GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
CÁC NGHIÊN CỨU NƯỚC NGOÀI CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CBTT VÀ
Về các nghiên cứu trên thế giới trước đây có liên quan đến việc CBTT và ảnh hưởng của nó đến quyết định đầu tư trên TTCK:
Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành lược khảo các công trình nghiên cứu trước đây liên quan đến công bố thông tin (CBTT) Nghiên cứu của Carolyn Streuly (1994) đã chỉ ra ảnh hưởng của CBTT đến quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán (TTCK) Thêm vào đó, các nghiên cứu khác như của Dimitropoulos và cộng sự (2007) đã khám phá mối quan hệ giữa thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) và các chỉ số tài chính ảnh hưởng đến giá cổ phiếu của các công ty niêm yết, đặc biệt trong bối cảnh TTCK Hy Lạp.
Về các nghiên liên quan đến mức độ minh bạch và các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch trong CBTT:
Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) chỉ ra rằng các yếu tố văn hóa và sức mạnh thị trường ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tự nguyện Zarzeski (1996) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố này trong việc quyết định mức độ công khai thông tin Năm 2002, Almazan và cộng sự đã khám phá mối liên hệ giữa minh bạch thông tin và cơ cấu vốn của doanh nghiệp Hơn nữa, Assaf và Efraim (2004) đã phân tích tác động của minh bạch thông tin đối với sự phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Bartley và cộng sự (2007) chỉ ra rằng phí kiểm toán cao có liên quan đến việc gia tăng rủi ro gian lận báo cáo tài chính Kết quả thực nghiệm đã xác nhận giả thuyết này, cho thấy mối liên hệ giữa chi phí kiểm toán và nguy cơ gian lận trong báo cáo tài chính.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐÃ THỰC HIỆN Ở NƯỚC NGOÀI VỀ CBTT VÀ MINH BẠCH CBTT
Các nghiên cứu toàn cầu đã chỉ ra vai trò và ảnh hưởng của công bố thông tin (CBTT) đối với thị trường chứng khoán (TTCK) ở từng quốc gia Dưới đây là một số đánh giá khách quan về các nghiên cứu này.
Các nghiên cứu gần đây đã tiếp cận các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch và mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp một cách hệ thống và toàn diện hơn so với các nghiên cứu sơ khai.
Các nghiên cứu trước đây thường xem xét tính minh bạch ở cấp độ quốc gia, tức là từ góc độ vĩ mô Tuy nhiên, ngày nay, nhiều nghiên cứu đã chuyển hướng tập trung vào khía cạnh công ty, phản ánh sự quan tâm ngày càng tăng đến tính minh bạch trong các tổ chức.
(3) Phương pháp nghiên cứu định lượng là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong các nghiên cứu đã thực hiện.
CÁC NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CBTT VÀ TÍNH MINH BẠCH TRONG CBTT
Tại Việt Nam, có nhiều nghiên cứu tập trung vào tính minh bạch trong công bố thông tin (CBTT) của doanh nghiệp Năm 2012, tác giả Phạm Thị Hằng Nga đã công bố các bài viết nhấn mạnh tầm quan trọng của việc minh bạch thông tin, với những kết quả nghiên cứu đáng chú ý.
Lê Việt Giang (2014), đã chỉ ra các nguyên tắc công khai và minh bạch trên TTCK Việt Nam
Vào năm 2011, Dương Minh Châu đã thực hiện một nghiên cứu trong luận án Tiến sĩ để xem xét vai trò của thông tin kế toán trong đầu tư chứng khoán, tập trung vào thị trường chứng khoán Anh Quốc Đồng thời, Nguyễn Thị Hà (2006) đã phân tích nguyên tắc "công khai và minh bạch" theo yêu cầu của OECD.
Nguyễn Phúc Sinh (2008) đã nghiên cứu vai trò và tính hữu ích của báo cáo tài chính trong doanh nghiệp Việt Nam, nhấn mạnh tầm quan trọng của thông tin tài chính Tác giả phân tích thực trạng cung cấp thông tin hữu ích từ báo cáo tài chính dựa trên lý thuyết và thực tiễn kế toán quốc tế và Việt Nam Qua đó, ông đề xuất các giải pháp nhằm chuẩn hóa báo cáo tài chính và nâng cao tính hữu ích của chúng trong hoạt động doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Tạ Thanh Bình (2011) về "Hoàn thiện hệ thống công bố thông tin của công ty đại chúng trên thị trường chứng khoán Việt Nam" đã chỉ ra những thông tin cần công bố của các công ty niêm yết Nghiên cứu cũng đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hệ thống công bố thông tin của các công ty này, góp phần nâng cao tính minh bạch và hiệu quả hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nhóm tác giá Lê Trường Vinh và Hoàng Trọng (2008) có nghiên cứu về
Mô hình nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin của doanh nghiệp niêm yết theo cảm nhận của nhà đầu tư đã xác định năm biến nguyên nhân, bao gồm quy mô, lợi nhuận, nợ phải trả, tài sản cố định và vòng quay tổng tài sản Kết quả cho thấy chỉ có lợi nhuận là yếu tố tài chính đại diện có tác động đến tính minh bạch thông tin Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận và quy mô mẫu khảo sát của tác giả vẫn chưa đủ toàn diện và cần được mở rộng hơn.
Trong bài viết “Minh bạch thông tin – Yêu cầu thực tiễn và mức độ đáp ứng”, tác giả Lâm Thị Hồng Hoa đã chỉ ra 7 nguyên nhân chính gây ra sự thiếu minh bạch thông tin, bao gồm việc chỉ công khai những điều tốt đẹp và giấu kín những vấn đề xấu, lạm dụng quan niệm giữ bí mật trong kinh doanh, năng lực quản trị yếu kém, tâm lý ngại thay đổi, cũng như sự thiếu hụt trong việc xây dựng các chính sách phù hợp Bên cạnh đó, việc chưa có hệ thống chỉ tiêu kiểm chứng thông tin và hoạt động kiểm toán chưa thực sự hiệu quả cũng là những yếu tố góp phần vào tình trạng này Từ việc phân tích các nguyên nhân, tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm cải thiện tính minh bạch thông tin.
