Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trước năm 1975, đã có nhiều tài liệu như bộ thông sử, giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên đề, hồi ký cách mạng và các bài báo trong và ngoài nước đề cập đến công nhân cao su, đặc biệt là công nhân Biên Hòa - Bà Rịa Trong số đó, các bài báo tiếng Pháp như Le Caoutchouc De đã ghi nhận nhiều khía cạnh về cuộc sống và công việc của họ.
Platation, Hà Nội 1904 của Henri Brenier; Economic Agricolede L’Indochine,
Hà Nội 1932 của Yves Henry và Probèmes Du Travail en Indochine của Goudal, cùng với các tờ báo như Climats, Echo Annamite, La Volonté Indochinoise, Tiếng Dân, và Phụ Nữ Tân Văn, đã nêu bật chế độ mộ phu cao su, chính sách cai trị của thực dân Pháp, và hoàn cảnh sống khó khăn của công nhân cao su Những nguồn tài liệu này cũng ghi nhận các cuộc đấu tranh của công nhân cao su tại các đồn điền ở Nam Bộ.
Sau này, nhiều công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam đã được công bố, nổi bật là bộ “Lịch sử giai cấp công nhân” của giáo sư Trần Văn Giàu, xuất bản năm 1958 Tiếp theo là tập sách “Máu trắng máu đào” của Diệp Liên Anh (1963) và cuốn “Phú Riềng Đỏ” của Trần Tử Bình (1965), cùng với tác phẩm “Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam” của Ban sử hiện đại, Viện Sử học, Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội.
Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhiều công trình nghiên cứu đã được thực hiện về lịch sử đội ngũ công nhân, đặc biệt là công nhân cao su Giáo sư Trần Văn Giàu đã cho ra mắt bộ sách quan trọng như “Giai cấp công nhân Việt Nam - Sự hình thành và phát triển” và “Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng Sản thành lập đến cách mạng thành công” Ngoài ra, các tác phẩm khác như “Giai cấp công nhân và liên minh công nông” của Lê Duẩn và “Giai cấp công nhân Việt Nam trước khi thành lập Đảng” của Ngô Văn Hòa - Dương Kinh Quốc cũng đã đóng góp nhiều vào việc nghiên cứu Văn Tạo trong tác phẩm “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam” đã phân tích vai trò và đặc điểm của giai cấp công nhân qua các thời kỳ lịch sử Bên cạnh đó, một số sách và bài nghiên cứu từ các tạp chí chuyên ngành cũng đề cập đến đội ngũ công nhân cao su ở miền Đông Nam Bộ và Đồng Nai.
Để đáp ứng yêu cầu giáo dục truyền thống cho đội ngũ công nhân cao su, một số tài liệu đã được biên soạn lại dưới dạng sách sự kiện và hồi ký, phản ánh phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Đồng Nai và miền Đông Nam Bộ Trong số đó, có cuốn “Đất đỏ miền Đông” của Lê Sắc Nghi, xuất bản năm 1980, và cuốn “Phong trào cách mạng của công nhân cao su miền Đông Nam Bộ” của Thành Nam, phát hành bởi Nhà xuất bản Lao Động, Hà Nội năm 1982.
Trong những năm gần đây, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường Vụ Tỉnh ủy Đồng Nai, nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử truyền thống của công nhân cao su tại địa phương đã được xuất bản Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm: “Những chặng đường đấu tranh cách mạng của công nhân cao su Đồng Nai” (1985), “Từ đồn điền Cuộc-Tơ-Nay đến nông trường Cẩm Mỹ” (1987), “Xà Bang xưa và nay” (1990), và “Phong trào công nhân cao su Bình Sơn” (1993).
Ngoài ra, còn tồn tại một số tập sách nghiên cứu về lịch sử truyền thống của địa phương, đặc biệt liên quan đến phong trào công nhân cao su.
Lịch sử cách mạng của huyện Xuân Lộc, Xuyên Mộc kháng chiến, Châu Thành chiến đấu và xây dựng, cùng với 55 năm thành phố Biên Hòa, là những mốc quan trọng trong quá trình phát triển của Đồng Nai Lịch sử Đảng bộ huyện Tân Phú và những trang truyền thống của Xuân Lập cũng góp phần tạo nên bức tranh tổng thể về 30 năm chiến tranh giải phóng tại địa phương Năm 1993, theo Nghị quyết Đại hội đại biểu công đoàn ngành Cao su Việt Nam lần thứ II, Tổng cục Cao su đã công bố công trình nghiên cứu “Lịch sử phong trào công nhân cao su Việt Nam 1906-1990” do giáo sư Huỳnh Lứa chủ biên, phản ánh đầy đủ phong trào đấu tranh cách mạng của đội ngũ công nhân cao su qua các thời kỳ lịch sử.
Vào tháng 1 năm 2000, Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành cuốn “100 năm cao su ở Việt Nam” của Đặng Văn Vinh, một công trình nghiên cứu phong phú nhằm cung cấp tài liệu cho những người làm việc và nghiên cứu về cao su thiên nhiên, đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn về ngành kinh tế kỹ thuật này Ngoài ra, đã có nhiều nghiên cứu khoa học về đội ngũ công nhân cao su Đồng Nai, như luận án tiến sĩ của Trần Toản về sự hình thành và phát triển của đội ngũ này từ 1906 đến 1991 Năm 2003, Liên đoàn Lao động tỉnh Đồng Nai cũng xuất bản cuốn “Lịch sử giai cấp công nhân ở Đồng Nai”.
