Khái quát về Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
Vài nét về điều kiện địa lý tự nhiên, dân cư và tình hình kinh tế xã hội
tự trị dân tộc Choang Quảng Tây:
Khu tự trị dân tộc Choang – Quảng Tây, nằm ở phía nam Trung Quốc, giáp với các tỉnh Quý Châu, Hồ Nam, Vân Nam, và Quảng Đông, đồng thời tiếp giáp với Việt Nam và vịnh Bắc Bộ Thủ phủ của khu là thành phố Nam Ninh, bao gồm 14 thành phố địa khu như Liễu Châu, Quế Lâm, và Bắc Hải Địa hình Quảng Tây có độ cao giảm dần từ tây bắc xuống đông nam, với nhiều núi đá vôi và đất dung nham, nổi bật với các dãy núi như Đại Minh Sơn và Đại Dao Sơn Khu vực trung và nam có nhiều đồng bằng và thung lũng, trong khi Vi Châu là đảo lớn nhất trong vùng biển phía nam với diện tích 28 km².
Quảng Tây có khí hậu cận nhiệt đới gió mùa với mùa hè dài, nhiệt độ cao và lượng mưa lớn, trong khi mùa đông ngắn và không quá lạnh Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 21,1°C, với tháng 7 là tháng nóng nhất (23 – 29°C) và tháng 1 là tháng lạnh nhất (6 – 14°C) Lượng mưa trung bình hàng năm đạt khoảng 1.835 mm.
Quảng Tây, với hệ thống sông ngòi phong phú và lượng mưa dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển thủy điện Hiện nay, tỉnh đang tiến hành xây dựng nhà máy thủy điện Long Thán, có công suất 5,4 triệu kW, đứng thứ hai chỉ sau công trình thủy điện Tam Hiệp Trường Giang, lớn nhất Trung Quốc.
Quảng Tây là một trong 10 khu vực khai thác kim loại màu quan trọng nhất của Trung Quốc, với trữ lượng nhôm lên đến 680 triệu tấn, phân bố tập trung và chất lượng cao, dễ khai thác Ngoài ra, trữ lượng mangan tại đây khoảng 228 triệu tấn, chiếm 39% tổng trữ lượng của cả nước Khu vực này cũng sở hữu nguồn khoáng sản phi kim phong phú, đặc biệt là đá vôi có trữ lượng lớn và chất lượng cao, cùng với các khoáng sản phi kim khác như cao lanh và đất mềm, đứng đầu cả nước.
BẢN ĐỒ KHU TỰ TRỊ DÂN TỘC CHOANG QUẢNG TÂY
Quảng Tây nổi bật với sản vật phong phú, chủ yếu là các loại cây trồng cận nhiệt đới như hoa quả, rau xanh, mía, dâu tằm và cây thuốc Với hơn 17 triệu héc ta diện tích trồng cây ăn quả, Quảng Tây dẫn đầu cả nước, chủ yếu sản xuất các loại trái cây như cam, bưởi, chuối, vải, nhãn và xoài Ngoài ra, Quảng Tây còn nằm trong top 10 vùng sản xuất đường lớn nhất thế giới với khoảng 9 triệu héc ta diện tích trồng mía.
Quảng Tây sở hữu hơn 4 triệu trâu bò, chiếm 20% tổng số trâu bò của cả nước Khu vực này có diện tích nuôi trồng thủy sản lên tới hơn 13 triệu héc ta Đồng thời, Quảng Tây là trung tâm sản xuất tùng hương và dầu thông lớn nhất Trung Quốc, đóng góp một nửa sản lượng tùng hương toàn quốc.
Hải sản cũng là nguồn thu quan trọng của Quảng Tây, trong đó nổi tiếng có ngọc trai Hợp Phố
1.2 Dân c ư : Đến cuối năm 2007, Dân số 50.020.000 người, nhân khẩu thường trú 47.680.000 người, tăng 410.000 người so với năm trước Quảng Tây là một trong năm khu tự trị dân tộc của Trung Quốc, bao gồm các dân tộc Choang, Hán, Dao,
Miêu, Động, Mao Nam, Hồi, Di, Kinh… Người Choang Quảng Tây có số dân khoảng 15 triệu người, chiếm hơn 33% dân số cả khu, chiếm 91,3% dân số người
Choang cả nước Cả năm có 710.000 trẻ sơ sinh ra đời, tỉ lệ sinh 14,19%, 300.000 người chết, tỉ lệ chết tăng 8,20%
Thu nhập bình quân đầu người của nông dân 3224 NDT/năm Tăng 16,4%, trừ nhân tố trượt giá, thực tế tăng trưởng 9%
Thu nhập bình quân đầu người của dân thành thị là 12.200 NDT/năm tăng
23,2%, trừ trượt giá thực tế tăng 16,1% [162].
B ả ng 1: Nhân khẩu thường trú và cơ cấu chủ yếu của nhân khẩu
STT Chỉ tiêu Số lượng
1 Nhân khẩu thường trú cả khu 4768 100
STT Chỉ tiêu Số lượng
Đến cuối năm 2007, tỉnh Quảng Tây đã ghi nhận sự giảm đáng kể trong số lượng dân nghèo nông thôn, với 110.000 người thoát nghèo và 250.000 người có thu nhập thấp cũng giảm Diện tích bình quân của cư dân thành thị đạt 26,6m², tăng 2,2m² (tương đương 9%) so với năm trước, trong khi diện tích cư trú bình quân của cư dân nông thôn là 30,5m², tăng 0,9m² (3,04%) so với năm trước.
Từ khi thực hiện cải cách mở cửa, kinh tế Quảng Tây đã có bước phát triển nhanh chóng Trong giai đoạn Kế hoạch 5 năm lần thứ 9 (1996 - 2000), tổng giá trị sản phẩm quốc nội khu vực tăng trưởng khoảng 8,1% mỗi năm, củng cố sức mạnh kinh tế và nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế rõ rệt Thu nhập tài chính trung bình tăng 10,5% mỗi năm, với tích lũy tài chính thực tế trong 5 năm tăng 1,14 lần Đặc biệt, tổng giá trị sản phẩm quốc nội bình quân đầu người đã đạt được mục tiêu tăng gấp 4 lần so với năm 1980 vào năm 1999, sớm hơn một năm so với kế hoạch.
Từ năm 2005, kinh tế đã tiếp tục tăng trưởng ổn định, với tổng giá trị sản phẩm quốc nội năm 2001 đạt 223,119 tỷ NDT So với năm 2000, giá trị này tăng 8,2%, và mức tăng trưởng đã cải thiện thêm 0,9% so với năm trước đó Khu vực I cũng ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn này.
Trong năm nay, tổng sản phẩm quốc nội đạt 55,621 tỷ NDT, tăng 4,2%, với khu vực II tăng 81,689 tỷ NDT (8,0%) và khu vực III tăng 85,809 tỷ NDT (11,1%) Tỷ lệ đóng góp của các khu vực I, II, III đã thay đổi từ 26,3% : 36,5% : 37,2% năm trước sang 24,9% : 36,6% : 38,5% Giá trị bình quân đầu người đạt 4,697 NDT, tăng 7,3% so với năm trước, trong khi tỷ lệ sản xuất lao động toàn xã hội đạt 8,687 NDT, tăng 7%.
Từ năm 2002 đến 2007, Quảng Tây ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng với mức tăng trưởng hàng năm luôn đạt hai con số Trong giai đoạn này, tỷ lệ đóng góp của ba khu vực kinh tế có sự biến động rõ rệt, với khu vực 2 và 3 tăng trưởng mạnh mẽ, trong khi khu vực 1 lại giảm sút Cụ thể, tỷ lệ đóng góp của ba khu vực vào GDP năm 2007 lần lượt là 8,3%, 53,5% và 38,2%.
Nguồn: http://www.stats.gov.cn (Niên giám thống kê Quảng Tây)
Năm 2007, tổng đầu tư tài sản cố định trong toàn khu đạt 297,047 tỷ NDT, tăng 32,2% so với năm trước Trong đó, đầu tư tại thành phố là 262,754 tỷ NDT, tăng 31,7%, còn ở nông thôn đạt 34,293 tỷ NDT, tăng 36,7% Đặc biệt, đầu tư tại khu vực thành thị chiếm 143,854 tỷ NDT.
Trong năm qua, đầu tư xây dựng cơ bản đạt 22,9% với tổng số 52,705 tỷ NDT, trong khi đầu tư cho đổi mới cấu tạo tăng 51,4% Đầu tư khai thác nhà đất cũng ghi nhận mức tăng 45,1%, đạt 53,667 tỷ NDT Đầu tư từ khu vực Nhà nước đạt 97,644 tỷ NDT, tăng 21,4%, trong khi đầu tư ngoài quốc doanh lên tới 165,110 tỷ NDT, tăng 38,6% Đáng chú ý, đầu tư từ nhân dân đạt 140,897 tỷ NDT, tăng 37,2% Tỷ lệ đầu tư cho các khu vực cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong nền kinh tế.
Khu vực I đầu tư 6,892 tỷ NDT tăng 40,8%
Khu vực II đầu tư 110,729 tỷ NDT tăng 33,2%
Trong đó công nghiệp đầu tư 109,429 tỷ NDT tăng 32,7%
Khu vực III đầu tư 145,132tỷ NDT tăng 30,1%
Nguồn: http://www.stats.gov.cn (Niên giám thống kê Quảng Tây)
Bảng 4 Giá trị và tốc độ đầu tư tài sản cố định của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây trong năm 2007
STT Ngành Giá trị đầu tư
4 Sản xuất và cung ứng diện, khí đốt 293,26 3,5
5 Sản xuất và cung ứng điện 269,95 1,5
7 Giao thông vận tải, kho bãi 299,76 23,4
8 Truyền thông, công nghệ thông tin 31,75 - 7,5
9 Bán sỉ và bán lẻ 46.48 37.9
13 Thuê mướn và dịch vụ 16.62 133.8
15 Quản lý thủy lợi, môi trường 255.39 17.7
18 Y tế, bảo hiểm và phúc lợi xã hội 21.2 12.7
STT Ngành Giá trị đầu tư
19 Văn hóa, thể thao và giải trí 18.03 9.3
20 Quản lý công cộng và tổ chức xã hội 84.72 30
Nguồn : http://www.stats.gov.cn (Niên giám thống kê Quảng Tây 2007)
Cả năm làm được 3884 km đường ôtô, tổng chiều dài là 94.202 km Trong đó tăng mới 334 km đường cao tốc, nâng tổng độ dài đường cao tốc lên 1879 km
Tổng dung lượng của các tổ máy phát điện nước là 6.400.000 kw, tổng dung lượng đạt 19.460.000 kw [162]
Về nông nghiệp, tốc độ tăng trưởng duy trì ổn định Năm 2001, mặc dù gặp lũ lụt lớn, nhưng nhờ vào việc điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp và khôi phục sản xuất nhanh chóng, sản xuất nông nghiệp vẫn đạt kết quả khả quan Giá trị sản lượng nông, lâm, chăn nuôi và ngư nghiệp đạt 87,290 tỷ NDT, tăng 4,9% so với năm trước Sản lượng các loại cây trồng chủ yếu có xu hướng tăng, mặc dù diện tích trồng trọt giảm và chịu ảnh hưởng của lũ lụt.