Nguyễn Thúy Anh (2012) trong nghiên cứu “Minh bạch hóa thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế” đã đề cập đến vấn đề minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu áp dụng phương pháp định tính, dẫn đến việc các kết luận chưa được chứng minh một cách toàn diện và thuyết phục, do chỉ sử dụng một số trường hợp điển hình để phân tích mức độ minh bạch thông tin còn yếu kém.
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Hùng (2010) về hệ thống kiểm soát sự minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết tại Việt Nam đã chỉ ra rằng hệ thống này bao gồm 6 thành phần chính: hệ thống chuẩn mực kế toán, quy định công bố báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ, ban giám đốc, ban kiểm soát và kiểm toán độc lập Mặc dù tác giả đã thực hiện thống kê mô tả về các biến đại diện, nhưng chưa làm rõ mối quan hệ giữa các nhân tố trong nghiên cứu và chưa xác định được mức độ ảnh hưởng của chúng đến sự minh bạch thông tin.
Nghiên cứu của Lê Thị Mỹ Hạnh (2015) chỉ ra rằng các yếu tố tài chính như đòn bẩy tài chính, lợi nhuận và công ty kiểm toán có tác động đến tính minh bạch thông tin tài chính của các công ty niêm yết Bên cạnh đó, cơ cấu Hội đồng Quản trị, được đo bằng tỷ lệ giám đốc điều hành không tham gia vào Hội đồng Quản trị, cũng ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin tài chính của các công ty này.
ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG NGHIÊN CỨU ĐÃ THỰC HIỆN
Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời muộn hơn so với các thị trường trong và ngoài khu vực, nhưng các nghiên cứu tại đây vẫn mang lại cái nhìn tổng quan về tính ứng dụng trong đầu tư và kiểm soát rủi ro Dưới đây là một số đánh giá về các nghiên cứu liên quan trong nước.
(1) Các nghiên cứu đã đƣa ra đƣợc bức tranh tổng quát về tình hình CBTT và TTTC của các CTNY
(2) Đƣa ra đƣợc các đánh giá về mức độ và tính minh bạch trong CBTT và TTTC hiện nay của các CTNY
(3) Đề ra một số giải pháp cho sự phát triển trong hệ thống CBTT của các CTNY
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu đều còn tồn tại một số hạn chế nhƣ:
(1) Các nghiên cứu còn chƣa đi sâu vào minh bạch thông tin mà chủ yếu nghiên cứu về thông tin một cách riêng lẻ
Cỡ mẫu trong hầu hết các nghiên cứu hiện nay còn hạn chế và chưa đầy đủ, chủ yếu chỉ dừng lại ở việc thống kê và mô tả hiện tượng Điều này dẫn đến việc chưa xác định được mối tương quan cũng như mức độ ảnh hưởng giữa các yếu tố tác động đến tính minh bạch thông tin.
Đa số các nghiên cứu hiện nay chỉ tập trung vào công bố thông tin (CBTT) hoặc tính minh bạch của thông tin, trong khi rất ít nghiên cứu khám phá mối liên hệ giữa CBTT và tính minh bạch của nó.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Nghiên cứu về sự minh bạch thông tin trên toàn cầu và tại Việt Nam cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch trong việc công bố thông tin Các tác giả quốc tế chủ yếu xem xét các yếu tố này qua nhiều quốc gia, trong khi nghiên cứu sâu về một thị trường cụ thể còn hạn chế Hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp định lượng, trong khi phương pháp định tính để khám phá các yếu tố mới vẫn chưa được khai thác đầy đủ.
Nghiên cứu trong nước chủ yếu tập trung vào tính minh bạch thông tin của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và tăng cường niềm tin của các bên liên quan.
Nghiên cứu về mức độ minh bạch trong công bố thông tin của công ty niêm yết (CTNY) tại Việt Nam chủ yếu dựa trên phương pháp định tính, với rất ít nghiên cứu định lượng Qua tổng hợp các nghiên cứu trước đây, có thể thấy rằng có sự thiếu hụt trong việc khảo sát tác động của các yếu tố đến mức độ minh bạch thông tin Đặc biệt, các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của các nhân tố đến minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán (TTCK) còn hạn chế Hơn nữa, việc đánh giá mức độ minh bạch thông tin từ góc độ cảm nhận của nhà đầu tư thường mang tính chủ quan, ảnh hưởng đến tính ứng dụng của nghiên cứu Dựa trên các kết quả nghiên cứu toàn cầu, đặc biệt là mô hình của Robert Bushman và cộng sự, cần thiết phải có thêm những nghiên cứu định lượng để làm rõ mức độ công bố và tính minh bạch thông tin trong bối cảnh CTNY tại Việt Nam.
Nghiên cứu sẽ điều chỉnh và áp dụng các phương pháp từ Archambault (2003) và Cheung cùng cộng sự (2005) để phù hợp với đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam Chương tiếp theo sẽ cung cấp cái nhìn tổng quan về minh bạch thông tin công bố, bao gồm các khái niệm và tiêu chí đo lường Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ phân tích các yếu tố trong mô hình và trình bày lý thuyết nền làm cơ sở cho sự lựa chọn các yếu tố này.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA MINH BẠCH TRONG CÔNG BỐ THÔNG TIN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT
TỔNG QUAN VỀ CBTT VÀ SỰ MINH BẠCH TRONG CBTT
2.1.1 Khái niệm và quy định chung về CBTT:
Theo định nghĩa của Saga, công bố thông tin (Disclosure) là việc cung cấp thông tin liên quan đến doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư Để được niêm yết, doanh nghiệp phải tuân thủ các yêu cầu công bố thông tin theo quy định pháp luật, đảm bảo công bằng thông tin cho tất cả mọi người, bao gồm cả tin tốt và tin xấu Trong quá khứ, việc công bố thông tin có chọn lọc đã gây ra vấn đề nghiêm trọng cho nhà đầu tư, khi nội gián lợi dụng thông tin để tìm kiếm lợi nhuận cá nhân, gây thiệt hại cho các nhà đầu tư khác.
Từ đó, theo quan điểm của tác giả dưới góc độ của TTCK về khái niệm công bố thông tin:
Công bố thông tin là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của thị trường chứng khoán (TTCK), yêu cầu các định chế và tổ chức cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực và kịp thời về tình hình hoạt động của họ và thị trường cho công chúng đầu tư Điều này bao gồm việc thông báo mọi thông tin liên quan đến hoạt động của các tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức niêm yết và công ty đại chúng, nhằm đảm bảo tính minh bạch và hỗ trợ quyết định đầu tư của công chúng.
2.1.1.2 Quy định chung về CBTT:
Ngày 06 tháng 10 năm 2015, Bộ Tài chính đã ban hành thông tƣ số 155/2015/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán; áp dụng đối với:
Công ty đại chúng và tổ chức phát hành trái phiếu, ngoại trừ các tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu của chính quyền địa phương, đóng vai trò quan trọng trong thị trường tài chính.
- Công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, quỹ đại chúng;
- Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam;
- Nhà đầu tƣ thuộc đối tƣợng công bố thông tin theo quy định pháp luật;
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác.
Cổng thông tin doanh nghiệp giới thiệu những quy định chung về việc công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Việc công bố thông tin phải đảm bảo đầy đủ, chính xác và kịp thời theo quy định pháp luật, với đối tượng công bố chịu trách nhiệm về nội dung và bảo quản thông tin Thông tin cá nhân chỉ được công bố khi có sự đồng ý của chủ thể liên quan, bao gồm các thông tin như thẻ căn cước, số chứng minh nhân dân, địa chỉ liên lạc, số điện thoại, và tài khoản ngân hàng Khi thực hiện công bố, các đối tượng phải báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và Sở giao dịch chứng khoán nơi niêm yết, đồng thời sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt cho thông tin công bố.
Các đối tượng công bố thông tin bao gồm tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ này thông qua một người đại diện theo pháp luật hoặc một cá nhân được ủy quyền Đối với nhà đầu tư, họ có thể tự thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin hoặc ủy quyền cho các tổ chức như công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đại chúng, thành viên lưu ký, hoặc Trung tâm lưu ký chứng khoán.
Nhà đầu tư nước ngoài có trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin theo quy định của Thông tư và pháp luật chứng khoán, nhằm hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam Việc công bố thông tin của quỹ đại chúng và công ty đầu tư chứng khoán đại chúng sẽ do công ty quản lý quỹ thực hiện.
Phương tiện công bố thông tin bao gồm trang thông tin điện tử của tổ chức, Hệ thống công bố thông tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, trang thông tin điện tử của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán, và các phương tiện thông tin đại chúng khác như báo in và báo điện tử, theo quy định pháp luật.
Các công ty đại chúng thực hiện công bố thông tin (CBTT) thông qua hệ thống công ty chứng khoán, nhằm phát triển mạng lưới thông tin đến nhà đầu tư Công việc này không chỉ vì lợi ích của nhà đầu tư mà còn mang lại lợi ích cho chính các công ty chứng khoán Tại các công ty môi giới, hệ thống thông tin luôn kết nối với hệ thống CBTT của công ty đại chúng niêm yết và Sở giao dịch chứng khoán Thông tin này cũng hỗ trợ các công ty chứng khoán trong hoạt động tự doanh, tạo lập thị trường và tư vấn cho khách hàng Bên cạnh đó, việc sử dụng phương tiện thông tin đại chúng cũng là một phương thức quan trọng để thực hiện CBTT.
2.1.2 Các nguyên tắc CBTT của các công ty niêm yết:
Thông tin đóng vai trò quan trọng trong hoạt động và phát triển của thị trường chứng khoán (TTCK), ảnh hưởng đến cả nhà đầu tư và các công ty niêm yết Việc công bố thông tin (CBTT) từ các công ty đại chúng là cần thiết để nhà đầu tư hiểu rõ về công ty và các chứng khoán giao dịch, từ đó đưa ra quyết định đầu tư chính xác CBTT cần tuân thủ các nguyên tắc nhất định để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong thị trường.
2.1.2.1 Thông tin phải công bố đầy đủ và chính xác: Đây là nguyên tắc cơ bản đầu tiên của việc CBTT của các đối tƣợng thực hiện CBTT Điều này đòi hỏi tổ chức thực hiện CBTT phải tôn trọng tính trung thực vốn có của thông tin, không đƣợc xuyên tạc, bóp méo thông tin công bố hoặc có những hành vi cố ý gây hiểu nhầm thông tin Các thông tin đƣợc công bố từ công ty đại chúng, nhất là những công ty đại chúng niêm yết trên TTCK là cơ sở của hành vi mua bán chứng khoán của nhà đầu tư trên thị trường Ngược lại, những thông tin thuộc loại tin đồn sẽ có mức độ chính xác và độ tin cậy thấp nhất Do đó những nhà đầu tƣ mua bán chứng khoán theo tin đồn sẽ gánh chịu nhiều thiệt hại, rủi ro cao do mức độ tin cậy thấp của các thông tin đó
Doanh nghiệp cần tự giác công bố thông tin (CBTT) theo yêu cầu của cơ quan quản lý khi có những yếu tố không thể đoán trước ảnh hưởng đến quyết định đầu tư và giá trên thị trường chứng khoán CBTT phải được trình bày một cách rõ ràng, tránh gây hiểu nhầm hoặc đánh lừa người đọc, đồng thời không được thiếu sót Các tiêu chuẩn CBTT yêu cầu không được chứa thông tin lừa dối hoặc thông tin không đầy đủ.