Mặc dù nhiều công trình đã đề cập đến phong trào công nhân cao su, hầu hết chỉ dừng lại ở những năm 80 Chưa có nghiên cứu nào tiến hành một cách hệ thống và toàn diện từ năm 1986 cho đến nay.
Các nghiên cứu nêu trên cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho việc định hướng trong quá trình tác giả nghiên cứu đề tài “Sự phát triển của đội ngũ công nhân cao su Đồng Nai thời kỳ đổi mới (1986 - 2006)”.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
Luận văn áp dụng phương pháp luận sử học Mác - xít, kết hợp giữa phương pháp lịch sử và phương pháp logic để nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của công nhân cao su qua các thời kỳ lịch sử Mỗi giai đoạn được phân tích dựa trên sự phát triển kinh tế - xã hội, nhằm làm rõ sự vận động và xu hướng phát triển của đội ngũ công nhân này Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp hỗ trợ như phân tích, tổng hợp, so sánh và nghiên cứu tài liệu từ các nguồn tư liệu thành văn cũng như điền dã tại các đồn điền cao su, nhằm đánh giá thực trạng đội ngũ công nhân và phong trào công nhân cao su, cùng với các hoạt động xã hội - chính trị của họ trong bối cảnh tác động từ nhiều yếu tố khác.
* Tài liệu phục vụ được khai thác và sử dụng trong luận văn gồm những nguồn chủ yếu:
Các tài liệu và công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài đang được lưu trữ tại nhiều địa điểm, bao gồm Trung tâm lưu trữ Quốc gia II tại TP.HCM, Thư viện Khoa học xã hội và Nhân Văn trường Khoa học xã hội & Nhân văn, Thư viện Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu cao su, Liên đoàn Lao Động tỉnh Đồng Nai, Thư viện tỉnh Đồng Nai, và văn phòng công ty cao su Đồng Nai.
Các nghị quyết và chỉ thị của Đảng và nhà nước liên quan đến ngành cao su, cùng với số liệu trong niên giám thống kê, đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá hoạt động của Công ty cao su Đồng Nai Thông tin này được lưu trữ tại văn phòng Tập đoàn cao su Việt Nam, Liên đoàn lao động tỉnh Đồng Nai và Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, giúp cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình và phát triển của ngành cao su.
Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai và Đảng bộ công ty cao su Đồng Nai qua các thời kỳ, cùng với các văn bản, nghị quyết và báo cáo tổng kết hoạt động sản xuất kinh doanh, phong trào công nhân, công đoàn của công ty cao su Đồng Nai và các nông trường, nhà máy trực thuộc, đều được lưu trữ tại văn phòng Ngoài ra, các bản tin, báo, tạp chí của Tổng công ty cao su Đồng Nai cũng được ấn hành và lưu giữ.
Công ty cao su Đồng Nai và văn phòng các công trường nhà máy trực thuộc Công ty cao su Đồng Nai
− Số liệu, sự kiện thu thập được của tác giả qua nghiên cứu khảo sát thực địa.
Bố cục luận văn
Sự ra đời các đồn điền Cao su ở Biên Hòa
Khi Sài Gòn bị thực dân Pháp chiếm đóng, triều đình Pháp dưới thời Napoleon III đã nhìn nhận đây là một cơ hội quan trọng để tiếp cận thị trường Trung Hoa rộng lớn, đánh dấu một bước tiến lớn trong chiến lược của họ.
Sau khi chiếm được các tỉnh ở Nam Kỳ, với ý đồ thực dân trước những tài nguyên vô cùng phong phú của đất nước ta, chúng muốn biến Nam
Kỳ thành một thuộc địa như Algerie mà thực dân Pháp vừa thôn tính năm
Năm 1857, việc chiếm Nam Kỳ và đồng bằng sông Cửu Long đã giúp thực dân Pháp kiểm soát vựa lúa và mở rộng giao thương với Trung Quốc, thể hiện “mộng bá chủ” đầu tiên của họ Họ nhắm đến việc phát triển các sản phẩm như lúa gạo, đường, thuốc lá, bông vải, chàm nhuộm, dầu dừa và mè, với mong muốn cải tiến phương thức sản xuất lạc hậu Đến năm 1865, Pháp thành lập “Ủy Ban Nông Công nghiệp Nam Kỳ” nhằm tìm kiếm và xác định giá trị tài nguyên của thuộc địa Tuy nhiên, mục tiêu chính của họ là khai thác các sản phẩm có sẵn, trong khi việc trồng trọt và sản xuất chỉ là thứ yếu, cho thấy sự ưu tiên của họ trong việc khai thác thuộc địa một cách hiệu quả.
Sau 35 năm thành lập “Ủy Ban Nông Công nghiệp Nam Kỳ”, nền sản xuất nông nghiệp tại đây vẫn chưa có nhiều tiến triển, chỉ có một số ít nhà tư bản thử nghiệm trồng các cây có giá trị cao như cà phê, ca cao và cao su, trong đó cà phê được chú trọng nhất Mặc dù cây cao su đã được trồng thử nghiệm từ năm 1846 và được các công hàm lãnh sự Pháp tại Indonesia nhấn mạnh về tầm quan trọng, nhưng đến năm 1913, diện tích trồng cao su chỉ đạt 1.300ha trên tổng số 3.000.000ha đất được cấp, tức chỉ 10% diện tích được khai thác cho cây cao su Điều này cho thấy rằng chỉ một phần rất nhỏ diện tích được thử nghiệm nhằm tìm ra cây trồng phù hợp cho mô hình khai thác thuộc địa hiệu quả Số vốn đầu tư từ tư bản Pháp chủ yếu dựa vào phương thức bóc lột phong kiến, với chế độ canh tác thu tô được coi là phương thức kinh tế hiệu quả nhất để giảm chi phí giám sát và chi phí chung tại thuộc địa.
