoạt
Hiện nay, việc xử lý chất thải tại các đô thị chủ yếu vẫn dựa vào phương pháp chôn lấp tại bãi rác lộ thiên mà không có sự kiểm soát Bên cạnh đó, một số nơi còn áp dụng biện pháp thiêu đốt thủ công để giảm thiểu khối lượng chất thải cần chôn lấp Tuy nhiên, những phương pháp này không đảm bảo an toàn cho môi trường.
Theo thống kê, khu vực đô thị hiện có 33 bãi chứa rác thải, nhưng không có bãi chôn lấp hợp vệ sinh nào Các đô thị lớn như TP Thanh Hoá, Bỉm Sơn và thị xã Sầm Sơn đã quy hoạch bãi chứa, nhưng tất cả đều đang quá tải, cần có bãi mới để tiếp nhận lượng rác thải hàng ngày Các đô thị khác cũng có bãi chứa chất thải, nhưng quy mô nhỏ hơn và không đảm bảo khoảng cách vệ sinh, an toàn, với bãi chứa gần nhất chỉ cách khu dân cư 500 mét.
Khoảng cách 1000m từ đất canh tác đến các bãi chứa chất thải, đặc biệt là ở những khu vực như Thiệu Hoá và Ngọc Lặc, có thể dẫn đến ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm trong tương lai.
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, xã hội
- Hiện trạng rác thải sinh hoạt
- Thực trạng và đánh giá công tác quản lý CTR sinh hoạt
- Đề xuất một số giải pháp để quản lý và xử lý rác CTR sinh hoạt trên địa bàn nghiên cứu.
3.3 Phương pháp thu thập và sử dụng số liệu a Phương pháp thu thập tài liệu : Thu thập số liệu từ Trung tâm QT-
BVMT tỉnh Thanh Hóa, phối hợp với phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tĩnh Gia, đã tiến hành điều tra và khảo sát thực tế về nguồn lực phát triển, tổng lượng và hiện trạng thu gom chất thải rắn Mục tiêu của nghiên cứu là cung cấp dữ liệu cần thiết để đề xuất các phương án quản lý chất thải phù hợp Ngoài ra, phương pháp phỏng vấn được thực hiện theo chỉ dẫn của cán bộ nghiên cứu, nhằm thu thập ý kiến từ các chuyên gia và nhà quản lý trong lĩnh vực này.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 22
Hiện trạng công tác thu gom, quản lí CTR sinh hoạt
4.2.1 Nguồn gốc phát sinh và thành phần
CTR sinh hoạt hàng ngày tại các khu dân cư, thôn xóm, khu du lịch, trường học và công sở phát sinh nhiều loại chất thải, bao gồm chất thải từ hộ gia đình với thành phần hỗn tạp như chất hữu cơ, kim loại, da và vải vụn Chất thải rắn từ chợ chủ yếu là rau củ quả và bao bì, trong khi chất thải đường phố bao gồm phế thải xây dựng và lá cây Tại các thị trấn và xã, tỷ lệ chất thải hữu cơ chiếm khoảng 70 - 80%, trong khi chất thải có thể tái sử dụng như giấy, gỗ, nhựa, và kim loại chỉ chiếm 5 - 10% Các chất thải vô cơ và chất trơ như sành, sứ và cao su chiếm 15 - 20%, trong đó chất thải nguy hại như ắc quy hỏng và dầu mỡ chiếm khoảng 12% - 25% tổng lượng chất thải vô cơ.
Theo thống kê của Trung tâm Kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp - Trường Đại học Xây dựng năm 2002 và dữ liệu điều tra thực địa tháng 7/2010, khối lượng chất thải rắn đô thị tại thị trấn Còng trung bình khoảng 0,5 - 0,6 kg/người/ngày, trong khi các xã khác có mức trung bình khoảng 0,2 - 0,3 kg/người/ngày Dựa trên những số liệu này, có thể ước tính lượng chất thải phát sinh tại các thị trấn và xã trong khu vực.