16.073.000 tấn, giảm 3,6% so với năm trước; sản lượng mía đạt 365.330.000 tấn, tăng 24,4%; sản lượng hoa quả đạt 40.630.000 tấn, tăng 12,8%; sản lượng dầu đạt
5.720.000 tấn, giảm 2,4%; sản lượng rau đạt 170.980.000 tấn, tăng 6%; sản lượng chè lá đạt 190.000 tấn, tăng 5,4%; sản lượng thuốc lá sấy đạt 180.000 tấn, tăng
7,7%; sản lượng kén tằm đạt 56000 tấn, tăng 89,5% Thu nhập thuần bình quân đầu người của nông dân cả năm đạt 1944,3 NDT, tăng 4,3% so với năm trước [157]
Hiên nay, diện tích sản xuất lương thực toàn khu là 3.260.700 ha Giảm
65.600 ha so với trước dây Trong đó, diện tích trồng cây có dầu : 310.700 ha giảm
2200 ha, diện tích vườn cây ăn trái là 883.700 ha tăng 16.300 ha, diện tích ruộng dâu tằm 151.500 ha tăng 40.400 ha [162]
Sản lượng lương thực cả năm 2007 là 15,514 triệu tấn tăng hơn năm trước
Các chính sách đầu tư phát triển Quảng Tây của chính phủ Trung Quốc 19 1 Các chính sách phát triển kinh tế
2.1 Các chính sách phát tri ể n kinh t ế :
2.1.1 Phát triển cơ sở hạ tầng: Để đẩy nhanh phát triển kinh tế Quảng Tây thì đầu tư vẫn là động lực chủ yếu Theo tính toán sơ bộ, trong thời kỳ “5 năm lần thứ 11”, đầu tư tài sản cố định đạt khoảng 1140 tỷ NDT, đóng góp của đầu tư cho tăng trưởng kinh tế vào khoảng 45% Chính quyền khu vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của thị trường trong phân bổ các nguồn lực, kiên trì lợi dụng thị trường và cơ chế mở, xây dựng và thu hút các chủ thể đầu tư đa nguyên, không ngừng mở rộng các kênh vốn, mở rộng quy mô đầu tư, tăng cường quản lí vĩ mô và hướng dẫn đầu tư xã hội, các hạng mục xây dựng là thành phần quan trọng của quy hoạch Chính quyền Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây kiên trì nguyên tắc “Chính phủ chủ trì, chỉ đạo quy hoạch, động lực thị trường, doanh nghiệp làm chủ thể, mượn sức bên ngoài, đột phá trọng điểm, thúc đẩy hài hoà” [157], làm tốt các hạng mục quy hoạch, tuyển chọn các hạng mục phát triển lớn có liên quan tới phát triển toàn cục, đẩy nhanh công tác tiền khả thi, tăng cường phối hợp đối với các hạng mục xây dựng lớn, không ngừng hoàn thiện cơ chế khuyến khích đối với việc lựa chọn, thực hiện, trách nhiệm các hạng mục xây dựng lớn, hình thành cục diện các hạng mục xây dựng “khởi công hàng loạt, xây dựng hàng loạt, đầu tư hàng loạt, dữ trữ hàng loạt”
Trong phát triển cơ sở hạ tầng, chính quyền khu vực tập trung vào việc xây dựng hệ thống giao thông tổng hợp hiện đại, nhanh chóng và an toàn, đồng thời hiện đại hóa quản lý Các công trình xuyên tỉnh, vượt biển và biên giới sẽ được ưu tiên thi công nhằm nâng cao mật độ mạng lưới và tốc độ di chuyển Mục tiêu là xây dựng Quảng Tây thành hành lang ra biển lớn kết nối với Hoa Nam, Tây Nam và Hoa Trung, đồng thời tạo ra con đường giao thông quốc tế nhanh chóng, thuận tiện, mang lại lợi ích cao cho việc kết nối Trung Quốc với ASEAN.
Xây dựng đường sắt bao gồm việc xây dựng hai tuyến đường mới là Lạc Thẩm và Hợp Hà, cùng với việc cải tạo năm tuyến hiện có như Quí Châu-Quảng Tây và Hồ Nam-Quảng Tây Ngoài ra, sẽ có cải tạo và mở rộng trục Nam Ninh-Liễu Châu, quy hoạch hai tuyến đường mới Hoàng Dũng-Bách Sắc và Điền Dương-Đức Bảo Công tác tiền khả thi cho các hạng mục như Hoàng Dũng-Bách Sắc và Điền Dương-Đức Bảo sẽ được thực hiện tốt Đồng thời, cần tích cực triển khai hợp tác đường sắt với Việt Nam và nghiên cứu khả thi cho hạng mục cảng Phòng Thành qua Đông Hưng sang Hải Phòng, cũng như Bách Sắc.
Thanh Tây đã bắt đầu cải tạo đường sắt xuyên Á đoạn Hà Nội - Bằng Tường, Quảng Tây Đến năm 2010, tổng chiều dài đường sắt đạt 3.300 km, với mức độ mạng và điện khí hoá lần lượt là 38% và 41%, giúp nâng cao tốc độ tàu chính từ 120-160 km/h.
Xây dựng hệ thống đường bộ tại Quảng Tây là ưu tiên hàng đầu, tập trung vào việc hoàn thiện mạng lưới giao thông và nâng cao kỹ thuật đường Dự án cao tốc Nam Ninh - Bách Sắc - Vân Nam, cùng với các tuyến đường như Quế Lâm - Ngô Châu và Hạ Châu - Linh Phong, đang được đẩy nhanh tiến độ Hợp tác với Việt Nam thông qua việc xây dựng cầu Đông Hưng - Móng Cái và khởi động dự án đường cao tốc Bách Sắc - Cao Bằng cũng là những bước quan trọng Mục tiêu là cải thiện tốc độ và chất lượng đường, với 50% đường lối các thôn hành chính được trải nhựa Đến năm 2010, Quảng Tây dự kiến đạt tổng chiều dài 8000 km đường bộ, trong đó có 3000 km đường cao tốc và 20% tổng số đường đạt cấp II trở lên, phục vụ hiệu quả cho việc kết nối các thành phố và khu vực.
Xây dựng hệ thống đường thủy và các cảng lớn với sức chứa hàng chục triệu tấn là rất quan trọng Cần phân công rõ ràng chức năng cho các cảng sông và cảng biển Tập trung vào trung tâm trung chuyển hàng hóa tại Tây Nam và phát triển bố cục công nghiệp xung quanh các cảng lớn sẽ thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng các cảng biển Đặc biệt, cần ưu tiên xây dựng các cảng tập kết hàng, cảng container, cảng công nghiệp và cảng nước sâu để nâng cao hiệu quả logistics.
BẢN ĐỒ CÁC TUYẾN ĐƯỜNG SẮT VÀ ĐƯỜNG CAO TỐC QUẢNG TÂY
Nâng cao năng lực vận chuyển đường sông với tuyến chủ yếu là Tây Giang, nắm vững đường vận tải 2000 tấn từ Tây Giang –Nam Ninh – Quí Cảng, đường
Dự án vận chuyển 3000 tấn hàng từ Quí Cảng đến Ngô Châu sẽ xây dựng các tuyến đường sông Hồng Thủy, Liễu Giang, Kiềm Giang và Tả Giang, nhằm nâng cao năng lực chứa hàng cho các cảng đường sông chính Đến năm 2010, năng lực tiếp nhận hàng hóa của các cảng ven biển dự kiến sẽ đạt mức cao hơn.
Trong tổng khối lượng 81 triệu tấn, cảng Phòng Thành đạt 36 triệu tấn, cảng Khâm Châu đạt 35 triệu tấn, cảng Bắc Hải (bao gồm cả cảng Thiết Sơn) đạt 10 triệu tấn, và các cảng đường sông đạt 53 triệu tấn.
Xây dựng cảng hàng không quốc tế đạt tiêu chuẩn 4E tại Nam Ninh, Quế Lâm nhằm mở rộng sân bay và đáp ứng nhu cầu gia tăng của hành khách và hàng hóa Dự án này sẽ thúc đẩy tăng cường các chuyến bay và mở thêm tuyến bay từ Nam Ninh, Quế Lâm, Bắc Hải đến các nước Đông Nam Á, Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời tích cực khai thác các tuyến bay tới châu Âu và Mỹ.
Theo nhu cầu của ngành du lịch, lựa chọn địa điểm xây dựng các sân bay phụ trợ và sân bay trực thăng
2.1.2 Điều chỉnh cơ cấu kinh tế:
Hoàn thành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và xây dựng chế độ xí nghiệp hiện đại, điều chỉnh cơ cấu kinh tế quốc doanh để phát triển kinh tế hỗn hợp và tư nhân Kiên trì tách biệt chức năng quản lý công và đầu tư tài sản, hoàn thiện thể chế quản lý giám sát tài sản quốc hữu Xóa bỏ các quy định cản trở kinh tế phi công hữu và cải thiện môi trường phát triển cho lĩnh vực này Đẩy mạnh cải cách nông thôn, cổ phần hóa ngân hàng thương mại địa phương và cải cách hợp tác xã tín dụng Tăng cường cải cách đầu tư, xác lập quyền tự chủ cho doanh nghiệp và xây dựng hệ thống đầu tư mới Cải cách giá cả, mở rộng quyền tự chủ định giá cho doanh nghiệp và hoàn thiện hệ thống thị trường Đẩy nhanh xây dựng cơ sở hạ tầng cung ứng nước, gas và xử lý rác thải Tiếp tục cải cách quản lý hành chính, khoa học kỹ thuật, giáo dục, y tế, văn hóa và thể thao, đồng thời phối hợp cải cách trong các lĩnh vực bưu chính viễn thông, điện lực, hàng không và đường sắt.
