Lịch sử nghiên cứu vấn đề và nguồn tư liệu
Nhiều tác giả trong và ngoài nước đã nghiên cứu về cuộc đấu tranh của quân và dân ta chống lại vũ khí hóa học của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Tại Việt Nam, các công trình như “Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975” của Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), “Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975: Thắng lợi và bài học” của Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh, và “Quá trình cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và quy luật hoạt động của Mỹ – Ngụy trên chiến trường B2” của Phòng Tổng kết địch đã phân tích âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong các giai đoạn thực hiện chiến lược chiến tranh, giúp hiểu rõ hơn về bối cảnh sử dụng vũ khí hóa học.
Nhiều tài liệu từ Mỹ và chính quyền Sài Gòn trong giai đoạn chiến tranh xâm lược Việt Nam đã chỉ ra những chiến lược của địch và các chiến dịch sử dụng vũ khí hóa học Các tài liệu như “Hệ thống tổ chức của Mỹ và Việt Nam cộng hòa trong chiến tranh (1965-1975)” và các phông tài liệu Đệ Nhất cộng hòa từ Phủ Tổng thống và Phủ Thủ tướng Việt Nam cộng hòa tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề này Bên cạnh đó, các tài liệu từ Quốc hội Mỹ như “Congressional Record” cùng với các báo cáo từ Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ và Sứ quán Mỹ tại Sài Gòn cũng là nguồn thông tin quan trọng.
Nhiều tài liệu và công trình từ các nhân vật trong chính giới Mỹ như Kennedy, R.W Kasternmeier, R Hilsman, và các tướng lĩnh đã đề cập đến việc sử dụng vũ khí hóa học trong cuộc chiến tranh Việt Nam Những tài liệu này không chỉ phản ánh quan điểm của chính quyền Sài Gòn mà còn chỉ ra âm mưu và thủ đoạn của Mỹ trong việc áp dụng vũ khí hóa học Đặc biệt, các nghiên cứu như “Chất độc da cam/dioxin và hệ quả” của Nguyễn Văn Tuấn và “Chất độc da cam tại Việt Nam: Tội ác hôm qua thảm kịch hôm nay” của Hội hữu nghị Pháp – Việt đã làm rõ tác động và hậu quả nghiêm trọng của chất độc hóa học đối với môi trường và sức khỏe con người Thêm vào đó, các chuyên khảo của Lê Cao Đài và các kỷ yếu từ các hội thảo quốc tế cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác hại lâu dài của chất diệt cỏ trong chiến tranh.
Kỷ yếu công trình của Ủy ban Quốc gia điều tra tội ác chiến tranh (UB10-80) bao gồm ba tập quan trọng: “Hậu quả các chất hóa học đã sử dụng trong chiến tranh Việt Nam 1961-1971” (Hà Nội, 2000), “Ảnh hưởng của chất da cam/dioxin lên sức khỏe con người và môi trường” (Kỷ yếu Hội nghị khoa học Việt-Mỹ, Hà Nội, 2002), và “Chất độc da cam: Thảm kịch và di họa” (Nhà xuất bản Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh, 2004) Các nghiên cứu và bài viết về chất độc hóa học ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực y học và môi trường, phản ánh những tác động lâu dài của chất độc đối với sức khỏe con người và hệ sinh thái.
Trên các tờ báo như Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Thanh Niên, Tuổi Trẻ,
Sài Gòn Giải Phóng đã đề cập đến cuộc chiến đấu phòng chống hóa học của quân và dân ta trong chiến tranh, cùng những di hại của chất độc da cam và vụ kiện của các nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam Những vấn đề này đang thu hút sự quan tâm của công luận trong và ngoài nước Một số công trình nghiên cứu, như “Chống chất độc hóa học của Mỹ ở miền Nam” (1964) và “Vũ khí hóa học và việc phòng chống” (1981), đã phân tích công tác phòng chống vũ khí hóa học Kể từ năm 1993, tạp chí Lịch sử Quân sự và các chuyên mục của bộ đội hóa học đã đăng tải nhiều bài viết phản ánh thực trạng sử dụng vũ khí hóa học của Mỹ ở miền Nam và những hậu quả nghiêm trọng về con người và môi trường Các tài liệu này chủ yếu tổng kết và tuyên truyền các phương pháp phòng chống hóa học, cũng như điểm qua một số thiết bị kỹ thuật liên quan.