Bảng 4.2: Khối lượng CTR sinh hoạt phát sinh
Xã, thị trấn Dân số
Thành phần CTR (tấn/ngày-đêm) CTR hữu cơ CTR có thể tái sử dụng CTR vô cơ, chất trơ CTRNH
Thị trấn Còng có dân số 4.503, tỷ lệ tăng trưởng 2,70%, trong khi Hải Nhân với 8.853 người có tỷ lệ 2,66% Hải Hoà với 6.156 người ghi nhận tỷ lệ 1,85% Hải Thanh có 6.609 người và tỷ lệ 1,98% Nguyên Bình là địa phương đông dân nhất với 15.209 người và tỷ lệ 4,56% Bình Minh với 5.159 người có tỷ lệ 1,55%, trong khi Ninh Hải với 8.815 người có tỷ lệ 2,64% Thanh Thủy có 7.829 người với tỷ lệ 2,35% Ngọc Lĩnh và Thanh Sơn đều có dân số 6.609 và 6.099 người, với tỷ lệ lần lượt là 1,98% và 1,83% Các Sơn có 4.847 người và tỷ lệ 1,45%, trong khi Anh Sơn có 8.107 người với tỷ lệ 2,43% Hùng Sơn có 4.259 người với tỷ lệ 1,28%, Phú Lâm có 4.618 người và tỷ lệ 1,39% Phú Sơn với 3.441 người có tỷ lệ 1,03%, trong khi Định Hải có 2.949 người với tỷ lệ 0,88% Hải Lĩnh có 6.125 người với tỷ lệ 1,84%, Tân Dân có 4.857 người với tỷ lệ 1,46% Hải An với 5.545 người có tỷ lệ 1,66%, Triêu Dương có 3.561 người và tỷ lệ 1,07% Hải Ninh với 11.692 người có tỷ lệ 3,51%, và Hải Châu có 9.507 người với tỷ lệ 2,85%.
Kết luận, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt tại 22 xã, thị trấn đạt 44,96 tấn/ngày-đêm Trong đó, chất thải rắn hữu cơ dễ phân huỷ chiếm từ 31,47 đến 35,96 tấn/ngày-đêm.
Mỗi ngày, lượng chất thải vô cơ khó phân hủy dao động từ 6,743 đến 8,991 tấn, trong khi chất thải có thể tái sử dụng đạt từ 2,248 đến 4,496 tấn Bên cạnh đó, lượng chất thải rắn nguy hại cũng dao động từ 0,809 đến 2,248 tấn mỗi ngày.
4.2.3 Hiện trạng công tác phân loại, thu gom, vận chuyển CTR a Phân loại CTR
Hiện nay, tại khu vực nghiên cứu, việc phân loại CTR sinh hoạt chưa được thực hiện chính thức, mà chủ yếu dựa vào sự tự phát từ người dân, các thương lái thu mua đồng nát và những người thu gom rác Họ tận dụng các chất thải có thể tái chế như kim loại, nhựa, thủy tinh hoặc sử dụng lại cho mục đích chăn nuôi như rau và thức ăn thừa Quá trình phân loại tự phát này diễn ra từ nơi phát sinh rác cho đến nơi tập kết và xử lý, điển hình là các bãi chôn lấp.
Công ty TNHH Hồng Sơn là doanh nghiệp tư nhân duy nhất hoạt động thu gom rác thải tại địa bàn từ năm 2008, đã ký hợp đồng thu gom cho thị trấn và các khu vực dân cư lân cận thuộc 03 xã Hải Nhân, Nguyên Bình và Hải Hòa Tổng số hộ tham gia thu gom rác lên đến 1.342 hộ, trong đó thị trấn có 742 hộ đăng ký.