Chế định các biện pháp nhằm thực hiện hiệu quả các chính sách kinh tế và xã hội theo từng ngành nghề, khu vực và dân số, đồng thời bảo đảm phân phối thu nhập công bằng và an sinh xã hội Cần khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai, bảo vệ tốt đất canh tác và tăng cường tiết kiệm sử dụng đất Tăng cường công tác thăm dò, khai thác và bảo vệ tài nguyên, chú trọng vào việc khai thác tài nguyên từ cả trong và ngoài nước Xây dựng cơ chế đánh giá và giám sát hiệu quả, thúc đẩy sự phối hợp giữa quy hoạch trung dài hạn và kế hoạch hàng năm, đồng thời lồng ghép các mục tiêu vào kế hoạch thực hiện Đưa ra các đối sách kịp thời cho những vấn đề lớn trong vận hành kinh tế xã hội, thiết lập cơ chế cảnh báo và phản ứng nhanh với các rủi ro, đồng thời tăng cường năng lực giải quyết các sự kiện an ninh công cộng Áp dụng các biện pháp điều tiết tổng hợp như kế hoạch, tài chính, thuế, giá cả, bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên để hướng tới sự phát triển kinh tế nhanh, lành mạnh và hài hòa.
M ộ t là, ra sức tăng cường và phát triển nông nghiệp, thúc đẩy phát triển toàn diện kinh tế nông thôn
Tăng cường và cải thiện ngành công nghiệp cơ sở cùng với xây dựng hạ tầng là rất quan trọng, đặc biệt trong các lĩnh vực như năng lượng, giao thông, thông tin và nguyên vật liệu chủ yếu.
Ba là, tích cực phát triển ngành công nghiệp gia công có ưu thế của Quảng
Tây như đường, thuốc lá, giấy, thực phẩm, dệt may và cơ khí
Để thúc đẩy sự phát triển bền vững, cần nhanh chóng phát triển ngành dịch vụ, đồng thời mở rộng cửa ra bên ngoài Việc khai thác kinh tế ở các khu vực nghèo khó và khu vực biên phòng cần được đẩy mạnh, cùng với việc phát triển các doanh nghiệp tập thể, thành phố, thị trấn và các xí nghiệp xã, thị trấn.
Để đạt được mục tiêu trong kế hoạch 10 năm, cần thực hiện chuyển biến chiến lược phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng kinh tế quốc dân Tập trung vào việc tăng cường nông nghiệp, phát triển công nghiệp cơ sở và hạ tầng, cũng như cải thiện khoa học kỹ thuật và giáo dục Việc này nhằm khắc phục tình trạng yếu kém của các cơ sở kinh tế, đảm bảo đủ sức mạnh cho sự phát triển bền vững của Quảng Tây.
Tăng hiệu quả kinh tế là trung tâm của công tác kinh tế toàn khu vực, đồng thời cần chú trọng đến hiệu quả xã hội và sinh thái Cần ưu việt hóa kết cấu ngành nghề, đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng cường quản lý các xí nghiệp Khai thác tiềm lực trong khu vực sẽ giúp nâng cao rõ rệt hiệu quả kinh tế Để tiến lên, cần đảm bảo tốc độ tăng trưởng phù hợp cho nền kinh tế.
2.1.3.Mở rộng hợp tác quốc tế:
Triển vọng phát triển của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây
Kinh tế Quảng Tây đang trên đà phát triển mạnh mẽ với tốc độ cao và xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục trong thời gian tới Chính phủ Trung Quốc sẽ duy trì chính sách kiểm soát vĩ mô, áp dụng biện pháp bảo hộ cho miền Tây nhiều hơn và kiềm chế ít hơn Đặc biệt, Quảng Tây sẽ nhận được sự đầu tư tăng cường từ chính phủ để phát triển hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng đồng bộ tại các cửa khẩu duyên hải, cũng như các chương trình hỗ trợ người nghèo và phát triển ngành công nghiệp duyên hải Đồng thời, Quảng Tây cũng sẽ gia tăng đầu tư vào các dự án lớn mới, mở rộng đổi mới và cải tạo quy mô, trong khi ngành bất động sản có xu hướng phát triển mạnh mẽ.
Trong những năm tới, kinh tế Quảng Tây sẽ đối diện với bốn cơ hội phát triển lớn Thứ nhất, nhà nước sẽ tiếp tục thúc đẩy chiến lược phát triển miền Tây, áp dụng nhiều biện pháp chính sách hỗ trợ, giúp Quảng Tây phát triển nhanh và bền vững Thứ hai, việc xây dựng khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN sẽ mở ra không gian mới cho kinh tế Quảng Tây, đặc biệt khi Trung Quốc và Việt Nam hợp tác xây dựng “2 hành lang và một vành đai kinh tế”, giúp Quảng Tây phát huy vai trò quan trọng trong hợp tác kinh tế thương mại Thứ ba, hội chợ triển lãm Trung Quốc - ASEAN được tổ chức tại Nam Ninh từ năm 2004 sẽ thúc đẩy sự phát triển ngành dịch vụ và kinh tế thương mại của Quảng Tây Cuối cùng, hợp tác khu vực “Phiếm Châu – sông Châu Giang” sẽ được tăng cường, đặc biệt thông qua hiệp nghị khuôn khổ “9+2”, tạo cơ hội cho Quảng Tây mở rộng hợp tác với Quảng Đông, Hồng Kông và Macao.
Với sự gia tăng thu nhập và mức sống của cư dân thành thị và nông thôn, thị trường tiêu dùng đang trên đà phát triển mạnh mẽ Nhu cầu nội địa tăng cao sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế Đặc biệt, sau hội chợ triển lãm Trung Quốc – ASEAN lần đầu tiên vào năm 2007, xuất khẩu sang các nước ASEAN đã tăng đáng kể, tạo động lực cho sự phát triển kinh tế.
2007 có một loạt các hạng mục công nghiệp lớn sẽ được thi công xong và đưa vào sử dụng, sẽ làm tăng thêm sức sản xuất
Kinh tế Quảng Tây dự kiến sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tỷ lệ từ 11% đến 12% Nếu duy trì được mức tăng trưởng hai con số, Quảng Tây có khả năng vượt mục tiêu tăng trưởng bình quân 8% mỗi năm trong "Kế hoạch 5 năm lần thứ 10" Điều này sẽ giúp hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kinh tế trong kế hoạch, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn "Kế hoạch 5 năm lần thứ 11".
Trung Quốc đã triển khai chiến lược “Đại khai phát miền Tây” và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cùng với việc thành lập khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN, tạo ra nhiều cơ hội phát triển cho Quảng Tây Hiện tại, Quảng Tây đang tăng cường hợp tác kinh tế với các khu vực như Quảng Đông, Hồng Kông và Ma Cao, đồng thời chủ động hội nhập vào vùng kinh tế ven biển và tam giác Chu Giang Bên cạnh đó, Quảng Tây cũng mở rộng hợp tác với các nước Đông Nam Á, phát huy vai trò cầu nối giữa Trung Quốc và khối ASEAN, từ đó nâng cao sự phát triển phồn vinh và hội nhập quốc tế của khu vực.
Ý đồ và Mục tiêu
Kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng mạnh mẽ trong hơn 20 năm, trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức Một số ý kiến cho rằng nền kinh tế này quá nóng và cần làm chậm lại để giảm nhiệt Tuy nhiên, vấn đề chính là sự chênh lệch phát triển giữa miền Đông và miền Tây, tiềm ẩn những vấn đề về dân tộc và tôn giáo Để giải quyết những bất ổn này, chiến lược “Đại khai phát Miền Tây” đã được triển khai, nhằm phát huy tiềm năng kinh tế miền Tây, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa hai miền, hướng tới một xã hội hài hòa và ổn định, đồng thời xây dựng Trung Quốc trở thành một quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào giữa thế kỷ XXI.
Chiến lược “Đại khai phát miền Tây” là một hệ thống chính sách kinh tế – xã hội toàn diện nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền Tây và miền Đông Chiến lược này không chỉ tập trung vào việc thu hút vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, mà còn đặc biệt chú trọng phát triển kinh tế dân doanh như một động lực chính cho sự phát triển kinh tế cả nước và miền Tây Trong lĩnh vực xã hội, chiến lược yêu cầu nâng cao dân trí, phát triển y tế, giáo dục và đào tạo, đồng thời giải quyết vấn đề việc làm và lưu chuyển cán bộ từ miền Đông Hơn nữa, bảo vệ môi trường sinh thái được coi là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Chiến lược "Đại khai phát miền Tây" được chia thành ba giai đoạn: Giai đoạn I (2000-2010), Giai đoạn II (2011-2030) và Giai đoạn III (2031-2050) Mỗi giai đoạn có mục tiêu cụ thể khác nhau, nhưng chung quy lại, tất cả đều hướng tới mục đích phát triển kinh tế miền Tây, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Trung Quốc cất cánh vào giữa thế kỷ XXI.
Chiến lược "Đại khai phát miền Tây" đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững và ổn định chính trị tại Trung Quốc Nếu thành công, chiến lược này sẽ giúp cân bằng phát triển giữa các vùng miền, đồng thời củng cố đoàn kết xã hội, đặc biệt là ở khu vực miền Tây Sự chênh lệch kinh tế không chỉ dẫn đến nghèo đói mà còn làm suy yếu sức mạnh tổng thể của nền kinh tế và gây rạn nứt quan hệ xã hội, làm giảm lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản Với hơn 22% dân số quốc gia sống tại miền Tây, trong đó nhiều là dân tộc thiểu số, những vấn đề xã hội này có thể trở thành mối nguy hiểm chính trị nghiêm trọng.
Chiến lược "Đại khai phát miền Tây" hiện nay có vẻ nghiêng về mặt chính trị hơn là kinh tế, với sự đầu tư đơn độc từ chính phủ Nếu ngân sách nhà nước không cải thiện và thị trường vốn không vận hành hiệu quả, việc thực hiện chiến lược này sẽ gặp nhiều khó khăn Tuy nhiên, khi miền Tây xây dựng được nền móng vững chắc, khu vực này có thể tận dụng những ưu thế vượt trội để tăng tốc độ phát triển và đạt được các mục tiêu đề ra trong tương lai.