Các cuộc thử nghiệm đầu tiên giữa nhà nước và tư nhân đã được tiến hành, với 1000 cây được trồng trên 8,5ha tại trạm thực nghiệm ông Yêm ở Bến Cát, do ông Raoul phụ trách Ngoài ra, 200 cây được ươm trồng ở Suối Dầu Nha Trang dưới sự giám sát của bác sĩ Dr A Yersin, và 200 cây khác được thử nghiệm trồng ở Thủ Đức dưới tán rừng thưa bởi ông Canavaggio, nhằm khảo sát sự phát triển trên nhiều loại đất khác nhau.
Vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là Biên Hòa, rất thích hợp cho việc trồng các loại cây công nghiệp như cao su và cà phê Biên Hòa có vị trí chiến lược về quân sự và kinh tế, là cửa ngõ phía Đông - Nam của Sài Gòn, trung tâm kinh tế và chính trị của Nam Bộ, đồng thời nối liền với khu vực giữa cực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên Hệ thống giao thông phát triển đồng bộ, với đường sắt kết nối Sài Gòn - Biên Hòa - Bà Rịa - Vũng Tàu đã được đưa vào khai thác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa nông sản giữa Biên Hòa và thương cảng Sài Gòn, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ I.
Khí hậu Biên Hòa tương đối thuận hòa, thuộc vùng khí hậu Á nhiệt đới với hai mùa rõ rệt và lượng mưa trung bình 2.200mm/năm, ít thiên tai Địa hình và địa chất màu mỡ với đất xám và đất đỏ Bazan chiếm hơn 64% diện tích tự nhiên Nhiệt độ dao động từ 24°c đến 29°c, độ ẩm trung bình từ 75% đến 80% Từ năm 1904, các nhà tư sản thực dân đã khảo sát và xây dựng cơ sở hạ tầng để lập đồn điền, đặc biệt là ở Biên Hòa và Bà Rịa, nơi trồng cao su được khai thác sớm nhất Những đồn điền nhỏ đã góp phần lớn vào việc thử nghiệm trồng cây cao su, củng cố vị trí và phát triển ngành công nghiệp cao su tại Việt Nam.
- ngành công nghiệp cao su trên đất nước Việt Nam
Từ năm 1897 đến 1906, sau khi thành công trong việc trồng thử nghiệm, tư bản thực dân Pháp đã đầu tư vốn để thành lập các công ty và mở các đồn điền trồng cao su tại Nam Bộ.
Thời kỳ phát triển cao su của Việt Nam bắt đầu từ năm 1907 với sự ra đời của công ty Nông nghiệp Suzannah (Dầu Giây), đánh dấu bước ngoặt quan trọng cho ngành cao su Việt Nam Năm 1907, công ty có vốn 150.000 đồng, và đến năm 1908, vốn đã tăng lên 300.000 đồng Trong khoảng thời gian từ 1906 đến 1909, diện tích khai phá của công ty đã đạt 580ha, trong đó trồng được 308ha với 140.000 cây cao su.
Từ năm 1908, việc trồng cây cao su được quy hoạch kỹ thuật với mật độ 450 cây trên 1ha, trồng theo từng lô khoảng 18ha, có lối đi 5m và được rào chắn bằng dây kẽm gai Đồn điền lớn thứ hai sau Suzannah là Xã Trạch, thuộc sở hữu của ông Haffner, cựu giám đốc Thảo Cầm Viên Sài Gòn, đã mở đầu cho việc khai thác vùng đất đỏ tại Nam Sông Bé (Bình Dương) và Bến Tre (tỉnh Bình Long cũ).
Năm 1909, công ty các đồn điền Baria được thành lập với vốn của những người Pháp làm ăn ở Thượng Hải (từ 3 triệu francs tăng lên 10 triệu francs trong năm 1909)
Năm 1910 chứng kiến sự ra đời của công Sté des caoutchoucs de I’Indochine, với vốn của tư bản chính quốc
Cũng trong năm này, Công ty Cao su Đồng Nai và công ty Nông nghiệp Thành Tuy Hạ cũng được thành lập
Tính đến đầu năm 1910 diện tích cao su được trồng ở Biên Hoà và Bà Rịa lên tới 500ha trong tổng số 1.500ha ở miền Đông Nam Bộ
Từ năm 1910 trở đi, có thêm một số công ty cao su được thành lập và mở đồn điền trên địa bàn tỉnh Biên Hòa - Bà Rịa:
Công ty cao su Long Thành được thành lập bởi hai ông Mottet và Feraudy cùng một số thành viên khác với số vốn 90.000 đồng Công ty bắt đầu khai thác 400ha cao su trong tổng số 2.000ha đất được nhượng lại tại quận Long Thành, cách Sài Gòn 58km về phía Đông Nam.
Công ty Bình Trước, do ông Vallon sáng lập và giữ chức giám đốc, được thành lập với số vốn ban đầu 90.000 đồng, chia thành 20 cổ phần Công ty đã khai thác 400ha đất để trồng cao su.