Tại khu vực Nguyên Bình, có 100 hộ đăng ký tham gia thu gom rác thải sinh hoạt, trong khi Hải Hòa ghi nhận 300 hộ Đối tượng tham gia chủ yếu là các hộ kinh doanh dọc tuyến QL1A, cùng với các cơ quan, trường học, chợ, khu vực công cộng và khu thương mại, dịch vụ trong thị trấn Tuy nhiên, hầu hết các xã còn lại hiện chưa có đơn vị nào tham gia vào công tác thu gom rác thải sinh hoạt trong dân.
Đơn vị thu gom rác thải hiện có 10 công nhân và 10 xe đẩy cá nhân với dung tích 660 lít mỗi xe, kèm theo các dụng cụ hỗ trợ như chổi và bảo hộ lao động, cùng 1 xe ép rác chuyên dụng Quy trình thu gom được thực hiện 2 ngày 1 lần vào lúc 17h, trong đó công nhân sẽ thu gom rác từ từng hộ gia đình trên các tuyến đường nhánh, sau đó chuyển rác về đường chính để chuyển sang xe ép rác Cuối cùng, rác thải sẽ được vận chuyển đến bãi rác của thị trấn tại chân núi Còng - Hải Nhân để xử lý.
Bãi rác rộng 0,8 ha được bao quanh bởi tường và hệ thống ống thoát nước rỉ rác, cách khu dân cư 300 m, nằm giữa đồi núi, nghĩa trang và đất canh tác Công ty TNHH Hồng Sơn áp dụng phương pháp đốt và chôn lấp để xử lý rác thải Tuy nhiên, quá trình đốt rác gây ra mùi hôi khó chịu, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và đời sống của người dân xung quanh.
Sơ đồ 4.1: Thu gom và vận chuyển CTR sinh hoạt trên địa bàn 4 xã, thị trấn
Nguồn rác thải sinh hoạt
Hộ gia đình Nhà hàng, KS Khối cơ quan
Xe thu gom rác tay Điểm hẹn
Xe ép rác chuyên dụng
Bãi chôn lấp d Các hình thức xử lý tự phát tại một số xã:
Tại xã Hải Thanh, Hải Hoà, do diện tích đất hẹp và dân cư đông đúc, lượng rác thải sinh hoạt gia tăng, người dân thường đổ ra sông Lạch Bạng và bờ biển, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Trong những ngày nắng nóng, mùi hôi thối từ rác thải bốc lên khiến người dân rất bức xúc Để giải quyết tình trạng này, vào ngày 23 hàng tháng, UBND xã Hải Thanh phát động phong trào toàn dân tham gia quét dọn và thu gom rác thải tại các khu vực bờ biển và khu dân cư, sau đó tiến hành thiêu đốt rác thải.
Xã Hải Châu hiện có hai bãi rác hở tại thôn Thanh Bình và thôn Bắc Châu, với diện tích khoảng 0,2 ha, chưa được quy hoạch và chủ yếu do người dân tự ý đổ rác Đoàn thanh niên thôn thực hiện việc thu gom rác với tần suất một lần mỗi tuần, với phí thu gom là 2 nghìn đồng/tháng/hộ Tuy nhiên, do thiếu sự quản lý từ chính quyền, việc thu gom rác tại xã Hải Châu diễn ra không đồng bộ, chỉ một số thôn lân cận và cơ sở sản xuất, nhà hàng gần bãi rác thực hiện thu gom, trong khi tình trạng vứt rác bừa bãi ra bờ kênh và bờ mương vẫn phổ biến.
Tại các xã Hải Châu, Tân Dân, Hải Ninh, Ngọc Lĩnh, Hải Thanh, cá nhân thu phí chợ có trách nhiệm quét dọn và thu gom rác thải vào cuối ngày Rác thải sau đó được đổ ra bãi đất trống phía sau khu vực chợ, được coi là phương án xử lý cuối cùng.