Cơ sở lý luận
Chiến lược “Đại khai phát miền Tây” được chính phủ Trung Quốc thực hiện dựa trên 5 tư tưởng lớn làm cơ sở lý luận
Thứ nhất, cơ sở lý luận quan trọng nhất của chiến lược “Đại khai phát miền
Tư tưởng “hai đại cục” của Đặng Tiểu Bình từ những năm 80 thế kỷ trước nhấn mạnh việc phát triển miền Đông như trọng tâm, nhằm tạo động lực cho kinh tế Trung Quốc Miền Đông với những ưu thế vượt trội được chọn làm đầu tàu phát triển, trong khi miền Trung và miền Tây sẽ nhận được sự hỗ trợ phát triển sau khi miền Đông đạt được mức độ nhất định Chiến lược này không chỉ tạo ra điều kiện thuận lợi cho khu vực duyên hải miền Đông mà còn góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước trong cạnh tranh quốc tế Trong giai đoạn đầu, miền Trung và miền Tây phải tập trung vào sự phát triển của miền Đông Khi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thứ hai hoàn thành, miền Đông sẽ có trách nhiệm hỗ trợ miền Trung và miền Tây, nhằm rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng và hướng tới sự phồn vinh đồng đều trên toàn quốc.
"Hai đại cục" cần thích ứng với tiến trình hiện đại hóa của Trung Quốc, một quốc gia đang phát triển Để thúc đẩy mối quan hệ giữa hai đại cục, cần chú trọng đến tư tưởng chỉ đạo phát triển miền Tây và đảm bảo nguồn vốn đầy đủ cho khu vực này Các mối quan hệ này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển bền vững miền Tây.
Chiến lược hiện đại hóa của Trung Quốc bắt đầu từ khu vực duyên hải miền Đông, thể hiện tư tưởng "chiến lược ưu tiên" của Đặng Tiểu Bình, nhằm phá vỡ tình trạng phát triển bình quân trước cải cách Việc ưu tiên phát triển miền Đông đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong giai đoạn đầu của cải cách mở cửa, giúp đẩy nhanh sự phát triển của sức sản xuất xã hội chủ nghĩa Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Trung Quốc sẽ duy trì sự chênh lệch mãi mãi; sau khi miền Đông phát triển, nguồn vốn sẽ được chuyển giao để hỗ trợ miền Tây Do đó, mối quan hệ phát triển giữa miền Đông và miền Tây là có thứ tự thời gian, với trọng tâm hiện đại hóa của Trung Quốc chuyển dịch từ Đông sang Tây, từ chiến lược phát triển ưu tiên sang chiến lược tiến lên theo bậc thang.
Hai miền Đông và Tây của Trung Quốc có mối quan hệ chi viện tài nguyên quan trọng, trong đó miền Tây cung cấp đầy đủ tài nguyên, năng lượng và nguyên vật liệu cho miền Đông Điều này không chỉ là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của miền Đông mà còn thể hiện tư tưởng phát triển toàn quốc Sự hiện đại hóa của miền Đông cần dựa vào tài nguyên phong phú từ miền Tây, bao gồm vốn, trí lực, kỹ thuật và kinh nghiệm, nhằm thúc đẩy sự phát triển của miền Tây Sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm và nhân lực từ miền Đông là yếu tố then chốt cho sự phát triển của miền Tây, tạo nên một mối liên kết quan trọng trong quá trình hiện đại hóa của Trung Quốc.
Ba là, quan hệ phục tùng trong ý thức thể hiện rõ nét trong việc ưu tiên phát triển vùng duyên hải miền Đông, được coi là khâu mấu chốt của đại cục cả nước Trong giai đoạn đầu cải cách, do thiếu hụt tài nguyên xã hội, chiến lược ưu tiên đã được áp dụng để thúc đẩy sự phát triển của miền Đông Sự phục tùng của miền Tây trong bối cảnh này trở thành một trong những tiền đề quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển nhanh chóng của miền Đông.
Dưới bối cảnh miền Đông phát triển mạnh mẽ và tài nguyên xã hội phong phú, việc hỗ trợ sự phát triển của miền Tây là yếu tố then chốt để thúc đẩy hiện đại hóa Hiện tại, Trung Quốc đã hoàn thành mục tiêu chiến lược bước hai, đạt được trình độ “tiểu khang”, với miền Đông tích lũy được sức mạnh kinh tế đáng kể, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của miền Tây.
Mối quan hệ thống nhất về mục tiêu giữa các miền ở Trung Quốc là rất quan trọng, bất kể ưu tiên phát triển miền Đông hay miền Tây, đều phải phục vụ cho sự phát triển chung của cả nước Mục tiêu này thể hiện sự đồng nhất trong phát triển, khẳng định ưu việt của chủ nghĩa xã hội tại Trung Quốc, nhằm đảm bảo một tương lai không có sự chênh lệch giữa các vùng miền.
Cơ sở lý luận thứ hai nhấn mạnh sự phát triển đồng đều và cân bằng giữa các vùng miền tại Trung Quốc, đặc biệt là giữa Đông và Tây Lý luận này phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo rằng sự giàu có được phân phối công bằng cho toàn dân Chế độ xã hội chủ nghĩa hướng tới hạnh phúc của nhân dân, và vì vậy, cần thể hiện tính ưu việt thông qua sự phát triển đồng đều Sự phát triển của miền Đông không thể tách rời khỏi việc thúc đẩy miền Tây, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng chênh lệch kéo dài, đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Lý luận về phồn vinh và giàu có của Đảng Cộng Sản Trung Quốc gắn liền với mục tiêu xây dựng một nước Trung Quốc mới, nhằm đảm bảo đời sống an khang và sung túc cho nhân dân Mục tiêu giá trị này là lý do chính khiến Đảng nhận được sự ủng hộ từ đông đảo dân chúng, với vai trò đại diện cho lợi ích của họ Sức sống của Đảng được thể hiện qua các chiến lược và quyết sách nhằm đáp ứng nhu cầu văn hóa và vật chất ngày càng cao của nhân dân, trong đó phát triển miền Tây là một quyết sách chiến lược quan trọng.
Lý luận về phát triển cùng phồn vinh và giàu có phù hợp với nguyện vọng của nhân dân Trung Quốc, mong muốn nâng cao sức mạnh tổng hợp và vị thế quốc gia trên trường quốc tế Tuy nhiên, tình trạng phát triển chênh lệch hiện nay chưa đáp ứng được điều này, đặc biệt là cần đưa miền Tây vào tiến trình phát triển chung để khắc phục những khiếm khuyết trong cơ cấu Khát vọng phát triển và cùng giàu lên của nhân dân miền Tây ngày càng mạnh mẽ, vì vậy, phát triển miền Tây trở thành quyết sách quan trọng để biến ước mơ nhiều năm của họ thành hiện thực.
Cơ sở lý luận thứ ba nhấn mạnh rằng phát triển cần diễn ra liên tục, nhằm khắc phục những khiếm khuyết của mô thức phát triển kiểu tước đoạt đối với thiên nhiên Lý luận này tập trung vào việc đạt được sự hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường, thúc đẩy sự phát triển có trật tự và cân bằng xã hội, tôn trọng quy luật sinh thái Phát triển miền Tây được xem là hình thức phát triển sinh thái bảo hộ, không phải kiểu tước đoạt Để thực thi lý luận này, cần nhận thức rằng sự phát triển miền Tây không chỉ dựa vào quy luật kinh tế mà còn phải hiểu rõ ý nghĩa của nó thông qua quy luật sinh thái.
Trong thời gian thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ IX (1996 - 2000), Trung Quốc đã bắt đầu hình thành thị trường tiêu thụ và giảm tình trạng hàng hóa khan hiếm, nhưng vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa nhu cầu và cung ứng hàng hóa Những yếu tố không ổn định trong kinh tế và chính trị quốc tế đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của Trung Quốc trong thế kỷ XXI Do đó, Trung Quốc xác định mở rộng nhu cầu trong nước và khai thác thị trường là phương châm lâu dài để kiểm soát điều chỉnh vĩ mô, nhằm thích ứng với thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và đảm bảo phát triển liên tục với tốc độ cao, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của các nước lớn.
Cuối cùng, vấn đề ổn định chính trị xã hội và an ninh quốc gia gắn liền với sự phát triển kinh tế và đoàn kết dân tộc Sự cách biệt giữa Đông và Tây không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là thách thức chính trị xã hội, và sự chênh lệch này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định chính trị Miền Tây, với đường biên giới dài tiếp giáp 14 quốc gia, đóng vai trò chiến lược quan trọng trong quốc phòng Để phát triển vùng biên cương và nâng cao mức sống cho các dân tộc, cần phải thúc đẩy kinh tế và xã hội Nếu không có sự phát triển đồng bộ, không thể đạt được sự văn minh thịnh vượng cho toàn quốc Việc hiện đại hóa các dân tộc thiểu số là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển chung của đất nước Do đó, xây dựng chiến lược phát triển miền Tây là cần thiết để đảm bảo hòa bình và ổn định, từ đó thúc đẩy sự phát triển bền vững.
Các chính sách phát triển
Chiến lược "Đại khai phát miền Tây" của chính phủ Trung Quốc nhằm cân bằng sự chênh lệch phát triển kinh tế giữa Đông và Tây, hướng tới phát triển đồng đều toàn quốc Chính phủ đã triển khai nhiều chính sách đầu tư để phát triển miền Tây, tập trung vào phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục, đặc biệt là kinh tế dân doanh Đồng thời, các chính sách bảo vệ môi trường sinh thái cũng được thực hiện để đảm bảo sự phát triển bền vững.
1.3.1 Về kinh tế xã hội: Đầ u tiên, là các chính sách phát tri ể n v ề kinh t ế - xã h ộ i, trong đó trọng điểm là xây dựng cơ sở hạ tầng Miền Tây với diện tích chiếm gần 70% cả nước, đất đai rộng lớn, địa hình phức tạp, đa dạng và khó lợi dụng Ở đây tập trung những vùng núi, cao nguyên, sa mạc, hoang mạc chính của cả nước Về vị trí địa lý lại cách xa trung tâm chính trị - kinh tế, đến nay vẫn còn có chỗ chưa có người đến
Nhiều tuyến đường sắt quan trọng đã được xây dựng, kết nối các trung tâm kinh tế của các tỉnh miền Tây với nhau và liên kết miền Tây với miền Đông.