Rất ít nghiên cứu tập trung vào cuộc chiến đấu của quân và dân miền Nam Việt Nam chống lại vũ khí hóa học của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam Một số tài liệu đáng chú ý bao gồm cuốn "Bảo đảm hóa học trong một số trận đánh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1965-1975", Tập I và II, xuất bản bởi Nxb Quân đội nhân dân năm 1993, và "Lịch sử bộ đội hóa học", Tập 1 (1958).
Các công trình của bộ đội hóa học, được xuất bản bởi Nxb Quân đội nhân dân năm 1998, tập trung vào truyền thống binh chủng và liệt kê kinh nghiệm chiến đấu cùng các trận đánh tiêu biểu Hầu hết các cuốn sách này chủ yếu mô tả và ghi lại các vấn đề liên quan đến kỹ thuật quân sự và hoạt động phòng hóa của binh chủng.
Nhiều nghiên cứu quốc tế đã đề cập đến chiến tranh Việt Nam (1954-1975), tập trung vào các chiến lược, chiến thuật và việc sử dụng vũ khí hóa học tại miền Nam Việt Nam Các tác phẩm nổi bật từ các tác giả Mỹ như Robert S McNamara với “Nhìn lại quá khứ tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” và Giô Dép A Amtơ với “Lời phán quyết về Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào hiểu biết về giai đoạn này Ngoài ra, nhiều nhà khoa học như J B Neilands và E W Pfeiffer cũng đã công bố các nghiên cứu trên các tạp chí uy tín như Nature và Washington Post Nghiên cứu gần đây của nhóm khoa học tại đại học Columbia đã cung cấp số liệu mới về lượng dioxin mà Mỹ đã sử dụng trong chiến tranh và số nạn nhân liên quan sau chiến tranh Fred A Wilcox trong cuốn “Waiting for an army to die – The tragedy of agent orange” đã chỉ ra rằng bi kịch của các cựu chiến binh Mỹ cũng là bi kịch của nước Mỹ sau chiến tranh Việt Nam.
“Operation Ranch Hand, Herbicides in Southeast Asia 1961-1971” phản ánh khái quát quá trình thực hiện chiến dịch Ranch Hand phun rải các chất diệt cỏ của Hoa
Kỳ cùng các hậu quả của nó trong cuộc chiến tranh Việt Nam
Nhiều nghiên cứu và bài báo đã được công bố về chất độc da cam dioxin, vũ khí hóa học mà Mỹ sử dụng ở Việt Nam, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực y học và sinh học Tuy nhiên, vẫn thiếu các công trình nghiên cứu lịch sử chuyên sâu về vấn đề này Đến nay, chưa có một công trình chuyên khảo nào phản ánh toàn diện và có hệ thống cuộc đấu tranh phòng chống vũ khí hóa học của quân và dân ta ở miền Nam từ năm 1961 đến 1972.
Các công trình nghiên cứu đã mang lại những kết quả chân thực và có giá trị khoa học cao, không chỉ là nguồn tư liệu quý báu mà còn mở ra nhiều vấn đề hữu ích cho nghiên cứu sinh trong quá trình thực hiện luận án.
Luận án này khai thác một loạt tác phẩm kinh điển và các tài liệu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cùng với những nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Nghiên cứu sử dụng 360 tài liệu bằng tiếng Việt, Anh, Pháp và Nga, được sưu tầm và chọn lọc công phu từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có nhiều tài liệu gốc Đặc biệt, tài liệu nước ngoài về chiến tranh Việt Nam và việc sử dụng vũ khí hóa học của quân đội Mỹ ở miền Nam Việt Nam được viết bởi các tác giả nổi tiếng, đảm bảo độ tin cậy và thông tin phong phú.