- Đối với các xã còn lại, rác thải được thải bỏ tuỳ tiện vào các bờ mương, bờ kênh hoặc các khu đất trống bên đường.
Tình hình thu gom rác thải tại các xã còn nhiều bất cập, chỉ khoảng 15% trong tổng số 22 xã, thị trấn ngoài khu kinh tế Nghi Sơn có công tác thu gom tập trung, trong khi 85% còn lại chưa tổ chức thu gom Bãi rác ở nông thôn hình thành tự phát, không theo quy hoạch, dẫn đến tình trạng mỗi thôn có một bãi rác, với rác thải xuất hiện ở bờ ruộng, bờ mương, bờ biển và bờ sông Rác thải được “thải bỏ” nhưng không được xử lý, và việc thiêu huỷ rác là hình thức phổ biến, gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường không khí, nước ngầm, nước mặt và đất, đồng thời làm mất mỹ quan khu vực Cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương vẫn còn lúng túng trong việc giải quyết vấn đề này.
4.2.4 Dự báo phát sinh CTR sinh hoạt trong tương lai. a Phương pháp dự báo
Phương pháp dự báo số lượng và thành phần CTR dựa trên "hệ số ô nhiễm" được áp dụng trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Tĩnh Gia, với các yếu tố ảnh hưởng như tình hình kinh tế, dân số, và mức độ ô nhiễm môi trường.
- Dân số và tốc độ tăng dân số;
Đề xuất các phương án
Các công nghệ xử lý chất thải cần hiện đại và phù hợp với điều kiện tự nhiên, văn hóa của từng xã, đặc biệt là các xã ven biển, nhằm giảm lượng CTR chôn lấp xuống dưới 15% tổng lượng chất thải rắn phát sinh Một trong những phương pháp hiệu quả đã được áp dụng là phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh.
Bãi chôn lấp là biện pháp cuối cùng trong quy trình xử lý chất thải rắn, nơi tiếp nhận tro xỉ từ quá trình đốt rác và các loại rác thải không đủ điều kiện tái chế hoặc đốt.
Một bãi chôn lấp hợp vệ sinh cần được thiết kế phù hợp với điều kiện địa chất, thủy văn và xã hội của khu vực Về mặt kỹ thuật, bãi chôn lấp phải có hệ thống thu và xử lý nước rỉ rác, thu khí và nền chống thấm hiệu quả Thời gian hoạt động của bãi rác phụ thuộc vào diện tích đất và lượng rác cần xử lý Việc trồng cây xanh trên bãi chôn lấp không chỉ giúp chống xói mòn mà còn cải thiện môi trường và cảnh quan xung quanh.
Chôn lấp là biện pháp xử lý chi phí thấp nên được áp dụng phổ biến tại các địa phương trên cả nước.
Tại các nước phát triển, số lượng bãi chôn lấp đang giảm dần nhờ vào việc áp dụng triệt để nguyên tắc 3R trong quản lý và xử lý chất thải rắn Bên cạnh đó, phương pháp đốt cũng được sử dụng rộng rãi để xử lý chất thải hiệu quả hơn.
Công nghệ xử lý CTR bằng nhiệt là phương pháp hiệu quả để giảm thiểu lượng chất thải, bao gồm CTR sinh hoạt, CTR độc hại và các chất thải khác, với khả năng giảm tới 80%-90% khối lượng và độ độc hại của chất thải trước khi chôn lấp Phương pháp này cũng cho phép tái sử dụng năng lượng nhiệt Tuy nhiên, nhược điểm bao gồm chi phí lắp đặt và vận hành cao, cần có hệ thống làm sạch khí để kiểm soát ô nhiễm không khí, và trong tro xỉ có thể chứa kim loại nặng Đặc biệt đối với chất thải nguy hại, việc áp dụng công nghệ này là cần thiết để giảm thiểu lượng chất thải cần chôn lấp Sau khi đốt, chất thải nguy hại cần được xử lý bằng các biện pháp hóa lý trước khi chôn lấp để giảm thiểu tác động đến môi trường.