Công ty Xuân Lộc, được thành lập bởi các ông Cremary và Baudot với vốn đầu tư 80.000 đồng, dự kiến sẽ trồng 50ha trong tổng số 1800ha đất nhượng quyền tại quận Xuân Lộc, cách Sài Gòn 81km về phía Đông Bắc vào năm 1910.
Công ty Nông Nghiệp và Kỹ Nghệ Cam Tiêm, do ông Cibot thành lập, có diện tích 1.518,40ha và tọa lạc ở phía Tây liên tỉnh lộ số 2, thuộc tổng công ty Cơ Trạch, tỉnh Bà Rịa.
Trước chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), Biên Hòa và Bà Rịa đã chứng kiến sự phát triển của nhiều đồn điền cao su do các công ty tư bản Pháp thành lập Công ty cao su Đồng Nai (le Caoutchouc du Dona - L.C.D), tiền thân là công ty kỹ nghệ và rừng Biên Hòa, được thành lập năm 1908 tại Paris với mục tiêu khai thác đồn điền cao su, cây có dầu và nứa ở Đông Dương Vốn ban đầu của công ty là 500.000 Fr, và đã tăng lên 2.000.000 Fr vào năm 1911 và 6.000.000 Fr vào năm 1919 Công ty chủ yếu trồng cao su tại Biên Hòa, nơi có ba đồn điền nổi bật: Trảng Bom, Túc Trưng và cây Gáo.
Công ty đồn điền Đất Đỏ (Plantations Des Terres Rouges – SPTR) được thành lập vào năm 1910 tại Sài Gòn, chuyên khai thác các đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một, Biên Hòa và Bà Rịa Vốn ban đầu của công ty là 2.300.000Fr, với 23.000 cổ phần, mỗi cổ phần trị giá 100Fr Đến năm 1923, vốn đã tăng lên 36.000.000Fr, năm 1925 đạt 46.000.000Fr và đến năm 1935, con số này đã lên tới 110.000.000Fr.
Sự hình thành và phát triển đội ngũ công nhân Cao su Biên Hòa
Cùng với sự hình thành ngành kinh tế cao su ở Việt Nam, lớp công nhân cao su đầu tiên cũng bắt đầu xuất hiện
Năm 1907, thực dân Pháp thành lập đồn điền Suzannah (Dầu Giây), đánh dấu sự ra đời của đồn điền trồng cao su đầu tiên tại quận Xuân Lộc, tỉnh Biên Hòa Để khai thác rừng và xây dựng đồn điền, chủ tư bản Pháp chủ yếu sử dụng lao động tại chỗ và thuê mướn nhân công từ các địa phương lân cận Việc khai phá đất chủ yếu dựa vào sức lao động thủ công do giá nhân công bản xứ rẻ, trong khi máy móc chưa được áp dụng nhiều vì không mang lại hiệu quả kinh tế.
Vào đầu thế kỷ XX, dân cư tại khu vực này vẫn còn thưa thớt, với tổng dân số toàn quận chỉ khoảng 10.000 người vào năm 1910 Thông tin này được ghi nhận trong báo cáo của trưởng sở Nông nghiệp Nam Kỳ gửi đến thống đốc Nam.
Vào ngày 29-3-1910, đồn điền cao su Suzannah không chỉ có lao động người An Nam mà còn có người Hoa và các dân tộc thiểu số Mỗi công nhân nhận được tiền công 40 xu và 5 xu tiền gạo (800g) mỗi ngày Nhiều nhà lớn đã được xây dựng để phục vụ cho công nhân, bao gồm nơi ở, chỗ chứa hàng, trạm xá và chuồng bò.
Năm 1910, đồn điền Suzannah (Dầu Giây) đã có từ 350 đến 400 công nhân làm việc, chịu trách nhiệm chăm sóc 308ha cao su được trồng trong các năm trước đó.
Số lao động tại địa phương không đủ để đáp ứng nhu cầu khai thác đất trồng cao su của các chủ đồn điền Vì vậy, vào năm 1911, dưới sự tác động của linh mục Pháp Actip, một cộng đồng gồm khoảng 40 nông dân từ làng Trí Bưu, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị đã đăng ký làm phu đồn điền.
Cũng như đồn điền Suzannah ở Dầu Giây, các đồn điền khác như An Lộc, Bình Lộc, Hàng Gòn, Trảng Bom, Túc Trưng, Cây Gáo (tỉnh Biên Hòa) và Bình Đa, Cẩm Mỹ, Cam Tiêm (tỉnh Bà Rịa) chủ yếu sử dụng lao động là cư dân địa phương kết hợp với việc thuê công nhân từ các khu vực lân cận.
Từ năm 1907 đến 1918, nhu cầu lao động tại các đồn điền cao su ở Biên Hòa và Bà Rịa tăng cao do sự mở rộng và thành lập mới nhiều đồn điền Để đáp ứng nhu cầu này, các chủ đồn điền đã chiêu mộ công nhân từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc để chăm sóc vườn cây và khai thác, sơ chế mủ.
Thời gian đầu, mối quan hệ giữa người chủ và người lao động rất lỏng lẻo, với người làm thuê thường chỉ làm việc theo nhu cầu cá nhân mà không có ràng buộc về công việc hay tiền lương Họ có thể nghỉ việc khi muốn hoặc di chuyển đến nơi khác nếu công việc không đáp ứng được nhu cầu Tuy nhiên, tình trạng này dẫn đến thiếu hụt lao động tại các đồn điền lớn Để giải quyết vấn đề này, viên chánh thanh tra Desrousseaux đã đề xuất với toàn quyền Đông Dương rằng để tránh khan hiếm nhân công, cần bần cùng hóa nông thôn và hạ giá sản phẩm nông nghiệp Thực hiện chiến lược này, các đồn điền cao su ở Biên Hòa đã thu hút hàng ngàn lao động từ các làng quê miền Bắc và miền Trung, những người bị ràng buộc bởi hợp đồng.