Công ty đại chúng có trách nhiệm công bố thông tin định kỳ và bất thường về hoạt động kinh doanh và tài chính một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời cho cổ đông và công chúng Các công ty cũng cần công bố thông tin có khả năng ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và quyết định của nhà đầu tư Nguyên tắc là cung cấp thông tin quan trọng để nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định chính xác, nhưng thường có mâu thuẫn lợi ích giữa công ty và nhà đầu tư trong việc công bố thông tin Công ty thường không muốn tiết lộ thông tin nhạy cảm, trong khi nhà đầu tư lại cần biết càng nhiều càng tốt, dẫn đến hiện tượng thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán Do đó, thông tin công bố phải chính xác và đầy đủ, kể cả khi bất lợi cho tổ chức niêm yết, và nếu sai lệch, các bên liên quan phải chịu trách nhiệm Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán có quyền kiểm tra thông tin trước khi công bố, nhằm bảo vệ nhà đầu tư khỏi rủi ro, nhưng thực tế không thể đánh giá toàn diện chất lượng thông tin từ tất cả công ty đại chúng Vì vậy, vai trò của các chuyên gia phân tích chứng khoán, như tổ chức đầu tư và công ty định mức tín nhiệm, trở nên vô cùng quan trọng.
2.1.2.2 Thông tin phải được công bố kịp thời và liên tục:
Mục tiêu của việc công bố thông tin (CBTT) của các công ty đại chúng là cung cấp thông tin cần thiết cho nhà đầu tư, giúp họ phân tích và đưa ra quyết định đầu tư chính xác Điều này không chỉ thúc đẩy hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra ổn định mà còn đảm bảo quá trình hình thành giá cả minh bạch trên thị trường.
Việc công bố thông tin kịp thời là rất quan trọng để tránh hiểu lầm cho nhà đầu tư Nếu thông tin không được công bố đúng thời điểm, thị trường có thể bị ảnh hưởng bởi tin đồn, dẫn đến việc hình thành giá cổ phiếu không chính xác và gây thiệt hại cho nhà đầu tư Do đó, việc công bố thông tin nhanh chóng không chỉ thể hiện sự khách quan mà còn đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Ngày nay, việc công bố thông tin qua website và các phương tiện truyền thông trở thành xu thế hiện đại, giúp đảm bảo tính kịp thời và nhanh chóng trong việc phổ cập thông tin đến nhà đầu tư Nhiều quốc gia trên thế giới, như Mỹ, Úc, Hàn Quốc và Anh, đã áp dụng phương thức này để nâng cao hiệu quả và sự thuận tiện trong việc truyền tải thông tin.
2.1.2.3 Thông tin công bố cần được lập và công bố phù hợp với chuẩn mực kế toán:
CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ MINH BẠCH TRONG VIỆC
Trên toàn cầu, nhiều tác giả đã phát triển các mô hình nghiên cứu nhằm khám phá các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ và tính minh bạch của thông tin công bố, từ nhiều góc độ và phạm vi khác nhau.
(1) Mô hình nghiên cứu của Robert Bushman và cộng sự (2001):
Nhóm tác giả Robert Bushman, Joseph Piotroski, và Abbie Smith (2001) đã tiến hành phân tích về minh bạch thông tin của các công ty niêm yết, tập trung vào hai nhóm yếu tố chính: minh bạch thông tin báo cáo tài chính, bao gồm tính kịp thời, độ tin cậy và khả năng tiếp cận thông tin, cùng với minh bạch thông tin quản trị Họ cũng đã chỉ ra các thành phần ảnh hưởng đến mức độ minh bạch của công ty.
(2) Mô hình nghiên cứu của Jeffrey và Marie E Archambault (2003)
Theo nhóm tác giả, từ góc độ công ty, các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin bao gồm quyền sở hữu, tình trạng niêm yết, chính sách cổ tức, công ty kiểm toán và đòn bẩy tài chính Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy chính sách cổ tức và đòn bẩy tài chính không có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp.
Quá trình hoạt động của doanh nghiệp ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính, với các yếu tố như quy mô công ty, ngành nghề kinh doanh và doanh thu xuất khẩu Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các quyết định kinh doanh của công ty có tác động đến nhu cầu thông tin của người sử dụng báo cáo tài chính, và kết quả thu được từ nhóm tác giả phù hợp với các giả thuyết đã đặt ra.
(3) Mô hình nghiên cứu của nhóm tác giả Cheung và cộng sự (2005):
Nghiên cứu xác định hai nhóm yếu tố chính ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin và tính minh bạch thông tin, bao gồm nhóm yếu tố tài chính và nhóm yếu tố quản trị công ty.
Mô hình 5 biến tài chính ảnh hưởng đến mức độ công bố và tính minh bạch thông tin bao gồm quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, tình hình tài chính, tài sản thế chấp và hiệu quả sử dụng tài sản Bên cạnh đó, 3 biến quản trị cũng có tác động lớn đến vấn đề này, bao gồm mức độ tập trung quyền sở hữu, cơ cấu Hội đồng quản trị và quy mô của Hội đồng quản trị.