Công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt An Sinh - ASC đang được triển khai tại nhà máy xử lý rác Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế Dây chuyền xử lý rác thải An Sinh - ASC bao gồm nhiều cụm công nghệ tiên tiến.
- Cụm công nghệ phân loại rác
- Cụm công nghệ xử lý hỗn hợp giàu phế thải hữu cơ
- Cụm công nghệ tinh chế phế thải dẻo
- Cụm công nghệ sản xuất nhựa dẻo tái chế
- Cụm công nghệ các bể ủ hỗn hợp hữu cơ
Cụm công nghệ tuyển tách mùn mịn và sản xuất phân hạt tạo ra các sản phẩm giá trị như mùn hữu cơ, hạt nhựa tái sinh HDPE dạng hạt, và phế thải dẻo mỏng, cùng với ống cống thoát nước.
Quy trình xử lý đa dạng giúp tận thu hầu hết các thành phần của CTR, tái chế chúng thành các sản phẩm có nhiều ứng dụng khác nhau.
32 đích, tỷ lệ lượng CTR còn lại cần xử lý bằng chôn lấp chiếm tỷ lệ nhỏ, dưới 10%.
Một số đánh giá của Hội đồng khoa học kỹ thuật, Bộ Xây dựng ngày 16/11/2005 về dây chuyền công nghệ ASC như sau:
- Thành công của dây chuyền xử lý là giảm được khối lượng chôn lấp
Công nghệ mang lại lợi ích lớn trong việc tuyển chọn và phân loại các loại CTR, đặc biệt phù hợp với tình hình hiện tại ở Việt Nam, nơi mà CTR vẫn chưa được phân loại tại nguồn.
Dây chuyền công nghệ sản xuất trong nước phù hợp với điều kiện Việt Nam, giúp xử lý CTR với chi phí thấp Các sản phẩm tái chế từ dây chuyền này đã được thị trường Việt Nam chấp nhận.
Công nghệ xử lý ASC mang lại nhiều ưu điểm về mặt công nghệ, giúp giảm lượng chất thải rắn phải chôn lấp tại Việt Nam, đặc biệt khi các sản phẩm tái chế đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường Bên cạnh đó, công nghệ Seraphin cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả xử lý chất thải.
Dây chuyền công nghệ Seraphin xử lý CTR sinh hoạt đã được áp dụng tại nhà máy xử lý rác Nghệ An, Phủ Lý.
Công nghệ này bao gồm các nhóm quá trình sau:
- Quá trình tách loại CTR thành các dòng vật chất hữu cơ, chất thải dẻo và chất vô cơ
- Quá trình xử lý rác hữu cơ theo phương pháp ủ sinh học
Quá trình xử lý chất dẻo và chất vô cơ tạo ra các sản phẩm như phân bón sinh học, hạt nhựa Seraphin và vật liệu xây dựng khối lớn.
Hiệu quả xử lý CTR đạt tỷ lệ cao, với lượng CTR cần chôn lấp chỉ chiếm dưới 15% Nhiều sản phẩm tái chế từ quá trình xử lý có khả năng thu hồi giá trị kinh tế, như phân mùn và hạt nhựa tái sinh.
Công nghệ Seraphin, được cấp bằng độc quyền sáng chế bởi Cục Sở hữu trí tuệ theo quyết định số A 8018/QĐ-ĐK vào ngày 2/11/2004, có thời hạn bảo vệ lên đến 20 năm.
- Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, công nghệ này đang được ứng dụng thử nghiệm tại huyện Hà Trung.
Công nghệ Seraphin trong xử lý CTR sinh hoạt mang lại nhiều lợi ích, trở thành giải pháp hiệu quả để giảm thiểu lượng CTR cần chôn lấp, phù hợp với điều kiện hiện tại tại Tĩnh Gia.