Năm 1914, 31 công nhân giao kèo đầu tiên từ các tỉnh Nam Định, Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình và Ninh Bình đã đến đồn điền Courternay (Cẩm Mỹ) Cùng năm đó, 256 người lao động từ Quảng Nam và Quảng Ngãi cũng đã đến làm việc tại sở Hàng Gòn.
Tháng 11-1918, toàn quyền Đông Dương ký nghị định về việc tuyển mộ lao động cho các đồn điền Nam Bộ Nguồn lao động cung cấp cho các đồn điền lớn đa số là chiêu mộ ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung Thực dân Pháp thực hiện chính sách thâm độc: xu cao, thuế nặng, cho vay nặng lãi… bần cùng hóa đông đảo nông dân Điều tất nhiên phải đến: ruộng đất ít ỏi của nông dân nhanh chóng rơi vào tay địa chủ, tư bản, nhà Chung Hàng trăm ngàn nông dân Bắc Kỳ và Trung Kỳ trở thành cu li mỏ hoặc phu Contract đồn điền Nam Kỳ như thế đó!
Từ năm 1910 đến 1918, các đồn điền An Lộc, Bình Lộc, Cam Tiêm và Bình Đa đã chiêu mộ hàng trăm công nhân cao su từ các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Sự mở rộng chiếm đóng của thực dân Pháp tại Biên Hòa đã tạo điều kiện cho việc tuyển dụng này.
Năm 1861, nông dân 74 thôn làng gần nơi địch đóng đã rời bỏ quê hương, thể hiện tinh thần yêu nước không chấp nhận sống chung với giặc Nhà cầm quyền lợi dụng tình hình, tuyên bố ruộng đất ở những khu vực này vô chủ và “nhượng” cho tư bản hoặc tay sai với giá rẻ mạt Nhiều nông dân còn bị chủ điền, cường hào, và quan lại lợi dụng thiên tai, mất mùa, hoặc bệnh tật để chiếm đoạt ruộng đất Tại các vùng đất đỏ, đồng bào dân tộc thiểu số như Ch’ro, Mạ, STiêng, K’ho bị đuổi khỏi quê hương để nhường chỗ cho các đồn điền Người nông dân Biên Hòa, bao gồm cả dân tộc thiểu số, mất hết tài sản và chỉ còn hai lựa chọn: ở lại làm tá điền hoặc rời quê ra đô thị để bán sức lao động trong các nhà máy, xưởng thợ, và đồn điền.
Trong việc mộ phu thì dân Bắc Kỳ được giới tư bản Pháp ưa chuộng
Người Bắc Kỳ thể hiện sức khỏe vượt trội so với dân Trung Kỳ và Nam Kỳ, có khả năng chịu đựng công việc nặng nhọc, đặc biệt là trong các hoạt động khai hoang và trồng trọt tại những nhượng địa trong rừng Họ gần như độc quyền mở rộng khoảng 70.000ha cao su mới ở miền Nam Đông Dương trong giai đoạn từ 1925.
Năm 1929, nếu không có nguồn lực lao động này, việc khai thác một diện tích đất đai đáng kể trong thời gian ngắn như vậy sẽ không thể thực hiện được.
Như vậy, có thể nói tầng lớp công nhân Biên Hòa hình thành từ các nguồn:
- Nông dân địa phương Biên Hòa
- Đồng bào dân tộc ít người còn ở trong tình trạng bộ lạc, thị tộc
- Nông dân lao động miền Bắc và miền Trung vào
- Thợ thủ công phá sản
Khác với các đồn điền lúa ở Nam Kỳ, các đồn điền cao su ban đầu được đầu tư máy móc hiện đại như máy cày và máy tưới Theo báo cáo của sở nông nghiệp Nam Kỳ ngày 29-03-1910, đồn điền Suzannah (Dầu Giây) sử dụng các công cụ máy móc hoàn hảo, cho phép cày sâu từ 30-32cm và một thợ có thể cày được 10ha trong một tháng với chi phí 40 đồng/ha Để khai thác hiệu quả công nghệ này, các chủ đồn điền đã tuyển mộ và đào tạo người Hoa và người Việt, tạo ra lực lượng lao động chuyên nghiệp đầu tiên trong ngành trồng cao su.
PHONG TRÀO CÔNG NHÂN CAO SU BIÊN HÒA TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1975
Phong trào đấu tranh của công nhân Biên Hòa trong đấu tranh giành độc lập dân tộc (1930 – 1945)
Công nhân cao su sống trong tình cảnh cùng cực và bi đát dưới chế độ thực dân, với nhiều quy định khắc nghiệt Theo nghị định ngày 25-10-1927, họ chỉ được làm việc tối đa 10 giờ mỗi ngày, bao gồm cả thời gian đi và về, và chỉ được nghỉ 1 ngày mỗi tuần hoặc 2 ngày trong 2 tuần Trong dịp Tết, công nhân được nghỉ 4 ngày, cùng với ngày mùng 5 tháng 5 và rằm tháng 7 âm lịch cũng được nghỉ Chủ đồn điền đảm bảo cho mỗi công nhân tối thiểu 25 công mỗi tháng, và phụ nữ sau khi sinh con được nghỉ 1 tháng với chế độ lương.
Viên thanh tra Do Lama đã công bố một bài viết trên tờ Phục Sinh vào tháng 12 năm 1928 và tháng 2 năm 1929, trong đó ông ghi nhận rằng lời khai của những người phu đều nhất trí về giờ lao động Cụ thể, họ phải dậy lúc 3 giờ sáng, tập hợp lúc 4 giờ sáng, và do số lượng phu đông đảo, giờ khởi hành không thể trước 4 rưỡi Trong suốt một ngày làm việc, họ chỉ được nghỉ 1 tiếng rưỡi giữa buổi, và hầu hết đều cho rằng phải đến tối mịt mới có thể trở về nhà Điều này có nghĩa là công nhân cao su phải làm việc từ 13 đến 14 giờ mỗi ngày, dẫn đến việc họ thường nói rằng công việc của họ kéo dài từ sáng sớm đến tối muộn.
“Con không biết mặt cha Chó không biết mặt chủ nhà”
Trong giai đoạn 1928-1930, công nhân cạo mủ cao su phải làm việc vất vả với mức lương thấp 30 xu, sau đó tăng lên 35 xu/ngày, nhưng thường xuyên bị cúp lương và phạt Ngày lãnh lương trở thành nỗi lo sợ của họ, vì không chỉ lương ít ỏi mà còn có khả năng bị thiếu do các trò cờ bạc và rượu chè Thủ đoạn cúp lương của bọn tư bản nhằm làm cho công nhân không còn tiền để trở về quê sau khi hết hạn hợp đồng Một ký giả người Pháp đã mô tả cảnh công nhân nhận lương với hình ảnh những thân hình gầy còm, đi lại yếu ớt, thể hiện sự khốn khổ và căng thẳng của họ trong ngày lĩnh lương.
Trong bản contract, người phu đặt tay vào ký hoặc lăn tay có ghi :
Ngoài mức lương hàng ngày, người lao động hợp đồng còn được hưởng chế độ dinh dưỡng bao gồm 800gr gạo tốt mỗi ngày, cùng với 200gr thịt tươi, 400gr cá tươi, 300gr rau xanh, 20gr mỡ, 5gr trà, 20gr muối và 15gr nước mắm trong tháng.
Nhưng khi đến đồn điền, gạo tốt đâu không thấy, chỉ thấy ăn toàn gạo ẩm mốc, mùi chua xông lên nồng nặc
Công nhân đang phải đối mặt với tình trạng thiếu thốn nước sinh hoạt và ăn uống Sau một ngày làm việc mệt mỏi, họ trở về trại và phải lê từng bước đến những vũng nước bẩn để rửa mặt, rửa tay và lấy nước nấu ăn.
Thực trạng đó được phản ánh qua lời thơ:
“Ai về đất đỏ Miền Đông,
Mà nghe lao động đồn điền thở than
Than rằng: cực lắm trời ơi!
Dân phu phải sống cuộc đời tối tăm
Cá hôi, gạo mục quanh năm, Vẫn chưa đầy bụng, đói nằm rừng cây
Trời cao, cao mấy tầng mây, Trời cao có thấy nỗi này cho chăng.”
Chế độ làm việc khổ sai và điều kiện sống tồi tàn khiến công nhân cao su phải đối mặt với nhiều bệnh tật như ghẻ lở, lao phổi, sốt rét, phù thủng, dịch hạch và dịch tả Áo quần rách nát không đủ che thân cùng với việc thường xuyên bị đánh đập càng làm tăng nguy cơ đau ốm triền miên.
Trong môi trường làm việc khắc nghiệt và đầy khó khăn, những người nông dân khi chuyển sang giai cấp công nhân đã bắt đầu nhận thức được quyền lợi của mình, mặc dù chưa hoàn toàn tự giác Họ đã đoàn kết lại với nhau dựa trên mối liên hệ đồng hương và hoàn cảnh chung, giúp đỡ nhau trong những lúc khó khăn Sự kết hợp giữa điều kiện lao động khó khăn và truyền thống đấu tranh của dân tộc đã tạo ra một sức mạnh tiềm tàng cho giai cấp công nhân địa phương, sẵn sàng đứng lên đấu tranh khi có cơ hội.
Ngay từ khi hình thành, giai cấp công nhân Biên Hòa đã tiến hành nhiều cuộc đấu tranh tự phát để phản kháng lại sự áp bức và bóc lột của tư bản Pháp Các hình thức phản kháng này rất đa dạng và phổ biến trong thời kỳ đó.
Bỏ trốn là phản ứng phổ biến của những người phu cao su trong giai đoạn đầu thành lập đồn điền, khi họ phải chịu đựng cuộc sống khổ cực như "địa ngục trần gian" Việc ở lại không chỉ khiến họ kiệt quệ mà còn có nguy cơ trở thành nạn nhân của thiên nhiên hoặc bị đày đọa Nhiều phu cao su đã chọn trốn thoát, nhưng phần lớn trong số họ bị bắt lại và chịu đựng sự tra tấn tàn nhẫn Một số ít không may gặp phải hổ báo, trong khi một số khác bị đồng bào thiểu số bắt giữ và giết hại để nhận thưởng.
Tự tử là một hình thức phản kháng tiêu cực xuất phát từ những khó khăn và bi thảm trong cuộc sống, khi mà con đường tìm kiếm lối thoát trở nên quá khó khăn Nhiều người, đặc biệt là những người đau ốm, cảm thấy rằng tự sát là giải pháp duy nhất cho nỗi khổ của họ Hình ảnh những người tự sát, từ nhà ra rừng cao su, luôn gắn liền với mùi hôi thối, phản ánh sự đau khổ và tuyệt vọng trong xã hội.
Tại đồn điền Phú Riềng, công nhân đã thực hiện hành động lười biếng và phá hoại cây cao su giống để ghép, tương tự như những cuộc đấu tranh của công nhân Châu Âu nhằm gây thiệt hại cho chủ Hình thức này tỏ ra hiệu quả hơn, dẫn đến việc chủ phải ban hành lệnh cấm cai, áp dụng hình thức đánh phu và mua chuộc công nhân bằng cách cấp tiền để mua sắm quần áo, mũ mão, cũng như khoán công việc nhằm ngăn chặn tình trạng lười biếng trong lao động.
Vào tháng 7 năm 1927, công nhân đồn điền Phú Riềng đã đứng lên đấu tranh chống lại giám đốc Trie, người đại diện cho chủ tư bản ở Paris, cùng với bọn cai, xu, sếp đã lạm dụng công nhân Vào một buổi sáng tháng 10 năm 1927, công nhân Nguyễn Đình Tư đã sát hại giám đốc Trie trong cuộc điểm danh thường nhật Tuy nhiên, hành động này chưa đủ để đánh bại kẻ thù, vì nó không nhắm đến việc lật đổ toàn bộ bọn thực dân nhằm giải phóng dân tộc.
Tại đồn điền Phú Riềng, Nguyễn Văn Chánh, một người cai công nhân không bạo lực, đã bị chủ sở đánh chết vì sự bất mãn của hắn Một nhóm công nhân tiến bộ và vợ anh Chánh đã khởi kiện tại Tòa án Biên Hòa, nhưng chủ sở đã hối lộ để thoát tội, chỉ bồi thường cho vợ anh 5 đồng Sự bất công này khiến công nhân cảm thấy phẫn uất và bi quan, nhận ra rằng để bảo vệ những người cai như anh Chánh, họ cần tìm một con đường khác.
Dưới sự áp bức của tư bản thực dân, công nhân tại các đồn điền cao su ở Biên Hòa và Bà Rịa sống trong điều kiện cực khổ, thiếu lối thoát Những cuộc đấu tranh ban đầu của họ thường mang tính tự phát và cá nhân, dẫn đến thất bại do thiếu sự kết hợp thành phong trào chung Sự tàn ác của giai cấp thống trị càng kích thích lòng căm phẫn trong công nhân, từ đó nâng cao ý thức giai cấp và tích lũy kinh nghiệm đấu tranh.
Cuối những năm 20 của thế kỷ, sau một thời gian dài đấu tranh tự phát chống lại chế độ hà khắc và sự đối xử dã man tại các đồn điền, phong trào phản kháng đã dần hình thành rõ rệt.
Phong trào đấu tranh của công nhân Biên Hòa trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)
Ngày 23 - 9 - 1945, thực dân Pháp dựa vào quân Anh gây hấn ở Sài Gòn, từ đó mở rộng chiếm đóng trên toàn Nam Bộ
Tướng De Gaulle tuyên bố đưa người Pháp trở lại Đông Dương, đánh dấu sự trở lại của đế quốc Pháp nhằm khai thác các thuộc địa giàu tiềm năng Họ tập trung vào việc khai thác gạo ở Đồng bằng sông Cửu Long và cao su ở Miền Đông Nam Bộ, thể hiện rõ ràng ý đồ của Pháp tại khu vực này.
Bộ bảo vệ các đồn điền cao su của người Pháp tại Nam Bộ, được coi là "cái vú sữa" của chúng ta, đồng thời kiểm soát miền Đông Nam Bộ, vùng chiến lược quan trọng cả trước mắt lẫn lâu dài của Pháp.
Chiếm lại các đồn điền, nhưng trước mắt là cảnh hoang tàn với hơn 37.000ha cao su ở Biên Hòa - Bà Rịa bị hoang hóa từ tháng 3 năm 1945 Các gia đình công nhân đã tản cư về nông thôn hoặc lánh ra rừng, trước khi rời đi, họ đã đốt và phá hủy các cơ sở sản xuất, mang đi những máy móc có thể, còn lại đều bị phá hủy Số công nhân ở lại chỉ còn khoảng 1/3, khiến thực dân tư bản Pháp gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục sản xuất.
Vào giữa năm 1946, các đồn điền cao su Biên Hòa - Bà Rịa đã khôi phục lại bộ máy cai trị và điều hành sản xuất, cho thấy tầm quan trọng của cao su, hay còn gọi là "vàng trắng", trong việc tạo ra lợi nhuận cho giới tư bản tại đây.
Năm 1948, tư bản thực dân đã khôi phục và mở rộng sản xuất cao su tại tỉnh Biên Hòa với tổng diện tích 12.681ha, bao gồm 7 đồn điền cao su.
Sản lượng mủ sản xuất
An Lộc SIPH 1.937 ha Sazannah SIHP 1.765 ha
Bình Lộc 1.084 ha Ông Quế 1.450 ha Đồng Nai 2.425 ha Phước Hòa 1.140 ha Thuận Lợi
Cộng chung 7 đồn điền với 4.000 công nhân, sản xuất được 6.000 tấn/năm
Sách niên giám thống kê của Viện Thống kê và Khảo cứu Sài Gòn từ năm 1949 đến 1954 cung cấp thông tin chi tiết về diện tích cây cao su và tỷ lệ khai thác.