Bảng 2.2: Mô hình nghiên cứu của nhóm tác giả Cheung và cộng sự (2005)
TÍNH MINH BẠCH THÔNG TIN Đặc điểm tài chính Đặc điểm quản trị
- Quy mô công ty - Quyền sở hữu
- Đòn bẩy tài chính - Cơ cấu hội đồng quản trị
- Tình hình tài chính - Quy mô hội đồng quản trị
- Hiệu quả sử dụng tài sản
Nguồn: Kết quả nghiên cứu của Cheung và cộng sự (2005)
MỘT SỐ LÝ THUYẾT NỀN
Một số lý thuyết nền:
Ngoài những cơ sở phân tích trên, việc minh bạch thông tin cũng nhƣ CBTT tự nguyện cũng chịu ảnh hưởng bởi các lý thuyết sau:
Lý thuyết tín hiệu của Akerlof (1970) giải thích cách mà các bên nắm giữ thông tin phát tín hiệu cho thị trường Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả luôn muốn tránh việc thông tin bị hiểu sai hoặc đồn thổi, do đó họ thường công khai thông tin tài chính một cách minh bạch Việc này giúp người sử dụng báo cáo tài chính có thể đánh giá chính xác tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Lý thuyết nhu cầu vốn:
Các công ty muốn phát triển cần thu hút nguồn đầu tư bên ngoài thông qua việc tăng vốn chủ sở hữu hoặc phát hành trái phiếu Theo lý thuyết nhu cầu vốn (Choi, 1973), việc công bố thông tin tự nguyện sẽ tạo động lực cho nhà đầu tư, giúp họ có cơ sở để đầu tư vào công ty, từ đó giúp công ty huy động vốn với chi phí thấp Để thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài, doanh nghiệp cần tăng cường công bố thông tin tự nguyện và đảm bảo tính minh bạch trong thông tin của mình.
Lý thuyết chi phí đại diện:
Lý thuyết người chủ - người đại diện xuất hiện trong quản trị kinh doanh, nghiên cứu hành vi giữa chủ sở hữu vốn và người quản lý thông qua hợp đồng Chủ sở hữu quan tâm đến giá trị công ty và cổ phiếu, trong khi nhà quản trị thường ưu tiên lợi ích cá nhân hơn là lợi ích của cổ đông Sự không đồng nhất lợi ích này giữa cổ đông và giám đốc dẫn đến chi phí đại diện, một vấn đề quan trọng trong quản trị doanh nghiệp.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng:
Lý thuyết thông tin bất cân xứng lần đầu tiên xuất hiện vào những năm 1970, mô tả tình huống trên thị trường chứng khoán khi một hoặc nhiều nhà đầu tư có thông tin riêng hoặc thông tin công bố nhiều hơn so với các nhà đầu tư khác Lý thuyết này giúp giải thích việc phát tín hiệu ra thị trường và tăng cường công bố thông tin tốt, hỗ trợ nhà đầu tư phân biệt giữa chứng khoán tốt và xấu của các công ty cổ phần đại chúng Ngoài ra, nó cũng góp phần giải thích ảnh hưởng của các yếu tố như kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, tỷ suất đòn bẩy tài chính và mức độ tập trung quyền sở hữu đến tính minh bạch trong công bố thông tin của các công ty niêm yết.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết về mối quan hệ giữa các nhân tố như quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, kết quả tài chính và quy mô hội đồng quản trị tác động đến minh bạch trong công bố thông tin Việc thực hiện nghiên cứu định tính là cần thiết để xác định các nhân tố này, đồng thời cơ sở lý thuyết cũng giúp hình thành quan điểm về sự minh bạch Chương sau sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu, quy trình nghiên cứu và thang đo, sau đó xây dựng mô hình nghiên cứu và thiết lập các giả thuyết Mục tiêu cuối cùng là xây dựng phương trình hồi quy để đánh giá mức độ tác động của từng nhân tố đến tính minh bạch trong công bố thông tin.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Quy trình nghiên cứu đƣợc thực hiện nhƣ sau:
Bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu là thu thập tài liệu để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự minh bạch trong công bố thông tin (CBTT) Tác giả sẽ tổng hợp dữ liệu từ các nghiên cứu trước đó, xây dựng giả thuyết và mô hình nghiên cứu, đồng thời phát triển thang đo cho nghiên cứu.
Bước 2: Nghiên cứu tổng thể
Nghiên cứu tổng thể áp dụng phương pháp định tính nhằm khám phá và điều chỉnh các yếu tố trong mô hình Tiếp theo, dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ thị trường thứ cấp thông qua các thông tin có trong báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Bước 3: Nghiên cứu kiểm định
Nghiên cứu kiểm định được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm kiểm tra mô hình đo lường, lý thuyết và các giả thuyết liên quan Mục tiêu của nghiên cứu là đề xuất mô hình hồi quy thể hiện mối quan hệ giữa mức độ minh bạch thông tin tài chính (TTTC) và các yếu tố ảnh hưởng đến nó.
Nghiên cứu được thực hiện bằng phần mềm thống kê SPSS, sử dụng các công cụ như kiểm định KMO và Bartlett’s, kiểm định Eigenvalues, kiểm định tương quan, phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi quy để đạt được kết quả chính xác.
Trong nghiên cứu, mức độ minh bạch của việc công bố thông tin (CBTT) được đo lường qua nhiều phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu và cách tiếp cận của từng nghiên cứu Các chỉ số minh bạch, như T&D của S&P, CIFAR của IAAT hay IDTRS tại Đài Loan, thường dựa trên tiêu chí chấm điểm cụ thể Tuy nhiên, nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá mức độ minh bạch của CBTT thông qua dữ liệu từ các biến độc lập và áp dụng thang đo minh bạch dựa trên nguyên tắc quản trị công ty của OECD.
2004 gồm 6 thành phần trong lĩnh vực “CBTT và Tính minh bạch trong Quản trị công ty”, cụ thể là những thành phần sau:
Thang đo nội dung công bố thông tin yêu cầu rằng việc công bố thông tin cần bao gồm, nhưng không giới hạn, các thông tin quan trọng liên quan đến tình hình tài chính, hoạt động và sở hữu của tổ chức.