Tuyến đường quan trọng nhất với vốn đầu tư lớn nhất là tuyến đường sắt đi qua nóc nhà thế giới, nối tỉnh Thanh Hải với khu tự trị Tây Tạng, đã chính thức thông xe vào ngày 1 tháng 7 năm 2007.
Kể từ năm 2000, các tỉnh và thành phố miền Tây đã đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng giao thông đường bộ, với các khoản đầu tư đáng kể như Tứ Xuyên 14 tỷ NDT, Tân Cương 4,4 tỷ NDT, Cam Túc 5 tỷ NDT và Vân Nam 10 tỷ NDT.
130] Một số hạng mục đã hoàn thành gồm:
Dự án cải tạo đường bộ Thanh - Tạng, kéo dài 66,4 km từ Dương Bát Tỉnh đến Lahsa, đã chính thức khởi công với tổng mức đầu tư 395 triệu NDT Mặc dù được thiết kế là đường cấp hai, nhưng công trình sẽ được thi công theo tiêu chuẩn đường cấp 1 trong vòng 2 năm tới.
Đường quốc lộ 320 nội tỉnh Thiểm Tây, dài 58,09 km, đã được hoàn thành và thông xe, nối liền Bảo Kê với Lưu Bối Dự án này có tổng vốn đầu tư 715 triệu NDT, góp phần kết nối các tuyến đường cao tốc vòng thành Tây An và Tây An - Bảo Kê, từ đó cải thiện đáng kể mạng lưới giao thông của tỉnh Thiểm Tây.
- Tứ Xuyên xây xong thông xe tuyến đường cao tốc Long Xương - Nạp Khê sau 4 năm xây dựng
Miền Tây không chỉ phát triển đường bộ và đường sắt mà còn cần chú trọng đến vận tải hàng không, nhờ vào diện tích đất đai rộng lớn Sự phát triển của vận tải đường không sẽ mang lại tác động tích cực, đặc biệt khi kết nối sâu vào các vùng miền Tây.
Trước năm 2000, miền Tây chú trọng xây dựng đường hàng không với các điểm đến như Thành Đô, Tây An, Côn Minh và Urumsi, đồng thời phát triển các sân bay du lịch Việc sửa chữa và mở rộng các sân bay như Thành Đô, Côn Minh, Urumsi, Đôn Hoàng và Hàm Dương được tăng cường Các sân bay mới như Quảng Nguyên, Miên Dương, Phàn Chi Hoa, Cửu Trại Khẩu, Tư Mao, Đồng Nhân và Khố Xa cũng đã được hoàn thành Tương lai sẽ dựa vào lượng hàng và khách để điều chỉnh sửa chữa và mở rộng các sân bay đầu mối, trong khi hàng không dân dụng sẽ đảm nhiệm việc vận chuyển hành khách và hàng hóa.
Sự phát triển kinh tế nhanh chóng đã dẫn đến nhu cầu tiêu thụ năng lượng gia tăng, khiến an ninh năng lượng của Trung Quốc trở nên cấp bách Để đối phó với tình trạng này, chính phủ Trung Quốc không chỉ tăng cường chính sách ngoại giao nhằm thu hút nguồn cung dầu khí từ nước ngoài mà còn đầu tư mạnh mẽ vào việc xây dựng các tuyến đường ống để nâng cao khả năng cung ứng dầu khí từ nội địa.
Công trình dẫn khí từ Tây sang Đông là dự án lớn nhất với tổng chiều dài 4200 km từ Tân Cương đến Thượng Hải, tổng vốn đầu tư lên đến 300 tỷ NDT, trong đó 120 tỷ NDT dành cho đường ống chính Dự án được khởi động từ năm 2000, với nghiên cứu ban đầu hoàn thành vào cuối năm đó Từ 2001 đến 2003, các đoạn của đường ống được xây dựng, trong đó đoạn Tịnh Biên - Thượng Hải dự kiến hoàn thành vào cuối năm 2002 và đoạn Luân Nam - Tịnh Biên hoàn thành vào năm 2003 Năm 2004, Tháp Lý Mục bắt đầu cung cấp khí cho khu vực Trường Giang và xây dựng trạm nén khí.
Miền Tây cần một hệ thống thông tin liên lạc hoàn chỉnh để phát triển cơ sở hạ tầng, do diện tích đất đai rộng lớn Việc xây dựng hệ thống thông tin được thực hiện theo hướng "tám dọc, tám ngang", yêu cầu các tỉnh lỵ và thành phố trung tâm khu vực sử dụng đường dây thông tin cáp quang để rút ngắn khoảng cách thông tin với miền duyên hải Sau năm 2010, cần hình thành mạng lưới liên lạc và mạng lưới bưu chính hoàn thiện nhằm nâng cao khả năng phục vụ của ngành bưu chính viễn thông.
M ộ t công trình khác, đượ c x ế p vào m ộ t trong b ố n công trình l ớ n c ủ a Trung Qu ố c ở đầ u th ế k ỷ XXI là công trình đư a n ướ c t ừ mi ề n Nam lên mi ề n B ắ c
Dự kiến sẽ xây dựng ba tuyến mương dẫn nước, trong đó có một tuyến ở miền Tây, nhằm đưa nước từ miền Nam lên miền Bắc Từ thập niên 50 của thế kỷ XX, các cơ quan hữu quan đã khảo sát và nghiên cứu nhiều phương án, xác định sẽ thực hiện ba tuyến Đông, Trung và Tây Tổng lượng nước được đưa lên phía Bắc ước tính khoảng 38 - 48 tỷ m³, tạo thành cục diện “bốn ngang ba dọc” liên thông giữa các con sông Trường Giang, Hoàng Hà, Hoài Hà và Hải Hà Dự án này không chỉ giải quyết tình trạng thiếu nước mà còn giúp sử dụng nước một cách hợp lý hơn.
Để xây dựng cơ sở hạ tầng tại miền Tây, cần một lượng vốn lớn và những chính sách cụ thể từ Trung ương Trước những năm 80 của thế kỷ XX, hơn 70% vốn đầu tư là từ nhà nước, đặc biệt trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất lên tới trên 90% Tuy nhiên, đến cuối thập niên 90, tỷ lệ vốn nhà nước giảm xuống còn 10-20%, trong khi vốn vay trong nước chiếm 20-30% và vốn nước ngoài từ 10-30%, còn lại 50% là tự lo và các nguồn đầu tư khác Để đáp ứng nhu cầu vốn cho xây dựng cơ bản, nhà nước Trung Quốc đã thực hiện các đối sách hợp lý, bao gồm việc phát hành công trái chính phủ và thành lập quỹ xây dựng cơ bản riêng Đồng thời, nhà nước cũng tăng cường vai trò của hệ thống tài chính, phát huy tác dụng của các ngân hàng và công ty đầu tư, đồng thời chú trọng vào chức năng tập trung vốn của thị trường chứng khoán.
Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở hạ tầng miền Tây, bên cạnh nguồn vốn trong nước Trung Quốc đang nỗ lực mở rộng việc ứng dụng vốn nước ngoài thông qua các chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư trực tiếp từ nước ngoài Điều này bao gồm việc tận dụng tối đa nguồn vốn vay từ các tổ chức tài chính quốc tế và chính phủ các nước khác, đồng thời kêu gọi đầu tư nước ngoài thông qua các phương thức như BOT và TOT.
Vị trí của Khu tự trị Choang Quảng Tây trong khai phát miền Tây
2 Vị trí của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây trong khai phát miền Tây:
Quảng Tây, tỉnh duyên hải duy nhất hiện nay, đang tiến hành đại khai phát miền Tây với vị trí địa lý đặc biệt, mặt hướng Đông Nam Á và lưng dựa Tây Nam Điều này giúp Quảng Tây trở thành con đường ra biển thuận tiện nhất cho khu vực Tây Nam Với việc thiết lập khu mậu dịch tự do giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á, Quảng Tây sẽ đóng vai trò cầu nối giữa Trung Quốc và ASEAN, mang lại lợi thế thị trường thuận lợi cho tỉnh này.
Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây có vị trí địa lý thuận lợi, nằm ven biển, ven sông và biên giới, kết nối các vùng kinh tế Hoa Nam, Tây Nam và ASEAN Đây là con đường ra biển ngắn nhất cho vùng Tây Nam và Tây Bắc Trung Quốc, đồng thời liên kết Quảng Đông, Hồng Kông, Ma Cao với phía Tây Quảng Tây sở hữu 21 cảng biển, trong đó có 5 cảng lớn có khả năng tiếp nhận tàu từ 10.000 tấn trở lên như Phòng Thành, Khâm Châu, Bắc Hải, Hạ Chu và Thiết Sơn, với đặc điểm tự nhiên nước sâu, tránh gió tốt và sóng nhỏ Cảng Bắc Hải chỉ cách Hồng Kông 425 hải lý, Khâm Châu cách Singapore 1.338 hải lý, và Phòng Thành cách Hải Phòng 151 hải lý Về biên giới, Quảng Tây tiếp giáp với Việt Nam qua 8 huyện, có 12 cửa khẩu biên giới, trong đó 5 cửa khẩu cấp 1 quốc gia như Đông Hưng, Bằng Tường, Hữu Nghị Quan, Thủy Khẩu và Long Bang, cùng 25 điểm giao dịch giữa nhân dân vùng biên giới.
Tây) nối liền với hệ thống đường sắt của Việt Nam, theo đường liên vận nối từ Bắc Kinh đến Hà Nội
BẢN ĐỒ TRUNG QUỐC VÀ ĐÔNG NAM Á
Quảng Tây, nằm tại trung điểm của Vịnh Bắc Bộ, đóng vai trò là cầu nối giữa Trung Quốc và Việt Nam, cũng như toàn bộ ASEAN Vịnh Bắc Bộ có hai đặc điểm địa lý nổi bật: kết nối giữa Đông Bắc Á và Đông Nam Á, đồng thời là trung tâm giao thoa của ba vành đai kinh tế: Hoa Nam, Tây Nam và Đông Nam Á Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây không chỉ là đơn vị hành chính cấp tỉnh duy nhất của Trung Quốc có biên giới đất liền và hành lang biển với các nước ASEAN, mà còn nằm ở giao điểm của các vành đai kinh tế này Với vị trí địa lý độc đáo, Quảng Tây có lợi thế rõ rệt về giao thông, kết nối mạng lưới giao thông trên bộ và sở hữu quần thể cảng biển bao gồm Bắc Hải, Khâm Châu và Phòng Thành.