Năm Diện tích cây Diện tích khai thác Tỷ lệ
Trong giai đoạn 1945 – 1954, diện tích cây cao su ở Biên Hòa chưa bao giờ phục hồi về mức trước chiến tranh, mặc dù các chủ đồn điền đã nỗ lực khôi phục ngành cao su Phong trào công nhân cao su đã phát triển mạnh mẽ với nhận thức rõ về kẻ thù và tổ chức lãnh đạo tại các địa phương Lòng yêu nước của công nhân cao su rất cao, nhưng số công nhân mới không đủ bù đắp cho những người đã tham gia kháng chiến Nhiều gia đình công nhân đã chuyển đến sống ở vùng giải phóng, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn và thiếu thốn.
Cuối năm 1947, do khủng hoảng chính trị và kinh tế, cũng như thất bại quân sự tại Việt Nam, Pháp đã thay đổi chiến lược chiến tranh từ nhanh thắng sang lâu dài, kết hợp quân sự, kinh tế và chính trị với chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” và “dùng người Việt đánh người Việt” Trong bối cảnh này, Công đoàn ngành cao su đã chỉ đạo các hoạt động phá hoại kinh tế của địch để ngăn chặn việc thực hiện chính sách này, đồng thời tiếp tục khai thác cao su như một trong những ưu tiên hàng đầu của thực dân Pháp tại Đông Dương.
Cùng với việc phát triển tổ chức công đoàn, phong trào "mặt trận cao su chiến" đã thu hút thanh niên công nhân gia nhập lực lượng Vệ quốc đoàn, tạo nên một sự phát triển mạnh mẽ trên các đồn điền cao su.
Trong giai đoạn 1948-1949, hoạt động phá hoại cao su đã bùng phát mạnh mẽ, với 100% các đồn điền ở miền Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ bị ảnh hưởng nghiêm trọng Giới chủ đồn điền đã bày tỏ lo ngại với tướng Revers trong chuyến thanh tra ở Đông Dương, cho biết sản lượng cao su đã giảm tới 2/3 do công nhân phá hoại và bỏ trốn khỏi đồn điền Mối nguy này có khả năng gia tăng hơn nữa.
Có thể nhìn thấy kết quả công tác phá hoại của công nhân đồn điền cao su miền Đông Nam Bộ trong 2 năm 1948, 1949 như sau:
- Phá 1.952 ha vườn cây; - Vạc vỏ 557 ha vườn cây
- Đốt, đổ 252.797 kg mủ - Chặt 503 ha
- Đập 35.000 chén, máng mủ - Thiệt hại tổng cộng
- Đốt phá 150 nhà và nhiều máy móc
- Đốt 87 ha và 27.000 ha cao su, giá tổng cộng 81.900 đồng
Tại tỉnh Biên Hòa, Bà Rịa, hàng loạt cuộc đấu tranh chính trị đã diễn ra liên tiếp tại các đồn điền cao su Các hình thức đấu tranh rất đa dạng, bao gồm bãi công, mít tinh, và biểu tình nhân các ngày lễ lớn như 1-5, 19-5, và 2-9 Ngoài ra, còn có các buổi tưởng niệm và truy điệu cho các cán bộ công nhân đã hy sinh, cùng với việc phát truyền đơn, treo cờ đỏ sao vàng và dán biểu ngữ khắp nơi trong sở.
Trong 2 năm 1950, 1951 do tác động của cuộc chiến tranh Triều Tiên, giá cao su ở thị trường quốc tế lên rất cao càng kích thích các chủ tư bản đồn điền đầu tư vào việc sản xuất cao su Ngoài việc tận thu mủ trên số diện tích khai thác, trong các năm 1950, 1951, 1952 tư bản Pháp còn tiến hành tái canh trồng mới một số lô cao su đã già cỗi hoặc bị công nhân đốt trụi những năm trước đó Ở các đồn điền Dầu Giây, An Lộc, Hàng Gòn, Courtenay, Cam Tiêm, mỗi nơi chúng trồng thêm từ 100ha đến 300ha cao su, đồng thời phục hồi sản xuất khai thác cao su ở đồn điền An Viễn Đến năm 1950, diện tích cao su toàn Nam Bộ lên đến 63.000ha, trong đó diện tích các đồn điền ở Biên Hòa và Bà Rịa chiếm hơn 16.000ha, chiếm 1/3 sản lượng tổng số cao su khai thác được ở Nam Bộ
Lợi nhuận từ ngành cao su đã đóng góp đáng kể vào ngân sách phục vụ cho chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp tại Đông Dương.
2.3 Công nhân Biên Hòa trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ(
Sau năm năm kháng chiến chống thực dân Pháp, miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng, trong khi miền Nam vẫn là vùng tạm chiếm theo Hiệp định Genève Theo thỏa thuận này, vào tháng 7 năm 1956, sẽ diễn ra hiệp thương tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.
Mặc dù thực dân Pháp phải rút quân khỏi Việt Nam, họ vẫn duy trì nhiều nguồn lợi kinh tế, đặc biệt là từ ngành cao su Các đồn điền cao su lớn vẫn thuộc sở hữu của các công ty tư bản Pháp, cho thấy sự ảnh hưởng lâu dài của thực dân trong lĩnh vực này.
1954 diện tích cao su toàn miền Nam do các công ty tư bản Pháp quản lý là 63.752ha trong đó Biên Hòa - Bà Rịa chiếm 16.274ha