Nguồn tư liệu cho bài viết được thu thập từ nhiều cơ sở dữ liệu uy tín, bao gồm Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Thư viện Quốc gia, Thư viện Trung ương Quân đội, Thư viện Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Thư viện Phòng khoa học công nghệ môi trường Quân khu 7, Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Tổng hợp Tp.HCM, và Kho tư liệu của Thông tấn xã Việt Nam.
Luận án sử dụng nhiều tư liệu phong phú, bao gồm dữ liệu điền dã, khảo sát thực tế, hồi ký, cùng với một khối lượng lớn tài liệu từ các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình Ngoài ra, các tài liệu bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài từ internet cũng được chọn lọc và xử lý một cách phù hợp.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và trình bày luận án được xây dựng dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh và cách mạng Bài viết cũng nhấn mạnh đường lối quân sự và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta, nhằm làm rõ những nguyên tắc và chiến lược trong bối cảnh lịch sử cụ thể.
Ph ươ ng pháp nghiên c ứ u
Luận án sử dụng chủ yếu hai phương pháp chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic để nghiên cứu cuộc đấu tranh phòng chống vũ khí hóa học trong bối cảnh chiến tranh Việt Nam Nghiên cứu sinh đã cố gắng tránh việc chất đống sự kiện và lạm dụng suy diễn chủ quan, đồng thời chú trọng kết hợp giữa hai phương pháp này Luận án xem xét các sự kiện lịch sử một cách tổng quát, tuân thủ lôgic của đối tượng nghiên cứu Ngoài ra, nghiên cứu sinh còn áp dụng các phương pháp khác như sử học so sánh, định lượng, thống kê, phân tích và tổng hợp, cùng với các phương pháp liên ngành như dân tộc học, địa lý, hóa học và kỹ thuật quân sự.
Những đóng góp mới của luận án
Luận án đóng góp quan trọng trong việc hệ thống hóa và phục dựng chân thực cuộc đấu tranh của quân và dân miền Nam chống lại vũ khí hóa học của Mỹ từ 1961 đến 1972, trong bối cảnh kháng chiến chống Mỹ Bên cạnh đó, luận án đã tập hợp và giới thiệu một khối lượng lớn tài liệu giá trị liên quan đến cuộc đấu tranh này Từ nghiên cứu, luận án đưa ra những kiến nghị nhằm khắc phục hậu quả do chất độc hóa học của Mỹ, đặc biệt hỗ trợ các nạn nhân là đồng bào dân tộc ít người Cuối cùng, luận án có thể được sử dụng làm tư liệu cho nghiên cứu, giảng dạy và học tập về cuộc chiến tranh Việt Nam 1954-1975, cũng như các vấn đề lịch sử Việt Nam cận hiện đại, đồng thời là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan tâm đến vũ khí hóa học và hậu quả của chúng.
Kết cấu của luận án
Ngoài phần dẫn luận, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận án gồm 3 chương
Chương 1 : Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1954-1975) và quá trình chuẩn bị sử dụng vũ khí hoá học của Mỹ ở miền Nam Việt Nam
Chương 2: Quân và dân miền Nam đấu tranh phòng chống vũ khí hoá học của Mỹ trong giai đoạn 1961-1965
Chương 3 : Quân và dân miền Nam đấu tranh phòng chống vũ khí hoá học của Mỹ trong giai đoạn 1965-1972
CUộC CHIếN TRANH XÂM LƯợC VIệT NAM (1954-1975) VÀ QUÁ TRÌNH CHUẩN Bị Sử DụNG VŨ KHÍ HÓA HọC CủA Mỹ ở MIềN NAM VIệT NAM
ÂM MƯU VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN CÁC CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỦA MỸ TRONG CHIếN TRANH XÂM LƯợC VIệT NAM
1.1.1 Bối cảnh thế giới và âm mưu xâm lược Việt Nam của Mỹ
Ngay từ thời điểm Chiến tranh Thế giới thứ hai, Mỹ đã thương thảo với Nhật Bản nhằm "trung lập hóa Đông Dương", nhưng thực chất là để đưa Đông Dương vào ảnh hưởng của Mỹ.
Từ hội nghị Têhêrăng vào tháng 12 năm 1945 đến hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, Mỹ đã nhiều lần âm thầm tìm cách biến Đông Dương thành khu ủy trị của Liên hợp quốc, thực chất là khu ủy trị của Mỹ Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai cho đến năm 1954, Mỹ không chỉ tích cực hỗ trợ thực dân Pháp trong cuộc chiến xâm lược mà còn can thiệp mạnh mẽ vào Việt Nam và Đông Dương Thuyết đô-mi-nô, được nhắc đến nhiều ở Đông Nam Á, bao gồm cả yếu tố chiến lược và kinh tế, thể hiện quan điểm của Mỹ về Việt Nam.
Nam thành được coi là cửa ngõ cho Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, khiến miền Nam Việt Nam cần được hỗ trợ để tồn tại; nếu không, các nước nhỏ sẽ sụp đổ như những quân cờ đô-mi-nô Mỹ lo ngại rằng nếu tổ chức tổng tuyển cử theo Hiệp định Giơnevơ, Hồ Chí Minh sẽ chiến thắng, vì vậy chính quyền Eisenhower phải ngăn cản điều này Vào tháng 12 năm 1953, phó Tổng thống Mỹ cảnh báo rằng nếu Đông Dương thất bại, Thái Lan sẽ rơi vào tình thế khó khăn, và nếu Đông Nam Á rơi vào tay cộng sản, Nhật Bản cũng sẽ không tránh khỏi việc hướng về chế độ cộng sản.
Mỹ đã âm thầm thực hiện chiến lược phản cách mạng và xâm lược Việt Nam từ lâu, với mục tiêu thay thế Pháp, phá hoại Hiệp định Giơnevơ và tiêu diệt phong trào cách mạng Việt Nam Họ muốn biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự và thuộc địa kiểu mới, đồng thời xem miền Nam cùng với Lào và Thái Lan như một phòng tuyến quan trọng để ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa xã hội tại Đông Nam Á.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào giải phóng dân tộc đang bùng nổ ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, Mỹ đã quyết định chọn Việt Nam làm nơi thí nghiệm cho chiến lược chống cách mạng toàn cầu của họ Mục tiêu của Mỹ là đè bẹp cách mạng Việt Nam, ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương và Đông Nam Á, đồng thời răn đe các quốc gia xã hội chủ nghĩa và đàn áp các phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã trở thành điểm mấu chốt trong chiến lược của Mỹ tại Đông Nam Á, là nơi thử nghiệm cho loại hình chiến tranh có thể áp dụng trên toàn cầu.
Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Tổng thống Mỹ Eisenhower tuyên bố rằng Hoa Kỳ không tham gia và không bị ràng buộc bởi các quyết định của Hội nghị này Vào ngày 8-9-1954, Mỹ đã thu hút một số đồng minh ký Hiệp ước Manila, thành lập “Tổ chức hiệp ước Đông Nam Á” (SEATO) với sự tham gia của Mỹ, Anh, Pháp, Philippines, Úc, Thái Lan và Pakistan SEATO đã công khai đặt Việt Nam, Lào và Campuchia dưới sự bảo trợ của khối này, thực chất là một liên minh chống cộng do Mỹ tạo ra, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho sự can thiệp và xâm lược của Mỹ tại Việt Nam và Đông Dương.
Dựa trên ưu thế vũ khí hạt nhân, Tổng thống Eisenhower đã áp dụng chiến lược "trả đũa ồ ạt" như một chiến lược quân sự toàn cầu mới, đồng thời Mỹ cũng chú trọng đến việc giải quyết các xung đột nhỏ trên thế giới Nước Mỹ đã can thiệp và tham gia nhiều hơn vào các cuộc chiến tranh bí mật do Cục tình báo Trung ương Mỹ (CIA) chỉ đạo Trước những biến đổi của tình hình thế giới và từ kinh nghiệm can thiệp thành công ở Iran và Guatemala, Mỹ đã tập trung vào các hình thức can thiệp tương đối rẻ tiền và thường không quá lộ liễu.
Mỹ đã thành lập khối quân sự Đông Nam Á (SEATO) và nhanh chóng triển khai các hoạt động quân sự, chính trị, tình báo và viện trợ kinh tế, nhằm thay thế Pháp và biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới.
Mỹ đã âm thầm thực hiện âm mưu xâm lược miền Nam Việt Nam với mục tiêu biến nơi đây thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự để tấn công miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng ở Đông Nam Á.
Việt Nam đã trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc, thể hiện sự kết hợp các trào lưu cách mạng trong thời đại Các chiến lược gia quân sự Mỹ cho rằng chỉ khi nào họ có thể đè bẹp được cách mạng Việt Nam, thì mới có khả năng đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc chống lại thực dân và đế quốc Cuộc chiến tại Việt Nam đã trở thành cuộc đụng đầu lịch sử giữa hai hệ thống đế quốc chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, khiến Việt Nam trở thành trọng điểm trong chính sách ngăn chặn và xâm lược của Mỹ.
1.1.2 Chủ trương và biện pháp thực hiện các chiến lược chiến tranh của Mỹ
Trong suốt 21 năm từ 1954 đến 1975, các chiến lược chiến tranh của Mỹ dưới sự lãnh đạo của năm Tổng thống Eisenhower, Kennedy, Johnson, Nixon và Ford đã dẫn đến thất bại hoàn toàn trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam Các giai đoạn này có thể được phân chia dựa trên những thay đổi trong âm mưu, chủ trương và biện pháp chiến lược mà Mỹ thực hiện trong suốt quá trình này.
- Giai đoạn Mỹ thực hiện chiến lược của Eisenhower để thiết lập chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam từ năm 1954 đến hết năm 1960
- Giai đoạn Mỹ thực hiện “Chiến lược chiến tranh đặc biệt” từ năm 1961 đến giữa năm 1965
- Giai đoạn Mỹ thực hiện “Chiến lược chiến tranh cục bộ” từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1968
Giai đoạn từ 1969 đến 1973, Mỹ thực hiện “Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm giảm sự can thiệp quân sự của mình và tăng cường khả năng tự chiến đấu của quân đội Việt Nam Cộng hòa Sau khi ký Hiệp định Paris vào tháng 2-1973, Mỹ tiếp tục hỗ trợ quân sự và tài chính cho chính quyền Sài Gòn Tuy nhiên, đến tháng 4-1975, chiến lược này thất bại hoàn toàn khi miền Nam Việt Nam sụp đổ, dẫn đến sự thống nhất đất nước.
M ỹ th ự c hi ệ n chi ế n l ượ c c ủ a Eisenhower để thi ế t l ậ p ch ủ ngh ĩ a th ự c dân m ớ i ở mi ề n Nam (1954-1960)
Năm 1954, sau thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ, Mỹ lo ngại rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ lan rộng khắp Đông Nam Á, đe dọa các lợi ích an ninh của mình tại Viễn Đông Việt Nam trở thành chiến trường thử nghiệm cho chiến lược "chống nổi dậy" của Mỹ, dẫn đến việc nước này đầu tư mạnh mẽ vào sức mạnh và uy tín của mình tại Việt Nam.
Để triệt hạ lực lượng vũ trang của các giáo phái và tiêu diệt phong trào cách mạng miền Nam, Mỹ đã tập trung vào việc xây dựng quân đội và chính quyền Sài Gòn Họ coi đây là yếu tố quan trọng hàng đầu để đạt được thắng lợi Mỹ mong muốn có một ngụy quyền mạnh mẽ, hiệu quả và trung thành nhằm thực hiện các mục tiêu của chủ nghĩa thực dân mới tại miền Nam.
Trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết vào ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm, người được Mỹ nuôi dưỡng từ lâu, về nước làm thủ tướng bù nhìn, thay thế Bửu Lộc và thành lập nội các mới của chính quyền tay sai Đến tháng 9-1954, Mỹ quyết định chuyển viện trợ trực tiếp cho Ngô Đình Diệm, thay vì thông qua Pháp Ngoại trưởng Mỹ Dulles nhấn mạnh rằng việc đầu tư vào miền Nam Việt Nam là cần thiết và chính đáng.
VŨ KHÍ HOÁ HọC VÀ QUÁ TRÌNH CHUẩN Bị Sử DụNG VŨ KHÍ HÓA HọC CUả Mỹ TRONG CHIếN TRANH XÂM LƯợC VIệT NAM
Chi phí ước tính của cuộc chiến tranh Việt Nam lên tới 720 tỷ đô la, khiến đây trở thành cuộc chiến tranh dài nhất và tốn kém nhất trong lịch sử Mỹ Mặc dù đã sử dụng một lượng lớn bom đạn, Mỹ vẫn không thể giành chiến thắng, dẫn đến thất bại nặng nề nhất trong lịch sử quân sự của nước này.
1.2 VŨ KHÍ HÓA HọC VÀ QUÁ TRÌNH CHUẩN Bị Sử DụNG VŨ KHÍ HÓA HọC CủA Mỹ TRONG CHIếN TRANH XÂM LƯợC VIệT NAM
1.2.1.Vài nét về vũ khí hóa học
Vũ khí hóa học là loại vũ khí giết người hàng loạt sử dụng chất độc để làm mất sức chiến đấu hoặc cản trở hoạt động của đối phương Theo các chuyên gia quân sự, vũ khí hóa học bao gồm hai thành phần chính: chất độc hóa học, bao gồm các loại chất độc quân sự, chất tạo khói và chất gây cháy, cùng với phương tiện sử dụng chúng, như đạn dược hóa học và thiết bị phun rải để đưa độc chất tới mục tiêu.
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, chất độc hóa học (Chemical Warfare Agents) là hợp chất hóa học được sử dụng dưới dạng khí, lỏng và rắn nhằm gây tổn thương cho con người, động vật và thực vật Quy ước về vũ khí hóa học cũng xác định rằng vũ khí hóa học không chỉ bao gồm độc chất mà còn cả đạn dược và thiết bị phân tán chất độc Chất độc hóa học được định nghĩa là bất kỳ hóa chất nào có thể gây hại đến sự sống con người, dẫn đến tử vong hoặc thương tật Để ngăn chặn thảm họa từ vũ khí hóa học, nhiều văn kiện pháp lý đã được thông qua tại các hội nghị quốc tế như Brusell 1874, La Hay 1907, và đặc biệt là Nghị định thư Giơnevơ vào các năm 1925, 1949, 1969, cấm sử dụng bất kỳ chất lỏng, vật liệu hay công cụ nào chứa chất độc hóa học trong chiến tranh Những khái niệm và cơ sở pháp lý này bác bỏ luận điệu của Mỹ cho rằng các chất độc hóa học mà họ sử dụng ở miền Nam Việt Nam chỉ là "các chất diệt cỏ" thông thường và không phải là vũ khí hóa học.
Tại Hội nghị quốc tế về chiến tranh hóa học tại Việt Nam năm 1983, tiến sĩ R.M Lesaca từ UNEP đã phân loại các tác nhân hóa học thành hai loại: một loại tác động trực tiếp đến con người và động vật, loại còn lại ảnh hưởng đến cây cối và mùa màng Do đó, chất độc hóa học, thành phần chính của vũ khí hóa học, đã được Mỹ sử dụng ở Việt Nam từ năm 1961 đến 1972, bao gồm hai loại chính.
Mỹ đã sử dụng một loại chất độc hóa học để khai quang rừng, phá hoại mùa màng và triệt hạ đối phương, với nồng độ cao gấp 14-40 lần mức cho phép Hành động này đã gây ra cái chết cho nhiều người, cũng như giết hại gia súc và gia cầm ở nhiều khu vực miền Nam Việt Nam.
Chất độc chiến tranh mà Mỹ sử dụng nhằm tiêu diệt cả lực lượng vũ trang đối phương lẫn thường dân Những loại vũ khí này được áp dụng trong các chiến dịch càn quét, gom dân và bình định nhằm thực hiện các nhiệm vụ chiến thuật hiệu quả.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ đã sử dụng nhiều loại vũ khí hóa học, bao gồm chất diệt cỏ, các loại hơi độc như CS1, CS2, DM và CN, nhằm gây ra những tác động nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe con người.
Các loại vũ khí hóa học như BZ, CNS, bom napalm, phosphore trắng, bom magnesium và bom thermite gây ra thiệt hại khủng khiếp Ngoài ra, các phương tiện phun rải chất độc như máy bay UH, C123, đạn pháo, mìn, và bình phun Buffalo trên xe cũng được sử dụng Các thiết bị phun tay cho bộ binh và máy phun trên tàu xuồng trên sông, cũng như máy Mighty Mite thổi hơi độc vào hầm trú ẩn, đều góp phần vào việc phát tán chất độc hại.
1.2.2 Mục đích sử dụng vũ khí hóa học của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam
Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” trong giai đoạn 1959-1960, cùng với sự thành lập của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam vào ngày 20-12-1960, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuộc cách mạng miền Nam, làm đảo lộn chiến lược của Mỹ.
Mỹ xem chất độc khai quang là phương tiện hiệu quả và tiết kiệm nhất để tiêu diệt rừng, ngăn chặn quân du kích và cắt đứt nguồn tiếp tế cho lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam qua đường Hồ Chí Minh.
Chính quyền Kennedy đã đầu tư nhiều nguồn lực và tài chính vào việc nghiên cứu sử dụng chất độc diệt cỏ như một loại vũ khí hóa học, nhằm mục đích khai thác các khu căn cứ, tiêu diệt nguồn lương thực và cắt đứt nguồn cung cấp hậu cần, khiến đối phương rơi vào tình trạng thiếu thốn và đói khát.
Việc sử dụng vũ khí hóa học được quy định rõ ràng trong các điều lệnh dã chiến FM-3-10, điều lệnh huấn luyện No 3-16 và điều lệnh chiến đấu của lục quân Mỹ No 3.
Vũ khí hóa học được sử dụng trong chiến tranh thông thường với nhiều mục đích khác nhau, bao gồm chiến thuật, chiến dịch và chiến lược Chúng không chỉ nhằm tê liệt cơ sở hạ tầng của đối phương mà còn gây thiệt hại cho nền kinh tế của họ.
Quân đội Mỹ sở hữu hoả lực mạnh mẽ cả trên mặt đất lẫn trên không, tuy nhiên sức mạnh này không phù hợp với chiến thuật chiến tranh mà Mặt trận dân tộc giải phóng áp dụng, đó là hình thức tác chiến trong các khu vực rừng núi và rừng rậm.
Vào đầu năm 1961, Tổng thống Kennedy và Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã phê duyệt nhiều dự luật liên quan đến việc sử dụng chất độc khai quang ở miền Nam Việt Nam nhằm hỗ trợ lực lượng vũ trang Nam Việt Nam trong việc tuần tra biên giới và trấn áp nổi dậy Mỹ đã tìm cách tàn phá rừng để đánh bật lực lượng quân giải phóng bằng cách áp dụng các kỹ thuật khai quang hiện đại Để thực hiện các thỏa thuận với chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã cử nhóm chuyên viên sang Sài Gòn để thử nghiệm và phát triển các vũ khí mới chống chiến tranh du kích Vào tháng 6 năm 1961, Trung tâm thực nghiệm và phát triển khả năng tác chiến hỗn hợp Việt-Mỹ được thành lập tại Sài Gòn, cho phép thử nghiệm việc sử dụng các chất diệt cỏ và làm rụng lá Một nhóm chuyên viên Mỹ đã thành lập “Ủy Ban 202” để chỉ đạo việc rải chất độc hóa học, và chỉ sau vài tháng, các chất diệt cỏ đã được sử dụng một cách hệ thống ở miền Nam Việt Nam.