Trong khuôn khổ hợp tác Vịnh Bắc Bộ mở rộng, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây đóng vai trò chiến lược quan trọng Việc phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ Quảng Tây kết hợp với hợp tác kinh tế khu vực là cần thiết Mục tiêu là xây dựng Quảng Tây thành trung tâm lưu chuyển hàng hóa, thương mại, gia công chế tạo và trao đổi thông tin giữa Trung Quốc và ASEAN, từ đó thúc đẩy kinh tế vùng Tây Nam và toàn bộ miền Tây phát triển mạnh mẽ hơn.
Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây nổi bật với ưu thế địa lý vượt trội so với 11 tỉnh khác trong chiến lược “Đại khai phát miền Tây” Chính vị trí địa lý này đã giúp Choang Quảng Tây đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khu vực miền Tây.
Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây đã trở thành trọng điểm phát triển của khu vực Tây Nam và là tâm điểm trong chiến lược quốc gia của Trung Quốc Vị trí địa lý đặc biệt của Quảng Tây khiến nơi đây trở thành nơi giao thoa của nhiều chiến lược lớn Chính phủ Trung Quốc đã chú trọng và ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu tự trị này.
2.1.2 Yếu tố địa – chính trị:
Trong chiến lược phát triển miền Tây, chính phủ Trung Quốc xác định hai khu vực trọng điểm: Tây Bắc với Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương và Tây Nam với Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Vị trí địa chính trị của hai khu vực này đã ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư và phát triển kinh tế của chính phủ Trung Quốc.
Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương là cửa ngõ của Trung Quốc vào Trung Á, trong khi Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây mở ra con đường đến Đông Nam Á Đông Nam Á hiện có tình hình chính trị ổn định và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trái ngược với Trung Á, nơi đang phải đối mặt với nhiều phức tạp và bất ổn Khu vực này tiềm ẩn các nguy cơ đe dọa sự ổn định biên giới của Trung Quốc và là điểm nóng trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc như Mỹ, Nga và Trung Quốc.
Sau khi Liên Xô tan rã, Trung Á đã hình thành 5 quốc gia độc lập, và Trung Quốc nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao cũng như tăng cường hợp tác kinh tế với các quốc gia này Tuy nhiên, khu vực này vẫn tiềm ẩn các thế lực khủng bố, ly khai và cực đoan, ảnh hưởng lớn đến Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương của Trung Quốc Sự đe dọa đối với Trung Quốc càng gia tăng khi nhiều cuộc cách mạng màu sắc diễn ra trong khu vực.
Cuộc "cách mạng màu" ở Trung Á bắt đầu với "cách mạng hoa hồng" ở Gruzia vào cuối năm 2004, tiếp theo là "cách mạng màu cam" ở Ukraina vào đầu năm 2005 và gần đây nhất là "cách mạng màu chanh" ở Cưrơgưxtan vào tháng 3 năm 2005 Các cuộc cách mạng này diễn ra nhanh chóng, chỉ trong vòng chưa đầy 2 tuần, với kết quả là phe đối lập giành quyền kiểm soát từ chính đảng cầm quyền thông qua các cuộc biểu tình Tại Gruzia, Tổng thống M Saakashvili đã lên nắm quyền thay cựu Tổng thống E Shevardnadze, trong khi tại Ukraina, Victor Yushchenko trở thành Tổng thống mới, thay thế cựu Tổng thống Cuchma và vượt qua ứng cử viên được Nga hậu thuẫn, Victor Yanukovich.
BẢN ĐỒ TRUNG QUỐC VÀ CÁC QUỐC GIA LÂN CẬN
Cuộc “cách mạng màu chanh” tại Cưrơgưxtan diễn ra vào cuối tháng 3 năm 2005, đặc biệt là vào ngày 24/3, khi 17.000 người biểu tình lật đổ chính phủ thân Nga của Tổng thống Askar Akayev Sự kiện này dẫn đến việc thành lập chính phủ lâm thời thân Mỹ do Kurmanbek Bakiyev đứng đầu Kết quả là Kurmanbek Bakiyev, nguyên Thủ tướng dưới thời cựu Tổng thống, đã lên nắm quyền và trở thành Tổng thống của nước cộng hoà.
Felix Kulov, nguyên Bộ trưởng An ninh và là người cứng rắn, đã đảm nhiệm vai trò lãnh đạo lực lượng cảnh sát để khôi phục trật tự tại Biskếch, nơi đang phải đối mặt với tình trạng cướp bóc và bạo lực gia tăng.
Cưrơgưxtan, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, hiện là một "sân sau" của Nga và có đường biên giới dài 1.600 km với Trung Quốc Hiện nay, Cưrơgưxtan cùng với ba nước cộng hòa Trung Á khác là Udơbêkixtan, Tatgikixtan và Tuốcmênixtan, cùng Nga và Trung Quốc, là thành viên của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO).
Sự kiện gần đây ở Cưrơgưxtan đã khiến Trung Quốc trở nên cảnh giác hơn, đặc biệt khi nhiều quan chức mới tại đây nổi tiếng với quan điểm chống Trung Quốc Vào năm 2002, chính phủ Bishkếch đã phải trả lại cho Trung Quốc 900.000 ha lãnh thổ ở vùng Uzengi-kuush, và các lãnh đạo hiện tại đã từng tham gia biểu tình phản đối quyết định này Ông Azimbek Beknazarov, hiện là Trưởng công tố và là đồng minh của K.Bakajev, có khả năng tuyên bố hủy bỏ hiệp định biên giới quốc gia đã ký với Trung Quốc.
Kể từ sau chiến tranh Ápganixtan năm 2002, Trung Á đã thu hút sự chú ý của thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh lịch sử giữa Anh và Nga Với trữ lượng dầu mỏ lớn chỉ sau Trung Đông và vị trí địa chính trị chiến lược, khu vực này đang trở thành mục tiêu của nhiều cường quốc như Nga, Mỹ, EU, Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc Do đó, việc đạt được sự ổn định tại Trung Á là một thách thức lớn trong chiến lược toàn cầu của các quốc gia này.
Quảng Tây – Cửa ngõ vào Đông Nam Á của Trung Quốc
Trong những năm gần đây, cải cách mở cửa của Trung Quốc, đặc biệt tại khu vực Hoa Nam và Hoa Đông, đã diễn ra nhanh chóng, với sự tiếp thu mạnh mẽ các ngành nghề từ nước ngoài Sau vài năm chuyển hóa, các khu vực này không chỉ hoàn thành việc tích lũy ban đầu mà còn bắt đầu điều chỉnh và nâng cấp cấu trúc ngành nghề Nhiều doanh nghiệp tại đây đang tìm kiếm cơ hội phát triển ra nước ngoài, và Đông Nam Á nổi lên như một trong những lựa chọn hàng đầu nhờ vào yếu tố địa lý và văn hóa, tạo ra một thị trường dễ tiếp cận và tiềm năng.
Trong 7 nước Đông Nam Á thuộc bán đảo Trung Nam thì Singapore, Malaysia, Thái Lan ở phía Nam tương đối phát triển còn Việt Nam, Lào, Myanma, Campuchia ở phía bắc giáp với Trung Quốc là những quốc gia kém phát triển nhất Đông Nam Á Từ cơ sở hạ tầng đến phát triển của ngành công nghiệp họ đều có hàng loạt dự án, cần có lượng lớn đầu tư Không chỉ hàng loạt sản phẩm của Trung Quốc phù hợp với tiêu dùng của các quốc gia này mà còn rất nhiều thiết bị và kỹ thuật của Trung Quốc cũng thích hợp với nhu cầu của họ Rất nhiều doanh nghiệp đã phát triển của Trung Quốc bao gồm một số doanh nghiệp tư doanh có thể đến đó đầu tư phát triển.
Doanh nghiệp và người kinh doanh Trung Quốc, đặc biệt từ khu vực Hoa Nam và Hoa Đông, thường chọn con đường qua Quảng Tây để vào Việt Nam, tiếp tục hướng tây đến Campuchia, Thái Lan, Lào và Myanmar Do đó, trong hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây sẽ đóng vai trò là "bốt gác đầu cầu" cho các tỉnh phía Nam và Đông của Trung Quốc tiến vào bán đảo Trung Nam.
Cải cách mở cửa của Trung Quốc đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng và mở rộng quy mô thị trường, thu hút sự quan tâm từ nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước Đông Nam Á Các quốc gia thuộc bán đảo Trung Nam đang tìm cách tận dụng cơ hội từ sự phát triển này để thúc đẩy tăng trưởng nội địa Hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN, đặc biệt trong lĩnh vực giao thông vận tải, đang ngày càng được củng cố, tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa và giao lưu nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, với vị trí địa lý thuận lợi, là cầu nối quan trọng giữa Trung Quốc và ASEAN, cho phép kết nối nhanh chóng và tiết kiệm chi phí từ Việt Nam vào Trung Quốc qua các cửa khẩu như Bằng Tường và Đông Hưng.
Sau gần 30 năm phát triển và cải cách mở cửa, Quảng Tây đã đạt được những điều kiện cần thiết để chuyển mình từ giai đoạn khó khăn sang giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ Năm 2005, GDP bình quân đầu người của tỉnh này đã vượt qua mức 1.000 USD, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế.
Quảng Tây đang hướng tới mục tiêu xây dựng xã hội khá giả với GDP bình quân đầu người đạt 3000 USD, cần một sự đột phá trong phát triển và chiến lược mới để thực hiện điều này Sự phát triển kiểu nhảy vọt của khu vực sẽ là động lực thúc đẩy mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng mạnh mẽ.
Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây là cánh cửa quan trọng cho các nước Đông Nam Á tiếp cận thị trường Trung Quốc Với chính sách mở cửa ven biển miền đông và đại khai phát miền tây, Quảng Tây tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế Các thành phố như Bắc Hải, Phòng Thành và Nam Ninh, cùng với các khu kinh tế mở ven biển và khu khai thác cấp quốc gia, cung cấp cơ hội phát triển đa dạng Đặc biệt, thành phố Khâm Châu và huyện Hợp Phố cũng góp phần vào việc thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN nhờ vào vị trí chiến lược và các chính sách ưu đãi.