- Thang đo phản ánh sự phù hợp tiêu chuẩn chất lượng cao về công bố TTTC:
Thông tin phải đƣợc chuẩn bị và công bố phù hợp với các tiêu chuẩn chất lƣợng cao về công bố thông tin kế toán, tài chính
Kiểm toán hàng năm cần được thực hiện bởi một đơn vị kiểm toán độc lập có năng lực và chất lượng cao, nhằm đảm bảo phản ánh chính xác chất lượng của quá trình kiểm toán.
Đơn vị kiểm toán độc lập có trách nhiệm cao đối với cổ đông, cần thực hiện công tác kiểm toán một cách chuyên nghiệp và hiệu quả Sự phản ánh trách nhiệm này là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy của báo cáo tài chính.
Thang đo sự thuận tiện của công bố thông tin yêu cầu các kênh phổ biến phải đảm bảo việc tiếp cận thông tin một cách bình đẳng, kịp thời và hiệu quả về chi phí cho người sử dụng.
Khuôn khổ quản trị công ty cần được cải thiện thông qua việc áp dụng các biện pháp khuyến khích phát triển dịch vụ phân tích và tư vấn từ các tổ chức như công ty phân tích, môi giới chứng khoán và định mức tín nhiệm.
THIẾT LẬP MÔ HÌNH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH
MINH BẠCH TRONG VIỆC CBTT CỦA CÁC CTNY:
3.2.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất:
Dựa trên các mô hình nghiên cứu về tính minh bạch trong công bố thông tin (CBTT), bài viết này tham khảo các nghiên cứu trước đây của Lê Thị Mỹ Hạnh (2015) và nhóm tác giả Cheung để cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này.
Theo nghiên cứu của & cộng sự (2005), tác giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu về tính minh bạch thông tin trong các công ty niêm yết (CTNY) tại Việt Nam, với việc xem xét các yếu tố tài chính và quản trị phù hợp với môi trường kinh tế, xã hội, văn hóa địa phương Mô hình này xác định tính minh bạch công bố thông tin (CBTT) là biến phụ thuộc, trong khi các yếu tố ảnh hưởng đến tính minh bạch được xác định là các biến độc lập Cụ thể, mô hình nghiên cứu bao gồm 7 nhân tố chính ảnh hưởng đến tính minh bạch trong CBTT của các CTNY.
Hình 3.1: Mô hình các nhân tố tác đến sự minh bạch trong việc CBTT
Các nhân tố tác động trong mô hình nghiên cứu được phân tích dựa trên yêu cầu về minh bạch trong công bố thông tin Việc đảm bảo tính minh bạch là yếu tố quan trọng trong quá trình nghiên cứu và phát triển.
Quy mô công ty Đòn bẩy tài chính
Hiệu quả sử dụng tài sản
Tỷ lệ sở hữu nhà nước
Chỉ số minh bạch thông tin thuyết nền đã được xác định ở mục 2.3 Bài viết sẽ tiếp tục trình bày các định nghĩa và giả thuyết liên quan đến các biến trong mô hình, cũng như mối quan hệ giữa từng yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin của các công ty niêm yết.
3.2.2 Định nghĩa các biến và các giả thuyết trong mô hình:
Giả thuyết H0: Các biến quan sát không có liên quan với nhau trong tổng thể
Các đặc điểm tài chính ảnh hưởng đến tính minh bạch của CBTT:
(1) Nhân tố quy mô công ty:
Nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng quy mô công ty có ảnh hưởng đáng kể đến tính minh bạch thông tin và quá trình công bố báo cáo tài chính Theo Wallace và Naser (1995), quy mô công ty là mục tiêu quan trọng cho sự phát triển và tăng trưởng, khiến doanh nghiệp cần công bố nhiều thông tin hơn và đảm bảo tính minh bạch Các nghiên cứu, như của Bushman và cộng sự (2001), Archambault (2003), và Khanna và cộng sự (2004), cho rằng công ty lớn thường minh bạch hơn công ty nhỏ Tuy nhiên, nghiên cứu của Cheung và cộng sự (2005) xác nhận kết quả này tại thị trường chứng khoán Hồng Kông nhưng không áp dụng cho thị trường chứng khoán Thái Lan.
Ngoài ra, nghiên cứu của Robert Bushman & cộng sự, 2001; Archambault,
Các doanh nghiệp lớn thường thu hút nhiều nhà đầu tư hơn so với doanh nghiệp nhỏ, dẫn đến việc thông tin mà họ công bố trở nên nhạy cảm hơn và chịu sự giám sát chặt chẽ từ công chúng, nhà đầu tư và chính phủ Do đó, các báo cáo tài chính của họ thường được các nhà phân tích và chuyên gia tài chính xem xét kỹ lưỡng hơn, tạo ra sự chú ý lớn hơn đối với thông tin mà họ cung cấp.
Giả thuyết H1: Các công ty có quy mô lớn thì sẽ minh bạch hơn so với các công ty có quy mô nhỏ
(2) Nhân tố đòn bẩy tài chính:
Nghiên cứu trước đây cho thấy rằng các công ty có đòn bẩy tài chính cao thường công bố thông tin nhiều hơn so với các công ty có đòn bẩy thấp Cụ thể, nghiên cứu của Ahmed và Courtis (1999) chỉ ra rằng doanh nghiệp có đòn bẩy tài chính cao phải chịu sự giám sát chặt chẽ từ các bên liên quan Các chủ nợ yêu cầu thông tin nhiều hơn để bảo vệ lợi ích của họ, trong khi nhà quản lý cũng cung cấp thông tin để thuyết phục chủ nợ cho vay, nhằm giảm chi phí nợ vay.
Các công ty có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao thường thể hiện mức độ minh bạch trong việc công bố thông tin (CBTT) tốt hơn so với các công ty nhỏ Điều này cho thấy rằng những doanh nghiệp lớn, với khả năng tài chính mạnh mẽ, có xu hướng cung cấp thông tin rõ ràng và chi tiết hơn để đáp ứng yêu cầu của nhà đầu tư và các bên liên quan.
(3) Nhân tố kết quả tài chính:
Nghiên cứu cho thấy rằng kết quả tài chính trong quá khứ có ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tài chính (CBTT) Cụ thể, các công ty có lợi nhuận tốt thường sẵn sàng công bố thông tin cho các nhà đầu tư bên ngoài hơn so với những công ty có lợi nhuận thấp, vì nhà đầu tư ưu tiên đầu tư vào những công ty có hoạt động kinh doanh hiệu quả Điều này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu của Lang và Lundholm (1993) cũng như Khanna và cộng sự (2004).
Theo nghiên cứu của Cheung và cộng sự (2005), các công ty có lợi nhuận cao thường công bố nhiều thông tin hơn để tối ưu hóa lợi ích từ cổ đông và nhận được khen thưởng Michael Spence (1973) cũng chỉ ra rằng các công ty niêm yết với tình hình tài chính vững mạnh và kết quả kinh doanh khả quan thường chủ động công bố thông tin, giúp nhà đầu tư phân biệt giữa chứng khoán tốt và xấu, từ đó hạn chế tình trạng lựa chọn bất lợi trên thị trường chứng khoán.
Giả thuyết H3: Công ty có kết quả tài chính càng tốt thì càng minh bạch hơn trong việc CBTT
(4) Nhân tố hiệu quả sử dụng tài sản:
Các công ty có hiệu quả sử dụng tài sản cao thường có mức độ công bố thông tin cao hơn so với những công ty có hiệu quả thấp Điều này xuất phát từ việc các công ty hiệu quả sử dụng tài sản tốt hơn có khả năng tạo ra doanh thu và lợi nhuận lớn hơn, từ đó thu hút nhiều nhà đầu tư và nhà phân tích Do đó, những công ty này có xu hướng công bố thông tin một cách minh bạch hơn.
Nghiên cứu cho thấy các công ty có hiệu quả sử dụng tài sản cao thường cung cấp thông tin công khai cho nhà đầu tư bên ngoài nhiều hơn, nhằm hỗ trợ họ trong việc đưa ra quyết định đầu tư Điều này được xác nhận qua thực nghiệm của nhóm tác giả Cheung và cộng sự (2005) tại thị trường chứng khoán Hồng Kông.
Công ty có hiệu quả sử dụng tài sản cao thường có mức độ công bố thông tin cao hơn so với những công ty có hiệu quả sử dụng tài sản thấp Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn có xu hướng minh bạch hơn trong việc chia sẻ thông tin với các bên liên quan.
(5) Nhân tố công ty kiểm toán:
Nhiều nghiên cứu cho thấy nội dung báo cáo hàng năm của các công ty niêm yết có thể bị ảnh hưởng bởi quy mô của công ty kiểm toán, với hai nhóm chính là Big Four và không phải Big Four Theo kết quả nghiên cứu của Archambault (2003), các công ty được kiểm toán bởi một trong bốn công ty kiểm toán lớn thường công bố nhiều thông tin hơn và có mức độ minh bạch cao hơn so với các công ty khác.
Một số nghiên cứu cho thấy kết quả trái ngược với quan điểm phổ biến về mối quan hệ giữa quy mô công ty kiểm toán và mức độ công bố thông tin Cụ thể, Wallace (1994) không phát hiện mối liên hệ nào giữa quy mô công ty kiểm toán và mức độ công bố thông tin tại các công ty ở Tây Ban Nha Tương tự, Ahmed và Courtis (1999) cũng kết luận rằng không có mối quan hệ nào giữa quy mô công ty kiểm toán và mức độ công bố thông tin.
NGHIÊN CỨU KIỂM ĐỊNH THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƢỢNG
3.3.1 Xác định phương pháp đo lường và tính toán các yếu tố ảnh hưởng tính minh bạch CBTT của các CTNY:
Mức độ minh bạch trong công bố thông tin (CBTT) được đo lường qua biến phụ thuộc là TRANS, với 7 biến độc lập phản ánh các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch Các nhân tố này bao gồm quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, công ty kiểm toán, quy mô hội đồng quản trị và tỷ lệ sở hữu nhà nước Mỗi nhân tố được xác định qua các giả thuyết liên quan và được đo lường một cách cụ thể.
(1) Biến 1: Quy mô công ty
Biến quy mô công ty, ký hiệu là SIZE, được xác định qua ba tiêu chí chính: tổng tài sản, doanh thu và giá trị vốn hóa thị trường của công ty.
(2) Biến 2: Đòn bẩy tài chính
Biến đòn bẩy tài chính, ký hiệu là DEBT, được xác định trong nghiên cứu này thông qua tỷ lệ tổng nợ phải trả so với tổng tài sản.
(3) Biến 3: Kết quả tài chính
Biến kết quả tài chính, ký hiệu là PROFIT, được sử dụng để đo lường khả năng sinh lời của công ty Trong nghiên cứu này, tác giả đã chọn tiêu chí lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) để xác định kết quả tài chính của công ty.
(4) Biến 4: Hiệu quả sử dụng tài sản
Biến hiệu quả sử dụng tài sản (ký hiệu ASSET) là chỉ số đo lường vòng quay của tổng tài sản, phản ánh khả năng tạo ra doanh thu từ việc đầu tư vào tài sản.
(5) Biến 5: Công ty kiểm toán
Biến công ty kiểm toán, ký hiệu là AUDIT, được sử dụng để phân biệt quy mô và uy tín của các công ty kiểm toán mà các công ty niêm yết thuê để thực hiện kiểm toán độc lập Tiêu chí đánh giá dựa trên doanh thu và xếp hạng của các công ty kiểm toán trong năm 2018.
(6) Biến 6: Quy mô hội đồng quản trị
Biến quy mô HĐQT, ký hiệu là BSIZE, được định nghĩa theo nghiên cứu của Cheung và cộng sự (2005) bằng số lượng thành viên trong Hội đồng quản trị Cụ thể, nếu Hội đồng quản trị có từ 7 thành viên trở lên, giá trị của BSIZE sẽ là 1; ngược lại, nếu ít hơn 7 thành viên, giá trị sẽ là 0.
Nghiên cứu lựa chọn từ 7 thành viên trở lên cho HĐQT do yêu cầu ngày càng cao về vai trò và quy mô của HĐQT, ảnh hưởng lớn đến tính minh bạch thông tin Quy mô HĐQT lớn hơn có thể chứng minh mối quan hệ chặt chẽ giữa quy mô HĐQT và mức độ minh bạch thông tin.
(7) Biến 7: Tỷ lệ sở hữu nhà nước
Biến tỷ lệ sở hữu nhà nước (OWNER) được sử dụng để đo lường mức độ góp vốn của nhà nước vào doanh nghiệp, từ đó đánh giá ảnh hưởng của nhà nước trong các công ty nhà nước.
3.3.2 Thiết kế chương trình nghiên cứu:
Hiện nay, tại Việt Nam, sàn giao dịch chứng khoán chủ yếu là TP.HCM (HOSE) và Hà Nội (HNX) Bài luận văn này tập trung vào các công ty niêm yết trên sàn HOSE, do đây là sàn giao dịch lớn nhất và phổ biến nhất, đại diện cho thị trường chứng khoán Việt Nam Đến cuối năm 2018, sàn HOSE có 372 công ty niêm yết Để đảm bảo tính khách quan, tác giả lựa chọn các công ty có vốn hóa trên 1000 tỷ VND, loại trừ doanh nghiệp trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng, còn lại 110 công ty, trong đó có 38 công ty có vốn góp và sở hữu của nhà nước Số mẫu này đáp ứng yêu cầu về cỡ mẫu tối thiểu và phương pháp chọn mẫu thuận tiện theo nghiên cứu của De Vaus, D.A (2002).
Bảng 3.1: Bảng tóm tắt mẫu nghiên cứu
Số công ty niêm yết trên sàn HOSE 372
Số công ty có vốn hóa từ 1000 tỷ VNĐ trở lên 162
Loại các công ty không nằm trong đối tƣợng khảo sát 14
Số công ty còn lại sau khi loại trừ 148
Số công ty chọn làm mẫu 110
Số công ty có vốn góp hoặc sở hữu của nhà nước 38
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
3.3.2.2 Phương pháp và quy trình thu thập dữ liệu: Để xác định và đo lường thông tin về các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch trong CBTT của các CTNY, chúng tôi tiến hành thu thập các nhân tố tác động với số mẫu là 110 CTNY đƣợc xác định ở phần trên thông qua các số liệu đƣợc công bố trên BCTC
Nghiên cứu này nhằm xây dựng mối tương quan giữa mức độ minh bạch và các nhân tố ảnh hưởng đã đề cập, thông qua phân tích hồi quy với mức độ minh bạch là biến phụ thuộc và các nhân tố là biến độc lập Để kiểm tra tính hợp lý và ý nghĩa của các giả thuyết, nghiên cứu sẽ đánh giá mối quan hệ giữa các biến và thực hiện kiểm định dựa trên mẫu được chọn lọc từ tổng thể Phương pháp phân tích được áp dụng bao gồm phân tích thống kê hai biến và phân tích thống kê đa biến.
3.3.3.1 Đánh giá mối quan hệ giữa các biến: Để kiểm tra sự tương quan và mỗi quan hệ của hai biến trong mỗi giả thuyết, nghiên cứu sẽ dựa vào tính chất quan hệ giữa biến phụ thuộc và biến độc lập là hai biến định lƣợng – định lƣợng hay định lƣợng – định tính để lựa chọn cách phân tích phù hợp
- Đối với các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5, H6, H7, đề tài sẽ sử dụng kiểm định mối liên hệ giữa hai biến định lƣợng
3.3.3.2 Phương trình hồi quy đề xuất:
Dựa trên các giả thuyết và biến đã trình bày, tác giả đề xuất một phương trình hồi quy nhằm phản ánh mối tương quan giữa "Mức độ minh bạch trong công bố thông tin (CBTT)" và các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch CBTT của các công ty niêm yết (CTNY), với biến phụ thuộc là tính minh bạch trong CBTT.
TRANS i = α + β1SIZE it + β2DEBT it + β3PROFIT it + β4ASSET it + β5AUDIT it + β6BSIZE it + β7OWNER it + εit
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trên thế giới hiện nay, có nhiều phương pháp đo lường mức độ minh bạch trong công bố thông tin (CBTT), và cách tiếp cận sẽ phụ thuộc vào mục tiêu của từng nghiên cứu Nghiên cứu này dựa vào dữ liệu thu thập từ các biến độc lập và áp dụng thang đo mức độ minh bạch CBTT của các công ty niêm yết dựa trên nguyên tắc quản trị công ty của OECD 2004 Mô hình nghiên cứu bao gồm 7 yếu tố: quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản, công ty kiểm toán, quy mô hội đồng quản trị và tỷ lệ sở hữu nhà nước, với các giả thuyết và cách đo lường cụ thể cho từng yếu tố Kết quả nghiên cứu sẽ được xử lý bằng phần mềm SPSS, bao gồm các kiểm định như KMO và Barlett’s, kiểm định Eigenvalues, kiểm định tương quan Pearson và phân tích hồi quy, sau đó sẽ được thảo luận trong chương tiếp theo.