Các cơ chế hợp tác Trung Quốc – ASEAN thông qua Quảng Tây
2.1 Chi ế n l ượ c “M ộ t tr ụ c hai cánh”:
Vào ngày 20/7/2006, Diễn đàn Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ được tổ chức tại Nam Ninh với sự phối hợp của nhiều cơ quan, bao gồm Văn phòng Khai phát miền Tây và Ngân hàng Phát triển Châu Á, thu hút hơn 160 đại diện từ Trung Quốc và các quốc gia như Brunây, Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Singapore, Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc Hội nghị, có sự tham dự của Phó Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Tưởng Chính Hoa, tập trung thảo luận về việc xây dựng điểm tăng trưởng mới giữa Trung Quốc và ASEAN Bí thư Khu ủy Quảng Tây Lưu Kỳ Bảo đã đề xuất Chiến lược Hợp tác “một trục hai cánh” nhằm phát triển hai khu vực hợp tác: khu vực kinh tế xuyên Vịnh Bắc Bộ và tiểu vùng sông Mêkông, cùng với hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapore.
“M” theo cách phiên âm tiếng Anh bao gồm các nội dung hợp tác kinh tế trên biển, hợp tác kinh tế trên bộ và hợp tác lưu vực sông Mêkông.
Chiến lược hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN được gọi là chiến lược “Một trục hai cánh” hay mô hình “M”, với ba chữ đầu đều là chữ “M”.
Chiến lược “Một trục hai cánh” ra đời nhằm thúc đẩy khu Mậu dịch Tự do Trung Quốc – ASEAN đi vào chiều sâu, mở rộng hợp tác kinh tế trong quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc-ASEAN Việc triển khai chiến lược này phù hợp với tinh thần tuyên bố chung của lãnh đạo cấp cao ASEAN - Trung Quốc, đồng thời đáp ứng yêu cầu khách quan trong việc xây dựng khu Mậu dịch tự do Chiến lược cũng nhằm bổ sung và hoàn thiện lĩnh vực hợp tác kinh tế, hướng tới việc thiết lập “Quan hệ đối tác chiến lược hướng tới hòa bình và phồn vinh” giữa Trung Quốc và ASEAN, đồng thời phát huy vai trò quan trọng của Quảng Tây trong việc thúc đẩy hợp tác tiểu vùng, tạo điều kiện cho Quảng Tây tham gia vào quá trình xây dựng khu Mậu dịch tự do này.
Hợp tác kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN đóng vai trò quan trọng trong tổng thể kinh tế khu vực Đông Á, trong khi tổng thể kinh tế Đông Á lại định hướng cho sự hợp tác này Trung Quốc đã dẫn đầu trong việc xây dựng khung hợp tác “10+1” với ASEAN, tạo nền tảng cho các tiến trình hợp tác “10+3” và “10+2” Thực hiện Chiến lược “Một trục hai cánh”, Quảng Tây sẽ trở thành cầu nối quan trọng trong hợp tác kinh tế với Đông Á và Đông Nam Á, mở rộng không gian phát triển cho khu vực này.
Chiến lược "Một trục hai cánh" của Quảng Tây, được triển khai theo chỉ đạo của Chính phủ Trung Quốc, nhằm thúc đẩy mở cửa đối ngoại và hợp tác kinh tế khu vực Chiến lược này tận dụng các ưu thế khu vực để tạo ra cơ sở cho sự phát triển kinh tế địa phương Một trong những yếu tố chính của chiến lược là xây dựng hành lang kinh tế Nam, góp phần tăng cường kết nối và phát triển bền vững.
Ninh – Singapore, “Vành đai kinh tế Vịnh Bắc bộ mở rộng” và đẩy mạnh hợp tác tiểu vùng sông Mekong (GMS)
+ Khu kinh tế vịnh Bắc bộ và vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ mở rộng:
Chiến lược “Một trục hai cánh” tập trung vào việc xây dựng “Khu hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng”, nhằm làm phong phú nội dung hợp tác và mở rộng không gian cho khu mậu dịch tự do Trung Quốc-ASEAN Điều này không chỉ thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược giữa Trung Quốc và ASEAN mà còn giúp nắm bắt xu thế phát triển của khu Mậu dịch Tự do Trung Quốc-ASEAN Việc hình thành “Khu hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng” sẽ tạo ra cơ hội mới cho Quảng Tây, đồng thời góp phần quan trọng vào việc phát triển và hoàn thiện quan hệ đối tác chiến lược Trung Quốc - ASEAN, hướng tới hòa bình và phồn vinh Quá trình này sẽ nâng cao vai trò chiến lược của Quảng Tây, củng cố vị trí cầu nối và thúc đẩy cải cách mở cửa trong khu vực.
Theo Trung Quốc, "Vành đai vịnh Bắc Bộ" bao gồm bán đảo Lôi Châu (Quảng Đông), vùng biển phía Tây tỉnh Hải Nam, khu vực ven biển phía Nam của Khu Tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây và khu vực ven biển phía Bắc của Việt Nam Tuy nhiên, từ góc độ kinh tế, phạm vi vịnh Bắc Bộ còn mở rộng đến một số quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á như Singapore, Malaysia, Philippines, Brunei và Indonesia.
Trong bối cảnh hợp tác kinh tế khu vực ngày càng phát triển, Trung Quốc đặc biệt chú trọng đến hợp tác kinh tế tiểu khu vực Hợp tác tiểu khu vực đề cập đến việc các quốc gia khác nhau, với mức thuế quan không đồng nhất, cùng nhau đầu tư và khai thác các dự án chung có lợi ích tương đồng Khác với các cuộc đàm phán thương mại tự do đa phương hay song phương, hợp tác này không gây ra xung đột lợi ích giữa các nước, giúp cho việc triển khai trở nên linh hoạt và dễ dàng hơn Do đó, Trung Quốc đang hướng tới việc phát triển hợp tác khai thác kinh tế tại vành đai vịnh Bắc Bộ theo mô hình hợp tác tiểu khu vực.
Trung Quốc xem việc triển khai hợp tác khai thác kinh tế vành đai vịnh Bắc Bộ là một trong những kênh quan trọng để mở rộng ảnh hưởng vào Đông Nam Á Do đó, khai thác kinh tế trong khu vực này không chỉ giới hạn ở vịnh Bắc Bộ và lĩnh vực kinh tế mà cần phải liên kết với các chiến lược khác để đạt được hiệu quả tối ưu hơn.
Khu vực hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng được chia thành ba vành đai kinh tế chính Vành đai kinh tế trung tâm bao gồm các khu vực ven biển của Quảng Tây, Hải Nam, Quảng Đông (Trung Quốc) và các tỉnh ven Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam Vành đai kinh tế gần kề kéo dài từ khu vực trung tâm, bao gồm Khu kinh tế Hoa Nam Trung Quốc và toàn bộ Việt Nam Cuối cùng, vành đai mở rộng hay vành đai kinh tế lớn bao gồm phần lớn các tỉnh miền nam Trung Quốc và hầu hết các nước ASEAN.
Liên kết ba vành đai kinh tế là yếu tố quan trọng trong việc phát triển Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng, nằm trong khuôn khổ hợp tác Trung Quốc - ASEAN Việc này giúp hình thành ý tưởng quy hoạch lớn, đồng thời nắm bắt cơ hội tăng cường và thúc đẩy hợp tác giữa hai bên.
Theo tính toán của Trung Quốc, khai thác kinh tế vành đai vịnh Bắc Bộ sẽ tạo điều kiện giao thông thuận lợi và dịch vụ đồng bộ cho trao đổi mậu dịch giữa khu vực Tây Nam Trung Quốc và các nước ASEAN, đặc biệt là Singapore, Malaysia và Thái Lan Khu vực Tây Nam còn chưa được khai thác so với miền Đông, mang lại tiềm năng và cơ hội phát triển lớn hơn, từ đó thu hút đầu tư mậu dịch từ các nước Đông Nam Á Do đó, chính phủ Trung Quốc chú trọng triển khai hợp tác khai thác kinh tế trong khuôn khổ “Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN”, tận dụng ưu thế khu vực Tây Nam để thúc đẩy mối quan hệ hợp tác với các nước liên quan.
Hợp tác kinh tế Vịnh Bắc Bộ mở rộng nhằm thúc đẩy xây dựng cơ sở hạ tầng, lấy kinh nghiệm từ Trung Quốc về việc sử dụng đầu tư chính phủ để thu hút vốn dân Chính phủ Trung Quốc có thể nhanh chóng phát triển hạ tầng bền vững như đường sắt, đường bộ xuyên Á và kho dự trữ dầu mỏ Mặc dù cần nguồn vốn lớn, nhưng việc này sẽ rút ngắn khoảng cách phát triển với các khu vực khác và mang lại hiệu quả kinh tế tổng hợp Do đó, Trung Quốc và các nước xung quanh Vịnh Bắc Bộ đã tích cực hợp tác, với chính phủ Trung Quốc hỗ trợ vốn viện trợ để thu hút doanh nghiệp dân sự thông qua các phương thức như BOT Để đạt hiệu quả trong hợp tác, Trung Quốc đã chỉ đạo xây dựng khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ, lấy Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây làm trung tâm, tập trung tài lực, vật lực và nhân lực cho khu kinh tế trọng điểm này.
Bộ mở rộng từ đó nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế Trung Quốc – ASEAN, đặc biệt là phát triển Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ, phát huy lợi thế vị trí kết nối giữa Trung Quốc và Đông Nam Á Khu vực ven biển này không chỉ thu hút sản phẩm, tài nguyên và lao động từ Tây Nam mà còn gia công và đưa ra thị trường quốc tế, tạo sự lan tỏa từ trong ra ngoài Đồng thời, khu vực này cũng tích cực tiếp nhận nguồn vốn, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý để chuyển dịch vào Tây Nam, thực hiện sự đưa từ ngoài vào trong Nằm sát Vành đai kinh tế phát triển Quảng Đông - Hongkong - Ma Cao và tiếp giáp với vùng Đại Tây Nam, khu kinh tế này kết nối hai khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á với đường thông trên biển thuận lợi, trở thành điểm giao kết ngành nghề, hình thành một khu kinh tế liên hợp bổ sung, lấy các ngành năng lượng chuyên sâu làm hạt nhân.
Hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc cơ hội và thách thức
3.1 Việt Nam trong cơ chế hợp tác Trung Quốc – ASEAN:
Sự hợp tác giữa Trung Quốc – ASEAN và Trung Quốc – Việt Nam có mối quan hệ biện chứng, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển lẫn nhau Quan hệ Trung Quốc – ASEAN không chỉ thúc đẩy bình thường hóa quan hệ Việt – Trung mà còn tăng cường hợp tác kinh tế thương mại giữa hai quốc gia Ngược lại, quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cũng góp phần làm gần gũi hơn mối quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á Hiện nay, hợp tác Việt – Trung đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành công của hợp tác Trung Quốc – ASEAN, đặc biệt thông qua việc thực hiện Khu vực thương mại tự do Trung Quốc – ASEAN (CAFTA).
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn nhất trong việc kết nối quan hệ Trung Quốc – ASEAN nhờ vào vị trí địa-chiến lược, sự gần gũi về văn hóa và ý thức hệ tương đồng với Trung Quốc Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của Việt Nam, cùng với thị trường rộng lớn hơn 80 triệu dân, đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài Do đó, Việt Nam trở thành tâm điểm trong chính sách ngoại giao của cả Trung Quốc và ASEAN, khi cả hai bên đều muốn thâm nhập vào thị trường Việt Nam để hướng tới những thị trường lớn hơn, với Trung Quốc hướng đến ASEAN và ASEAN hướng đến Trung Quốc.
Các chiến lược phát triển kinh tế lớn của Trung Quốc, như "ba ven" và "Đại khai phát miền Tây", có mối liên hệ chặt chẽ với Việt Nam Trung Quốc đang đầu tư mạnh mẽ vào việc hiện đại hóa và công nghiệp hóa miền Tây, tuy nhiên, thị trường tiêu thụ sản phẩm là yếu tố quan trọng hơn cả Việt Nam và các nước ASEAN nổi lên như một thị trường tiềm năng, thúc đẩy quan hệ thương mại với ASEAN cũng là cách để giải quyết đầu ra cho các chiến lược phát triển này Trong khi miền Đông Trung Quốc tiếp cận các thị trường lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản, miền Tây với công nghệ phát triển chậm hơn lại phù hợp hơn với thị trường Đông Nam Á, nơi có yêu cầu thấp hơn.
Việt Nam, với hơn 1000km biên giới tiếp giáp Trung Quốc qua hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây, là cầu nối thuận lợi cho phương châm “hướng về phương Nam” của Trung Quốc Giao thông thuận lợi giữa hai khu vực, đặc biệt là đường bộ từ Vân Nam đến cảng Hải Phòng, ngắn hơn nhiều so với đến cảng Phòng Thành, tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa Ý tưởng “hai hành lang một vành đai” phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của cả hai nước, trong đó Vân Nam được ưu tiên trong chiến lược “Đại khai phát miền Tây” của Trung Quốc Việt Nam, với vị trí địa lý và quan hệ kinh tế phát triển, được xem là điểm trọng yếu trong hợp tác kinh tế với ASEAN của Vân Nam Hành lang kinh tế này có tiềm năng lớn hơn so với các kết nối với Lào và Myanmar, và nhiều chuyên gia Trung Quốc đã bắt đầu xem xét việc sử dụng Việt Nam để thúc đẩy quan hệ kinh tế với Lào Chính sách ưu tiên của Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc và phát triển vùng sâu, vùng xa tạo nền tảng cho việc hình thành hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng Đây không chỉ là cơ chế hợp tác thông thường mà còn là bước đột phá để thúc đẩy CAFTA và hướng tới hình thành khu vực mậu dịch tự do toàn Đông Á.
Việt Nam, với vị trí địa chiến lược và sự gần gũi với Trung Quốc, đang có cơ hội lớn để trở thành cầu nối giữa hai thị trường lớn là Trung Quốc và ASEAN Các cơ chế hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc là minh chứng cho khả năng này Nếu thành công, những cơ chế này sẽ tạo điều kiện liên thông giữa thị trường Trung Quốc và ASEAN, góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa hai bên và tiến tới một thị trường thống nhất trong khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (CAFTA).
Việt Nam đóng vai trò cầu nối quan trọng trong quan hệ kinh tế giữa Trung Quốc và ASEAN, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế vùng biên giới phía Bắc Tuy nhiên, điều này cũng mang đến nhiều thách thức mà Việt Nam cần phải vượt qua để thực hiện thành công các cơ chế hợp tác, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.
3.2 Các cơ chế hợp tác Việt Nam – Trung Quốc thông qua Quảng Tây:
3.2.1: Hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh:
Hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh đang có nhiều điều kiện thuận lợi nhờ vào cơ sở hạ tầng cửa khẩu phát triển Dọc theo biên giới dài 637 km, có 5 cặp cửa khẩu cấp một và nhiều cửa khẩu cấp II, chợ đường biên, tạo nền tảng cho hợp tác kinh tế mậu dịch Trong những năm gần đây, Quảng Tây và Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong thương mại biên giới, với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Quảng Tây và ASEAN đạt 826 triệu USD, trong đó Việt Nam chiếm 660 triệu USD Mậu dịch giữa hai bên chủ yếu là tiểu ngạch biên giới, chiếm 81,06% tổng kim ngạch Việt Nam liên tục là đối tác thương mại lớn nhất của Quảng Tây trong khu vực Đông Nam Á, và vào năm 2007, Việt Nam là nước nhập khẩu hàng hóa lớn nhất từ Quảng Tây trong số các quốc gia Đông Nam Á.
Bản đồ: Hai hành lang 1 vành đai trong hợp tác kinh tế Việt - Trung
Việt Nam và Trung Quốc sở hữu tiềm năng du lịch phong phú với các điểm đến nổi tiếng như vịnh Hạ Long, Quế Lâm và bãi biển Bắc Hải Cả hai quốc gia đều có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, trong đó mỏ than Hòn Gai của Việt Nam được biết đến toàn cầu Để tối ưu hóa việc sử dụng nguồn tài nguyên và điều kiện tự nhiên thuận lợi, hai nước đang hợp tác xây dựng hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.
Hợp tác giao thông giữa Nam Ninh và Hà Nội đang thúc đẩy vận chuyển hành khách và hàng hóa quốc tế Việc thông tuyến đường sắt từ Quế Lâm đến Hà Nội, Hải Phòng và Hạ Long sẽ tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và du lịch giữa hai bên Câu nói của Trung Quốc “muốn làm giàu, đầu tiên phải làm đường” nhấn mạnh tầm quan trọng của hạ tầng giao thông trong phát triển kinh tế Quốc lộ 1B từ Hà Nội đi Lạng Sơn đã hoàn thành, và Quảng Tây đã xây dựng đường cao tốc dài 180 km từ Nam Ninh đến Hữu Nghị Quan, kết nối với quốc lộ 1B của Việt Nam Việc thông tuyến quốc tế Nam Ninh – Hà Nội sẽ thúc đẩy trao đổi hàng hóa và hành khách, giảm chi phí vận chuyển và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Hợp tác du lịch giữa Quảng Tây và Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với nhiều tuyến đường du lịch đã được thiết lập, tạo nền tảng vững chắc cho sự kết nối và phát triển du lịch giữa hai bên.
Từ Đông Hưng, du khách có thể xuất cảnh để khám phá các điểm đến nổi tiếng như Hạ Long, Hải Phòng và Hà Nội Sau khi hoàn thành hành trình, du khách sẽ trở về Đông Hưng Tương tự, từ Bằng Tường, hành trình thăm Hà Nội, Hải Phòng và Hạ Long cũng mang lại những trải nghiệm thú vị trước khi trở lại Bằng Tường.
Du khách có thể xuất phát từ thành phố Bắc Hải hoặc cảng Phòng Thành, sử dụng tàu cánh ngầm để đến Hạ Long, sau đó tiếp tục hành trình đến Hải Phòng và Hà Nội, trước khi trở về nơi xuất cảnh Du khách Việt Nam với visa du lịch có thể đến Nam Ninh, Quế Lâm, Bắc Hải và các điểm du lịch khác, trong khi du khách Trung Quốc có visa du lịch có thể thăm Lạng Sơn, Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh Từ ngày 12/9/2004, khi Việt Nam cho phép du khách Trung Quốc có visa thăm tất cả các tỉnh thành, đã có khoảng 150.000 lượt du khách Trung Quốc đến Việt Nam chỉ trong vòng 20 ngày, gấp gần hai lần so với các tháng đầu năm 2004 Vì vậy, việc xây dựng hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh cần ưu tiên hợp tác du lịch.
Hợp tác kinh tế cửa khẩu là một trọng tâm trong hành lang kinh tế giữa Quảng Tây và Việt Nam Kể từ những năm 90 của thế kỷ XX, Quảng Tây đã tích cực triển khai hợp tác kinh tế mậu dịch biên giới với Việt Nam, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của cả hai bên Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc này, hai bên đã đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng cửa khẩu, cả về phần cứng lẫn phần mềm, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác kinh tế mậu dịch trong tương lai.
Tiếp sau đó là hợp tác về đầu tư, hợp tác đầu tư giữa Quảng Tây và Việt Nam có thể kể đến những hạng mục sau:
Hợp tác xây dựng nhà máy thuỷ nhiệt điện cung cấp cho sản xuất và sinh hoạt, cũng có thể bán cho Quảng Tây, Quảng Đông của Trung Quốc
Gia công nông, lâm, hải sản, khoáng sản và bảo quản hoa quả tươi là những lĩnh vực quan trọng tại Việt Nam Thị trường Việt Nam hiện đang có nhu cầu lớn về các loại máy cơ giới nông nghiệp, đồ dùng gia dụng, nguyên liệu hóa học và các loại giấy Hợp tác sản xuất trong các lĩnh vực này sẽ mang lại nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế.
Thủ phủ Nam Ninh của khu tự trị dân tộc Choang Quang Tây hiện đang trở thành trọng điểm đầu tư của Trung Quốc, được xem là trái tim của khu vực Đại Tây Nam và là cửa ngõ ra thế giới Trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và ASEAN, Nam Ninh giữ vai trò quan trọng, đặc biệt với Hội chợ Trung Quốc – ASEAN được tổ chức hàng năm tại đây Hành lang kinh tế Nam Ninh – Lạng Sơn – Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh là một trong những cửa ngõ chính của Nam Ninh, kết nối khu vực Tây Nam Trung Quốc với ASEAN thông qua Việt Nam.
3.2.2 Vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ: