1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá kết quả phẫu thuật NUSS có nội soi hỗ trợ điều trị bệnh lõm ngực bẩm sinh tại bệnh viện hữu nghị việt đức

172 125 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Kết Quả Phẫu Thuật NUSS Có Nội Soi Hỗ Trợ Điều Trị Bệnh Lõm Ngực Bẩm Sinh Tại Bệnh Viện Hữu Nghị Việt Đức
Tác giả Nguyễn Thế May
Người hướng dẫn PGS.TS. Đoàn Quốc Hưng
Trường học Trường Đại Học Y Hà Nội
Chuyên ngành Ngoại khoa
Thể loại luận án tiến sĩ y học
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 172
Dung lượng 2,47 MB

Cấu trúc

  • ĐẶT VẤN ĐỀ

  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU

    • 1.1. Sơ lược giải phẫu lồng ngực ứng dụng trong phẫu thuật Nuss

    • 1.2. Phôi thai học phát triển hệ xương lồng ngực

    • 1.3. Hình thái học các dị dạng thành ngực trước

      • 1.3.1. Ngực ức gà

      • 1.3.2. Hội chứng Poland

      • 1.3.3. Hội chứng Jeune

      • 1.3.4. Khe hở xương ức

      • 1.3.5. Khuyết lỗ xương ức

      • 1.3.6. Dị dạng xương sườn

    • 1.4. Lõm ngực bẩm sinh

      • 1.4.1. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh lõm ngực bẩm sinh

      • 1.4.2. Diễn tiến bệnh lõm ngực bẩm sinh

    • 1.5. Đặc điểm bệnh lý lõm ngực bẩm sinh

      • 1.5.1. Đặc điểm lâm sàng

      • 1.5.2. Đặc điểm cận lâm sàng

      • 1.5.3. Phân loại lõm ngực bẩm sinh

    • 1.6. Điều trị lõm ngực bẩm sinh

      • 1.6.1. Lịch sử điều trị lõm ngực bẩm sinh

      • 1.6.2. Phẫu thuật Nuss

      • 1.6.3. Những biến chứng có thể gặp trong phẫu thuật Nuss

    • 1.7. Một số nghiên cứu trong nước và thế giới

    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu

      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân

      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

    • 2.2. Phương pháp nghiên cứu

      • 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

      • 2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu

      • 2.2.3. Phương pháp chọn mẫu

    • 2.3. Các bước nghiên cứu

    • 2.4. Quy trình phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

      • 2.4.1. Chỉ định phẫu thuật

      • 2.4.2. Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ

      • 2.4.3. Trang thiết bị và dụng cụ phẫu thuật

      • 2.4.4. Quy trình kỹ thuật tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức

    • 2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu

      • 2.5.1. Đặc điểm bệnh lý

      • 2.5.2. Nội dung nghiên cứu thu thập trong mổ đặt thanh kim loại

      • 2.5.3. Nội dung nghiên cứu thu thập sau mổ đặt thanh kim loại

      • 2.5.4. Đặc điểm phẫu thuật rút thanh kim loại

      • 2.5.5. Theo dõi và khám lại bệnh nhân sau ra viện

      • 2.5.6. Đánh giá kết quả phẫu thuật

      • 2.5.7. Sơ đồ nghiên cứu

    • 2.7. Đạo đức trong nghiên cứu

    • 3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu

      • 3.1.2. Tuổi

      • 3.1.3. Thời điểm phát hiện dị tật

      • 3.1.4. Tiền sử và bệnh kèm theo

    • 3.2. Phân loại lõm ngực bẩm sinh

      • 3.2.1. Phân loại theo hình dạng lõm ngực

      • 3.2.3. Phân loại lõm ngực theo Hyung Joo Park

    • 3.3. Đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 3.3.1. Đặc điểm BMI

      • 3.3.2. Triệu chứng lâm sàng

    • 3.4. Đặc điểm cận lâm sàng

      • 3.4.1. Điện tâm đồ

      • 3.4.2. Đặc điểm siêu âm tim - doppler màu

      • 3.4.3. Đặc điểm chức năng hô hấp

      • 3.4.4. Đặc điểm hình ảnh CLVT ngực

    • 3.5. Phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 3.5.1. Chỉ định phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 3.5.2. Đặc điểm phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 3.5.3. Biến chứng phẫu thuật đặt thanh kim loại

    • 3.6. Phẫu thuật rút thanh kim loại

    • 3.7. Kết quả theo dõi và khám lại bệnh nhân

      • 3.7.1. Theo dõi trung hạn

    • 3.8. Đánh giá các mối liên quan

  • CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN

    • 4.1. Đặc điểm dịch tễ học

      • 4.1.2. Tuổi

      • 4.1.3. Thời điểm phát hiện bệnh

    • 4.2. Tiền sử lõm ngực bẩm sinh và bệnh kèm theo

    • 4.3. Phân loại lõm ngực

    • 4.4. Đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật

      • 4.4.1. Nhanh mệt, thiếu sức chịu đựng khi tập luyện

      • 4.4.2. Đau ngực khi vận động

    • 4.5. Đặc điểm cận lâm sàng trước phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 4.5.1. Đặc điểm về chức năng hô hấp và tim mạch

      • 4.5.2. Đặc điểm hình ảnh CLVT và X-quang ngực

    • 4.6. Chỉ định phẫu thuật

    • 4.7. Đặc điểm phẫu thuật đặt thanh kim loại

      • 4.7.1. Tạo hình thanh kim loại

      • 4.7.2. Số lượng thanh kim loại được đặt

      • 4.7.3. Nội soi lồng ngực hỗ trợ

      • 4.7.4. Cách cố định thanh kim loại

      • 4.7.5. Thời gian phẫu thuật và nằm viện sau đặt thanh kim loại

    • 4.8. Phẫu thuật rút thanh kim loại

    • 4.9. Biến chứng

      • 4.9.1. Tai biến trong phẫu thuật

  • KẾT LUẬN

  • KIẾN NGHỊ

  • DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

Nội dung

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu này thu nhận tất cả bệnh nhân được chẩn đoán lõm ngực bẩm sinh và điều trị phẫu thuật bằng phương pháp Nuss với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 01 năm 2015 đến tháng 12 năm 2018 Kết quả phẫu thuật được theo dõi đến tháng 6 năm 2020 Các bệnh nhân tham gia nghiên cứu đều đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ đã được thiết lập.

2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân

Bệnh nhân mắc bệnh LNBS, bao gồm cả trường hợp tái phát, được chỉ định phẫu thuật Phương pháp phẫu thuật áp dụng là Nuss, kết hợp với nội soi lồng ngực hỗ trợ.

Không giới hạn độ tuổi, không phân biệt giới tính.

Gia đình và bệnh nhân tự nguyện tham gia nghiên cứu nhóm tiến cứu sau khi được giải thích rõ ràng về phẫu thuật Nuss với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực.

Có hồ sơ bệnh án đảm bảo đầy đủ các yêu cầu nghiên cứu.

Phẫu thuật điều trị LNBS không theo phương pháp Nuss, hoặc theo phương pháp Nuss nhưng không có nội soi lồng ngực hỗ trợ.

Bệnh nhân lõm ngực kèm hở xương ức, hội chứng Poland Lõm ngực do chấn thương.

Hồ sơ bệnh án không đảm bảo các yêu cầu nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu

Chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu mô tả cắt ngang, không đối chứng, bao gồm hồi cứu từ hồ sơ bệnh án của bệnh nhân đã phẫu thuật trong khoảng thời gian từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2017 và tiến cứu từ tháng 01/2018 đến tháng 6/2020.

2.2.2 Cỡ mẫu nghiên cứu Áp dụng công thức tính ước lượng một tỷ lệ cho một quần thể: n = Z 2 1-α/2 p.(1-p)

- n: Cỡ mẫu (số bệnh nhân tối thiểu)

Tỷ lệ thành công của phẫu thuật đạt 94,3% theo nghiên cứu của Ngô Gia Khánh, với tiêu chí thành công là không cần chuyển phương pháp mổ, bệnh nhân có tình trạng lâm sàng tốt và sự hài lòng sau phẫu thuật.

- α: Mức ý nghĩa thống kê α = 0,05 thì Z1-α/2 = 1,96.

-∆: Khoảng sai lệch mong muốn so với các nghiên cứu khác, chọn ∆ = 0,03 Thay các giá trị vào công thức, ta tính được cỡ mẫu: n = 1,96 2 0,943.(1- 0,943)

Do vậy, cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu tối thiểu là 229 bệnh nhân.

Sử dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích, nghiên cứu sẽ lựa chọn tất cả bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức.

Các bước nghiên cứu

Bệnh nhân được lựa chọn vào nhóm nghiên cứu dựa trên các tiêu chuẩn đã định sẵn Đối với nhóm hồi cứu, chúng tôi tiến hành thu thập dữ liệu từ những bệnh nhân đã phẫu thuật đặt thanh kim loại trong khoảng thời gian từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2017, đảm bảo các biến số nghiên cứu được lấy từ hồ sơ bệnh án đạt tiêu chuẩn và hoàn thành các chỉ tiêu nghiên cứu theo mẫu Còn với nhóm tiến cứu, chúng tôi sẽ thu thập thông tin từ những bệnh nhân phẫu thuật đặt thanh kim loại trong khoảng thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2018, thực hiện theo các bước đã được xác định.

Bước 1: Lựa chọn bệnh nhân nghiên cứu theo tiêu chuẩn nghiên cứu.

Bước 2 trong quy trình điều trị bao gồm việc tham gia khám bệnh nhân, hoàn tất các xét nghiệm và chẩn đoán, cũng như chuẩn bị cho phẫu thuật Trong giai đoạn này, bác sĩ sẽ giải thích rõ ràng cho bệnh nhân và người nhà về tình trạng bệnh, phương pháp phẫu thuật, lợi ích và các biến chứng có thể xảy ra trong quá trình điều trị và nghiên cứu Cuối cùng, bệnh nhân và người nhà sẽ ký cam kết tham gia phẫu thuật và nghiên cứu.

Bước 3: Tham gia phẫu thuật đặt thanh kim loại.

Bước 4: Sau khi phẫu thuật đặt thanh kim loại, cần chăm sóc bệnh nhân cẩn thận, theo dõi tình trạng sức khỏe và đánh giá kết quả phẫu thuật Việc khám lại bệnh nhân và thu thập dữ liệu theo bệnh án mẫu là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả điều trị.

Bước 5 Tham gia phẫu thuật rút thanh kim loại.

Bước 6: Theo dõi và đánh giá kết quả sau rút thanh kim loại Thu thập số liệu sau rút thanh kim loại theo bệnh án mẫu.

Bệnh nhân sau khi được phẫu thuật rút thanh kim loại sẽ được tái khám và đánh giá kết quả phẫu thuật theo quy trình thống nhất, đến tháng 6 năm 2020.

Thu thập và tập hợp số liệu theo mẫu nghiên cứu, phân tích và xử lý số liệu Viết luận án và bảo vệ trước hội đồng.

Quy trình phẫu thuật Nuss có nội soi hỗ trợ điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức

Chỉ định phẫu thuật cho bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh khi có 2 trong số các đặc điểm sau đây 33,34 :

- Chỉ số Haller trên CLVT ngực > 3,25 (chụp CLVT ngực không cản quang tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, độ dày lát cắt 5 mm).

- Lõm ngực đang tiến triển, có triệu chứng: đau ngực, khó thở, hụt hơi khi gắng sức, vận động.

- Ảnh hưởng chức năng hô hấp: khó thở khi vận động, gắng sức, viêm nhiễm đường hô hấp tái diễn.

Siêu âm tim và CLVT ngực cho thấy ảnh hưởng chức năng tim mạch, bao gồm chèn ép tim, tim bị đẩy lệch, sa van hai lá, hở van hai lá và rối loạn dẫn truyền.

- Ảnh hưởng tâm lý, thẩm mỹ: bệnh nhân xấu hổ, tự ti về hình dạng lồng ngực của mình, có nhu cầu phẫu thuật.

- Lõm ngực tái phát: sau phẫu thuật Nuss hoặc phẫu thuật theo phương pháp khác như phẫu thuật Ravitch

2.4.2 Chuẩn bị bệnh nhân trước mổ

Trước khi tiến hành phẫu thuật, bệnh nhân cần được khám chuyên khoa, khám tiền mê và hoàn thiện hồ sơ bệnh án Quá trình này bao gồm việc thực hiện các xét nghiệm và thăm dò cận lâm sàng đầy đủ, đặc biệt chú trọng đến chức năng tim mạch và hô hấp.

Đánh giá bệnh nhân trước khi phẫu thuật là rất quan trọng, bao gồm việc xác định các yếu tố liên quan đến chỉ định và chống chỉ định cho phương pháp phẫu thuật Nuss Việc này nhằm tối ưu hóa hiệu quả phẫu thuật và giảm thiểu các biến chứng có thể xảy ra, đồng thời đảm bảo an toàn trong quá trình gây mê hồi sức với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực.

Cung cấp thông tin chi tiết và rõ ràng cho bệnh nhân và gia đình về tình trạng bệnh, quy trình phẫu thuật, các rủi ro tiềm ẩn cũng như chi phí phẫu thuật là rất quan trọng Ngoài ra, hướng dẫn bệnh nhân về việc nhịn ăn và vệ sinh răng miệng trước ngày phẫu thuật cũng cần được thực hiện một cách cẩn thận.

Hình 2.1 Bệnh nhân lõm ngực (Loại 1B) trước mổ

“Nguồn: Bệnh nhân Trương Đức T., sinh năm 2001, Mã hồ sơ: 31275”

2.4.3 Trang thiết bị và dụng cụ phẫu thuật

Ống kính nội soi cứng 5 mm với góc nhìn 30 độ, cùng với hệ thống videos của hãng Carl Storz, cung cấp chất lượng hình ảnh sắc nét nhờ vào màn hình video độ phân giải cao.

Thanh kim loại (thanh nâng ngực) được chế tạo từ thép không gỉ, với đặc tính bền bỉ và ít gây dị ứng, giúp duy trì lâu dài trong cơ thể Chiều dài của thanh kim loại được đo bằng inch, dao động từ 7 inch (17,78 cm) đến 17 inch (43,18 cm) Tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, thanh kim loại của hãng Biomet Microfixation (Mỹ) được sử dụng, với kích thước chẵn từ 8 inch đến 15 inch và kích thước lẻ từ 8,5 inch đến 15,5 inch.

Hình 2.2 Thanh kim loại (A) và thước đo khuôn lồng ngực (B)

Dụng cụ uốn thanh kim loại được sử dụng để điều chỉnh hình dạng của thanh kim loại, đảm bảo phù hợp với từng bệnh nhân Mục tiêu là tạo ra một lồng ngực cân đối và hoàn hảo nhất khi thanh kim loại được đặt vào.

Hình 2.3 Dụng cụ uốn thanh kim loại (của hãng Biomet)

- Pince phẫu thuật hình tim tạo đường hầm qua trung thất trước trước khi dùng thanh dẫn đường luồn qua đường hầm này.

Hình 2.4 Pince phẫu thuật hình tim (A) và dụng cụ xoay thanh kim loại (B)

- Dụng cụ xoay thanh kim loại (hãng Biomet): dùng để xoay thanh kim loại

180 độ theo chiều hướng lên trên để đẩy xương ức lõm ra trước về hình dạng lồng ngực mong muốn.

Thanh dẫn đường của hãng Biomet được sử dụng để kéo đầu thanh kim loại vào khoang màng phổi sau khi đã tạo đường hầm qua trung thất trước Quá trình này diễn ra bằng cách dẫn thanh kim loại qua thành ngực và chuyển từ khoang màng phổi bên này sang khoang bên đối diện, cuối cùng ra ngoài thành ngực.

Hình 2.5 Thanh dẫn đường (hãng Biomet)

Phương tiện cố định thanh kim loại được thực hiện bằng cách sử dụng chỉ thép y tế 15 mm, với hai vòng chỉ thép được luồn dưới sự kiểm soát của camera nội soi Quá trình này giúp buộc cố định đầu thanh kim loại vào xương sườn tương ứng thông qua hai vòng chỉ thép, đảm bảo tính chính xác và an toàn trong phẫu thuật.

2.4.4 Quy trình kỹ thuật tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức

Gây mê và đặt tư thế bệnh nhân

Gây tê ngoài màng cứng (NMC) là phương pháp được thực hiện trước khi gây mê, nhằm tăng cường hiệu quả giảm đau của Opioids trong phẫu thuật NMC không chỉ giúp ổn định huyết động trước các kích thích phẫu thuật mà còn giảm đau hiệu quả sau mổ, kéo dài đến ngày thứ 3, từ đó tạo điều kiện cho bệnh nhân vận động và tập luyện vật lý trị liệu hô hấp sớm Thuốc gây tê NMC thường thuộc nhóm Amides như Bupivacain và Chirocain, được pha loãng với nồng độ 0,1% Liều bolus được sử dụng từ 2-5 ml/lần, với khoảng cách giữa các lần bolus ít nhất 10-15 phút, và liều giảm đau duy trì từ 4-10 ml/h tùy thuộc vào cân nặng, chiều cao và mức độ đau của bệnh nhân sau mổ.

Bệnh nhân nằm ngửa với hai tay dạng vuông góc so với thân, được gây mê nội khí quản một nòng Đặt đệm gối dưới lưng để nâng ngực, giúp thuận lợi cho việc quay lật thanh kim loại 180 độ nhằm nâng xương ức.

Hình 2.6 Tư thế bệnh nhân phẫu thuật

“Nguồn: Bệnh nhân Nguyễn Văn Tr., sinh năm 2003, Mã hồ sơ: 26168”

Bố trí kíp phẫu thuật Đặt trocar nội soi ở thành ngực trái Đặt trocar nội soi ở thành ngực phải

Hình 2.7 Sơ đồ bố trí kíp phẫu thuật

Hình 2.8 Bố trí kíp phẫu thuật

“Nguồn: Bệnh nhân Nguyễn Văn Tr., sinh năm 2003, Mã hồ sơ: 26168”

Các thì phẫu thuật đặt thanh kim loại

Để chuẩn bị cho phẫu thuật, cần xác định các mốc quan trọng như diện lõm, tâm của diện lõm, các bờ và điểm cao nhất của bờ diện lõm ở hai bên chu vi Tâm diện lõm cùng với hai điểm cao nhất của bờ tạo thành một đường thẳng, trên đó sẽ đặt thanh kim loại.

Hình 2.9 Xác định các mốc liên quan đến phẫu thuật

“Nguồn: Vũ Anh T., sinh năm 1998, Mã hồ sơ: 30548”

- Đo kích thước lồng ngực và uốn thanh kim loại Đo kích thước theo khuôn lồng ngực Uốn thanh kim loại theo khuôn

Hình 2.10 Đo và uốn thanh kim loại

“Nguồn: Bệnh nhân Nguyễn Hải A., sinh năm 2001, Mã hồ sơ: 30768”

Để lựa chọn thanh kim loại cho bệnh nhân, sử dụng thước đo uốn theo khuôn lồng ngực để đo khoảng cách giữa hai đường nách giữa Đặt thước ở vị trí dự kiến đặt thanh kim loại; nếu sử dụng 2 thanh, khoảng cách giữa chúng thường là 3 cm Kích thước thanh kim loại nên nhỏ hơn chiều dài khoảng cách giữa hai đường nách khoảng 1 inch.

Uốn thanh kim loại theo hình dạng của thước đo, bắt đầu ở giữa dần sang

Rạch da dài khoảng 2cm ở mỗi bên thành ngực, tại vị trí dự định đặt thanh kim loại 1 khoang liên sườn, nằm ở đường nách giữa Vết mổ sẽ được thực hiện theo chiều trước sau của lồng ngực.

Trường hợp cần đặt hai thanh cũng chỉ cần một đường rạch da ở giữa hai vị trí dự định sẽ đặt hai thanh kim loại.

Hình 2.11 Vị trí rạch da

“Nguồn: Bệnh nhân Trịnh Tuấn A., sinh năm 2002, Mã hồ sơ: 25577”

- Tạo đường hầm dưới da: từ chỗ rạch da đến bờ cao nhất của hố lõm.

Sử dụng pince đầu tù để tách tổ chức dưới da với cơ ngực một cách từ từ, đảm bảo khoang đủ rộng cho việc che thanh kim loại, đồng thời tránh việc tách quá sâu vào lớp cơ để ngăn ngừa chảy máu.

Hình 2.12 Tạo đường hầm dưới da thành ngực trái

“Nguồn: Bệnh nhân Nghiêm Thị Ng., sinh năm 2006, Mã hồ sơ: 30314”

Biến số và chỉ số nghiên cứu

2.5.1 Đặc điểm bệnh lý Đặc điểm chung

Tuổi: chia 5 nhóm 99 : Nhóm 1: dưới 6 tuổi; Nhóm 2: từ 6 - 11 tuổi; Nhóm 3: từ 12 - 15 tuổi; Nhóm 4: từ 16 - 18 tuổi; Nhóm 5: trên 18 tuổi

Cân nặng (kg), chiều cao (cm)

Chỉ số BMI (kg/cm²) được chia thành ba nhóm theo độ tuổi, dựa trên phân loại của Hiệp hội đái tháo đường các nước châu Á (IDI & WPRO) áp dụng cho người châu Á Cụ thể, người có cân nặng thấp (gầy) có BMI dưới 18,5; người có chỉ số BMI trong khoảng từ 18,5 đến dưới 22,9 được xem là bình thường; và người thừa cân có BMI từ 23 trở lên.

Thời điểm phát hiện bệnh lõm ngực: Chia 3 nhóm: ngay sau sinh, trước dậy thì, giai đoạn dậy thì.

Bệnh nhân có thể mắc các bệnh kèm theo như lỗ bầu dục, vẹo cột sống và hội chứng Marfan Tiền sử phẫu thuật LNBS cho thấy bệnh nhân đã từng trải qua các phương pháp chỉnh sửa như phẫu thuật Nuss hoặc Ravitch Về mặt lâm sàng, bệnh nhân thường gặp phải những vấn đề tâm lý như mặc cảm, tự ti và xấu hổ về hình dạng lồng ngực Ngoài ra, chức năng tim phổi cũng bị ảnh hưởng, với các triệu chứng như đau ngực, khó thở khi gắng sức, hụt hơi, nhanh mệt mỏi và có thể gặp phải tình trạng viêm hô hấp.

Sa sút trí tuệ: kết quả học tập kém do chậm tiếp thu, không học được

Sa sút thể lực: biểu hiện mệt khi vận động, không tham gia giờ thể dục, các trò chơi thể thao có tính đối kháng

Lõm ngực đang tiến triển: trẻ càng lớn tình trạng lõm ngực càng nặng hơn, khó thở, đau tức ngực hơn, hạn chế vận động thể lực hơn

Lõm đối xứng bao gồm lõm đồng tâm, hố lõm ở xương ức và bờ hố lõm cân xứng Trong khi đó, lõm không đối xứng thể hiện qua lõm lệch tâm, hố lõm ở một bên xương ức, hoặc bờ hố lõm không cân xứng với một bên thấp hơn bên kia.

Lõm điểm: đáy vùng lõm thấy rõ, diện hẹp, có một điểm lõm nhất, dễ xác định.

Lõm diện: khó xác định điểm nào là lõm nhất, cả vùng lõm trải rộng khó xác định hình dạng như đáy một vũng nước.

Lõm thể thung lũng: lõm đối xứng mà đáy lõm là một rãnh chiếm gần hết chiều dài xương ức.

Lõm ngực thể hẻm núi lớn: không đối xứng, hố lõm nằm ở một bên xương ức, lõm sâu, dài từ xương đòn đến phần dưới lồng ngực.

Ngực lép: biểu hiện bằng giảm đường kính trước – sau của lồng ngực. Lõm ngực loại 1A: lõm ngực đồng tâm khu trú, đối xứng, sâu ở phần dưới xương ức

Lõm ngực loại 1B là dạng lõm ngực đồng tâm, có đặc điểm phẳng, nông, rộng và đối xứng Trong khi đó, lõm ngực loại 2A1 lại là dạng lõm ngực lệch tâm, với tâm xương ức nằm ở đường giữa và hố lõm nằm ở một bên xương ức.

Lõm ngực loại 2A2: lõm ngực lệch tâm dạng phẳng, nông, rộng, hố lõm nằm ở một bên xương ức

Lõm ngực loại 2A3 là tình trạng lõm sâu và kéo dài từ xương đòn đến phần dưới lồng ngực Đây là dạng lõm ngực lệch tâm nặng nhất, còn được biết đến với tên gọi lõm ngực dạng hẻm núi lớn hoặc lõm ngực lệch tâm tạo kênh dài.

Lõm ngực loại 2B: loại lõm hai bên không cân xứng, tâm lõm nằm ở đường giữa, bờ hố lõm bên này thấp hơn bên kia.

Lõm ngực loại 2C: phối hợp loại 2A và 2B.

Trên X-quang ngực thẳng/nghiêng tính chỉ số Haller, xác định lõm xương ức, tình trạng phổi, sự di lệch của tim sang trái.

Chỉ số Haller trên X-quang ngực là tỷ lệ giữa đường kính ngang lớn nhất của lồng ngực trên phim thẳng và đường kính trước sau từ vị trí lõm nhất của xương ức đến bờ trước của đốt sống trên phim nghiêng.

Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực (CLVT): Chụp cắt lớp vi tính lồng ngực không tiêm thuốc cản quang, độ dày lớp cắt 5 mm, xác định:

Vị trí lõm sâu nhất của lõm ngực; phân loại hình thái lõm ngực

Xoắn vặn xương ức là tình trạng xương ức bị xoay, có thể xảy ra đều hoặc từng phần tùy thuộc vào tính chất lõm ngực Để xác định mức độ xoắn vặn, người ta dựa vào góc xoay xương ức, được tính là góc giữa đường tiếp tuyến với xương ức và đường song song với đường kính ngang Góc xoay từ 0 đến 30 độ được coi là xoay nhẹ, trong khi góc trên 30 độ là xoay nhiều Mức độ xoắn vặn của xương ức được phản ánh qua giá trị của góc xoay này.

Chèn ép tim, đẩy tim lệch sang trái: hình ảnh tim bị xương ức lõm ép vào mặt trước, đẩy lệch sang lồng ngực bên trái.

Giãn phế quản là tình trạng mà phế quản bị giãn nở, có thể được phát hiện qua hình ảnh trên phim chụp CLVT Vẹo cột sống là sự cong bất thường của cột sống sang bên phải hoặc bên trái, làm cho xương sống không còn thẳng Đo chỉ số Haller là phương pháp xác định tỷ số giữa đường kính ngang lớn nhất của lồng ngực và đường kính trước sau ngắn nhất, từ xương ức đến bờ trước đốt sống ngực 46, giúp đánh giá cấu trúc lồng ngực.

Theo Haller, J A, mức độ lõm ngực được phân loại dựa trên CLVT ngực như sau 23,46 :

+ 3,25 < HI < 3,5: lõm ngực trung bình

+ HI > 6,0: lõm ngực rất nặng Điện tim đồ: Đánh giá những thay đổi trên điện tim:

Nhịp xoang bình thường: nhịp xoang có tần số 60 - 100 chu kỳ/phút

Nhịp nhanh xoang: khi nhịp xoang có tần số > 100 chu kỳ/phút

Nhịp chậm xoang: khi nhịp xoang có tần số < 60 chu kỳ/phút

Rung nhĩ là một loại rối loạn nhịp tim trên thất, đặc trưng bởi sự mất đồng bộ trong hoạt động điện học và co bóp của cơ tâm nhĩ Trên điện tâm đồ, rung nhĩ được nhận diện qua các khoảng R-R không đều và sự vắng mặt của sóng P.

Block nhánh phải: sóng T đảo chiều và ngược lại hướng của phức bộ QRS ở cả hai chuyển đạo; Chuyển đạo V1 (dạng rSR, khoảng QRS ≥ 0,12 giây); Chuyển đạo V6 (sóng S rộng).

Block nhánh trái đặc trưng bởi sóng T ngược chiều với phức bộ QRS ở cả hai chuyển đạo Ở chuyển đạo V1, phức bộ QRS có dạng rộng và âm, thể hiện dưới dạng rS hoặc QS Trong khi đó, chuyển đạo V6 cho thấy sóng R rộng, có móc, với khoảng QRS kéo dài ≥ 0,12 giây.

Tăng gánh thất phải là tình trạng gia tăng áp lực lên thất phải, xảy ra khi có sự cản trở trong quá trình tống máu trong thì tâm thu hoặc do lượng máu trở về quá nhiều trong thì tâm trương.

Tăng gánh thất trái xảy ra khi có sự gia tăng áp lực lên thất trái, thường do cản trở dòng máu trong thì tâm thu hoặc do lưu lượng máu trở về quá nhiều trong thì tâm trương Tình trạng này có thể dẫn đến những vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe tim mạch nếu không được điều trị kịp thời.

Ngoại tâm thu: là tình trạng nhịp đập của tim xảy ra sớm hơn bình thường Có ngoại tâm thu thất và ngoại tâm thu nhĩ.

Siêu âm tim doppler màu: Đánh giá những thông số:

Phân suất tống máu (EF): dùng để đánh giá chức năng tâm thu thất trái. Giá trị EF bình thường trong giới hạn 50 - 70%.

Hở van hai lá là tình trạng khi van hai lá của tim không đóng kín, dẫn đến hiện tượng máu bị đẩy ngược từ tâm thất trái lên tâm nhĩ trái trong giai đoạn tâm thu.

Hở van ba lá là tình trạng khi van ba lá của tim không đóng kín, dẫn đến hiện tượng máu chảy ngược từ tâm thất phải lên tâm nhĩ phải trong giai đoạn tâm thu.

Lỗ bầu dục là tình trạng mà lỗ thông giữa nhĩ phải và nhĩ trái, vốn tồn tại trong thời kỳ thai nhi, vẫn mở sau khi sinh và không tự đóng lại được.

Quản lý và phân tích số liệu

Số liệu sau khi thu thập được tiến hành xử lý qua các bước như sau:

Làm sạch: kiểm tra tính đầy đủ, logic, và hợp lệ của các phiếu điều tra trước khi nhập.

Tạo biểu mẫu nhập liệu, mã hóa các biến số và nhập liệu bằng phần mềm Stata 13.1.

Kiểm tra số liệu là quá trình quan trọng để xác định các giá trị thiếu, lỗi và bất thường Kết quả kiểm tra cho thấy rằng 100% các biến số đều đầy đủ và không có giá trị bất thường nào.

Thống kê mô tả được áp dụng.

Thống kê suy luận bằng các test thống kê đối với biến định lượng là Mann

– Whitney test và Kruskal Wallis test được áp dụng; với biến định tính chúng tôi sử dụng fisher’s exact test.

Sự khác biệt được coi là có ý nghĩa thống kê với p 18 tuổi) có 65 bệnh nhân (17,82%) Đặc biệt, nhóm tuổi từ 12 - 15 chiếm tỷ lệ cao nhất, cho thấy đây là giai đoạn dậy thì, khi triệu chứng lõm ngực trở nên rõ ràng hơn Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân từ 16 tuổi trở lên cũng cao (48,23%), cho thấy nhận thức của cộng đồng về bệnh lõm ngực bẩm sinh còn hạn chế Do đó, cần tăng cường tuyên truyền và giáo dục để nâng cao hiểu biết về bệnh này, giúp bệnh nhân được điều trị kịp thời và hiệu quả.

Nghiên cứu của tác giả Choi.S và Park H.J (2017) đã phân tích dữ liệu từ 994 bệnh nhân trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2015, với độ tuổi trung bình là 9,59, dao động từ 31 tháng đến 55 tuổi Nhóm tác giả đã chia mẫu nghiên cứu thành 7 nhóm tuổi khác nhau, bao gồm Nhóm 1 (< 5 tuổi) và Nhóm 2 (từ 5 tuổi trở lên).

9 tuổi), nhóm 3 (từ 10 - 14 tuổi), nhóm 4 (từ 15 - 17 tuổi), nhóm 5 (từ 18 - 19 tuổi), nhóm 6 (từ 20 - 24 tuổi), nhóm 7 (> 24 tuổi) 101

Độ tuổi tối ưu cho phẫu thuật lõm ngực bẩm sinh vẫn là chủ đề gây tranh cãi Tuy nhiên, nhiều tác giả đồng thuận rằng thời điểm phẫu thuật lý tưởng là từ 5 tuổi trở lên.

Theo tác giả Donald Nuss, độ tuổi tốt nhất để thực hiện phẫu thuật sửa chữa lõm ngực bẩm sinh là từ 8 đến 12 tuổi Nghiên cứu của Pilegaard H.K và cộng sự (2008) trên 383 bệnh nhân cho thấy, phẫu thuật bằng phương pháp xâm lấn tối thiểu được thực hiện từ năm 2001 đến 2006, với độ tuổi trung bình là 16, trong đó bệnh nhân nhỏ nhất là 7 tuổi và lớn nhất là 43 tuổi.

Nghiên cứu của tác giả Park H.J và cộng sự (2010) trên 1170 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh tại Hàn Quốc cho thấy, lứa tuổi từ 3 - 5 là thời điểm lý tưởng để can thiệp phẫu thuật Với độ tuổi trung bình là 10,3, nghiên cứu chỉ ra rằng thành ngực của trẻ trong giai đoạn này còn mềm dẻo, giúp giảm thiểu biến chứng và tăng tốc độ phục hồi Đặc biệt, 38% bệnh nhân dưới 5 tuổi đã có kết quả điều trị phẫu thuật tốt, cho phép hoàn thành quá trình điều trị trước khi trẻ bắt đầu đi học.

Theo tác giả Krystian Pawlak và cộng sự (2018) nghiên cứu tại Ba Lan trên 1006 bệnh nhân từ năm 2002 đến năm 2016, độ tuổi trung bình là 18,6 (từ 7

Nghiên cứu được thực hiện trên 62 đối tượng, chia thành 3 nhóm tuổi: nhóm 1 (7 - 14 tuổi), nhóm 2 (15 - 20 tuổi), và nhóm 3 (trên 20 tuổi) Kết quả cho thấy tỷ lệ biến chứng tăng theo độ tuổi, mặc dù các biến chứng này không nghiêm trọng Đặc biệt, tỷ lệ tái phát ở nhóm tuổi nhỏ nhất là cao nhất, đạt 3,2%.

Theo nghiên cứu của Frazier W Frantz (2011), lứa tuổi lý tưởng để thực hiện phẫu thuật điều trị lõm ngực bẩm sinh là từ 10 đến 14 tuổi Trong một nghiên cứu khác của Shi R, Xie L và cộng sự (2019), các phẫu thuật viên cũng đồng thuận rằng lứa tuổi thích hợp cho phẫu thuật là từ 6 tuổi trở lên.

Theo nghiên cứu của Irfaan Abid và cộng sự (2017), phẫu thuật xâm lấn tối thiểu Nuss có thể được thực hiện thành công cho bệnh nhân từ 50 tuổi trở lên, khi có sự tham gia của các phẫu thuật viên có kinh nghiệm trong điều trị bệnh lõm ngực bẩm sinh Nhiều nghiên cứu lớn đã chỉ ra rằng phẫu thuật Nuss có thể thành công cho bệnh nhân từ 30 đến 70 tuổi.

Tác giả Lâm Văn Nút (2014) đã tiến hành nghiên cứu trên 229 bệnh nhân mắc chứng lõm ngực bẩm sinh, được phẫu thuật theo phương pháp Nuss tại bệnh viện Chợ Rẫy, TP Hồ Chí Minh, trong khoảng thời gian từ tháng 2/2009 đến tháng 8/2012 Đối tượng nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 16,2 ± 4, với độ tuổi nhỏ nhất là 6 và lớn nhất là 28 Mẫu nghiên cứu được chia thành 3 nhóm tuổi: nhóm 1 (6-12 tuổi) chiếm 15%, nhóm 2 (13-17 tuổi) chiếm 50%, và nhóm 3 (18-28 tuổi) chiếm 35%.

Tác giả Trần Thanh Vỹ (2019), nghiên cứu trên 719 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được điều trị bằng phẫu thuật Nuss từ tháng 3/2008 đến tháng

Vào tháng 12 năm 2016, nhóm nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 12,4 ± 5,7 tuổi Mẫu nghiên cứu được chia thành 5 nhóm tuổi: nhóm 1 (2 - 5 tuổi) chiếm 18,3%, nhóm 2 (6 - 11 tuổi) chiếm 21,3%, nhóm 3 (12 - 15 tuổi) chiếm 26,6%, nhóm 4 (16 - 18 tuổi) chiếm 21,6%, và nhóm 5 (> 18 tuổi) chiếm 12,2% Nhóm tuổi từ 12 - 15 chiếm tỷ lệ cao nhất, trong khi nhóm trên 18 tuổi chiếm tỷ lệ thấp nhất Theo tác giả, phẫu thuật Nuss cho bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh trong độ tuổi từ 2 - 11 tuổi mang lại hiệu quả tốt, cải thiện sự phát triển thể chất, và có ít biến chứng.

Như vậy, độ tuổi phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của các tác giả trên.

4.1.3 Thời điểm phát hiện bệnh

Dị tật lõm ngực có thể được phát hiện ngay sau khi sinh hoặc vào độ tuổi dậy thì Theo nghiên cứu của Kelly R.E và cộng sự (2008), khoảng 30% trường hợp được phát hiện ngay sau sinh, trong khi phần lớn các trường hợp khác được nhận diện trong giai đoạn dậy thì.

Tác giả Lâm Văn Nút (2014), nghiên cứu thời gian phát hiện bệnh trên

229 bệnh nhân cho thấy có 26% số trường hợp phát hiện lõm ngực ngay sau khi sinh và có 74% trường hợp phát hiện bệnh ở tuổi dậy thì 51

Tiền sử lõm ngực bẩm sinh và bệnh kèm theo

Cho đến hiện tại, yếu tố di truyền liên quan đến dị tật lõm ngực vẫn chưa được xác định rõ ràng Nhiều nghiên cứu, bao gồm các tác giả Welch (1989), Leung và Hoo, đã được thực hiện để tìm hiểu vấn đề này.

Nghiên cứu của Hecker và cộng sự (1987) cho thấy bệnh lõm ngực bẩm sinh có yếu tố gia đình, trong khi Shamberger (1988) chỉ ra rằng 37% trường hợp lõm ngực liên quan đến các hội chứng di truyền như Marfan, Poland và Ehlers Danos Bên cạnh đó, bệnh này cũng có thể đi kèm với các dị tật khác, như được nêu trong nghiên cứu của Scherer và cộng sự (1988) về hội chứng Marfan.

Nghiên cứu của Creswick và cộng sự (2006) chỉ ra rằng bệnh lõm ngực bẩm sinh có tính di truyền và có thể liên quan đến mô liên kết Họ cũng nhấn mạnh rằng lõm ngực di truyền phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, vì vậy không phải tất cả bệnh nhân đều có tiền sử gia đình mắc bệnh này.

Nghiên cứu của Nuss D và cộng sự (2016) trên 4.161 bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh cho thấy khoảng 30% trong số đó có vẹo cột sống, trong khi khoảng 15% mắc hội chứng Marfan.

Nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014) trên 229 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh tại Việt Nam cho thấy 8,7% có vẹo cột sống, 1,3% có tim bẩm sinh, và 14,4% có tiền sử gia đình bị lõm ngực bẩm sinh Tương tự, nghiên cứu của Trần Thanh Vỹ (2019) trên 719 bệnh nhân chỉ ra rằng 14,7% có người thân mắc bệnh, 1,9% có vẹo cột sống kèm theo, và 2,2% gặp tình trạng viêm hô hấp kéo dài Ngoài ra, nghiên cứu của Ngô Gia Khánh và cộng sự (2011) cho thấy 3,8% có tiền sử gia đình lõm ngực bẩm sinh và 5,6% đã từng phẫu thuật điều trị tình trạng này.

Theo bảng 3.3, có 46 trường hợp (12,6%) có người thân trong gia đình bị lõm ngực bẩm sinh, trong đó 8 trường hợp có anh, chị em ruột mắc bệnh này Ngoài ra, có 22 trường hợp còn tồn tại lỗ bầu dục (6,03%), 1 trường hợp gù vẹo cột sống (0,27%), 2 trường hợp viêm đường hô hấp kéo dài (0,55%), 3 trường hợp sa sút trí tuệ (0,82%), 1 trường hợp mắc hội chứng Marfan và 1 trường hợp đã từng phẫu thuật Ravitch để chỉnh sửa lõm ngực bẩm sinh nhưng không thành công.

Phân loại lõm ngực

Theo nghiên cứu của Cartoski M.P và cộng sự (2006), hầu hết các trường hợp lõm ngực không đối xứng có tâm hố lõm lệch về bên phải xương ức Nghiên cứu của Kelly R.E và cộng sự (2013) trên 300 bệnh nhân cho thấy 67% trường hợp lõm ngực hình chén, 21% hình đĩa, 10% dạng Grand Canyon, và 1% vừa lồi vừa lõm Đặc biệt, 80% lõm ngực không đối xứng có tâm hố lõm lệch về bên phải, trong khi 10% lệch về bên trái Lõm ngực hình chén - đáy sâu, lõm không đối xứng nặng, và dạng Grand Canyon là những thách thức lớn trong điều trị, thường yêu cầu phải sử dụng 2 thanh kim loại.

Nghiên cứu của tác giả Lâm Văn Nút (2014) trên 229 bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh phẫu thuật theo phương pháp Nuss cho thấy hình dạng lõm ngực chủ yếu là lõm diện (73,8%), tiếp theo là lõm ngực dạng điểm (14,4%), lõm ngực dạng hẻm núi lớn (7%) và ngực lép (4,8%) Về tính đối xứng, 67,2% trường hợp có hố lõm không đối xứng, trong đó hố lõm lệch về bên phải chiếm 76,6% Đối với độ dài hố lõm theo chiều dài xương ức, 13,3% có lõm ở 1/3 dưới xương ức, 48,1% ở 2/3 xương ức và 38,4% ở hơn 2/3 xương ức.

Theo bảng 3.4 và 3.5, tổng số trường hợp lõm ngực được ghi nhận là 288 trường hợp lõm ngực đối xứng (chiếm 78,9%), 70 trường hợp lõm ngực lệch phải (19,18%) và 7 trường hợp lõm ngực lệch trái (1,92%) Trong đó, có 270 trường hợp lõm điểm (73,97%) và các trường hợp còn lại là lõm diện.

Trong nghiên cứu, có 75 trường hợp bị lõm ngực, chiếm tỷ lệ 20,54% Phần lớn chiều dài hố lõm nằm ở 2/3 dưới xương ức (55,34%) và 1/3 dưới xương ức (36,16%) Theo phân loại mức độ nặng của bệnh, 20,82% trường hợp được xác định là lõm ngực nhẹ, 21,92% là trung bình, 55,34% là nặng và có 7 trường hợp rất nặng, chiếm 1,92% (phân loại dựa theo chỉ số Haller).

Vào năm 2004, Hyung Joo Park từ Hàn Quốc đã đề xuất một phương pháp phân loại lồng ngực thành 7 dạng, nhằm phục vụ cho kỹ thuật phẫu thuật Nuss Phân loại này nhanh chóng được áp dụng tại nhiều trung tâm phẫu thuật ở Châu Á Trong nghiên cứu của chúng tôi, theo phân loại của Park, thể lõm ngực đồng tâm khu trú chiếm tỷ lệ cao nhất với 69,04%, tiếp theo là thể đồng tâm dạng phẳng với 19,18%, thể lệch tâm khu trú là 3,84%, thể lõm hai bên không cân xứng là 6,58%, trong khi các thể khác chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp.

Bảng 4.1 Phân loại lõm ngực theo Hyung Joo Park ở một số nghiên cứu

Chúng tôi Trần Thanh Vỹ 105 Ngô Gia Khánh 71 n = 365 % n = 1067 % n = 53 %

Chúng tôi sử dụng phương pháp phân loại của Park H.J vì tính đơn giản, hiệu quả và dễ nhớ của nó, đồng thời nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng quá trình uốn thanh kim loại trong phẫu thuật.

Đặc điểm lâm sàng trước phẫu thuật

4.4.1 Nhanh mệt, thiếu sức chịu đựng khi tập luyện

Nỗi lo lắng chính của bệnh nhân là không thể theo kịp bạn bè trong các hoạt động thể dục thể thao Họ thường cảm thấy mệt mỏi nhanh chóng khi cố gắng tham gia, phải dừng lại để thở trong khi đang chơi thể thao Nhiều người có thể lực yếu từ nhỏ, dẫn đến việc ít tham gia vào các môn thể thao đòi hỏi sức mạnh và tính cạnh tranh như bóng đá, điền kinh hay bơi lội.

Theo số liệu nghiên cứu của chúng tôi, 298 trường hợp (81,64%) có biểu hiện nhanh mệt, hồi hộp; 203 trường hợp (55,62%) biểu hiện thiếu sức khi tập luyện (bảng 3.8).

Theo nghiên cứu của Fonkalsrud E.W và cộng sự (2000), 30 năm kinh nghiệm phẫu thuật lõm ngực tại bệnh viện UCLA cho thấy 67% bệnh nhân gặp triệu chứng thiếu sức khi tập luyện Tương tự, Nuss D và cộng sự (2008) đã nghiên cứu 900 trường hợp lõm ngực bẩm sinh từ năm 1987 đến 2007, trong đó 82% bệnh nhân (739 trường hợp) cũng gặp phải triệu chứng này sau khi thực hiện phẫu thuật xâm lấn tối thiểu.

Nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014) trên 229 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh cho thấy 58,8% trường hợp gặp triệu chứng thiếu sức khi tập luyện, bao gồm mệt mỏi, hồi hộp và khó thở Tương tự, nghiên cứu của Trần Thanh Vỹ (2019) trên 719 bệnh nhân cũng chỉ ra rằng triệu chứng thiếu sức khi tập luyện chiếm 36,4%.

Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của những tác giả trên.

4.4.2 Đau ngực khi vận động

Theo bảng 3.8, nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 149 trường hợp (40,82%) có triệu chứng đau ngực khi vận động, đặc biệt khi gắng sức So với nghiên cứu của tác giả Lâm Văn Nút, tỷ lệ đau ngực khi vận động cũng được quan tâm.

Theo nghiên cứu của Trần Thanh Vỹ (2019), tỷ lệ đau ngực khi vận động đạt 37,8% với 272 trường hợp, trong khi nghiên cứu của Fonkalsrud E.W và cộng sự (2000) ghi nhận tỷ lệ đau ngực chỉ là 12,8% với 48 trường hợp Đáng chú ý, một nghiên cứu khác vào năm 2014 cho thấy tỷ lệ này là 29,3% với 67 trường hợp.

Triệu chứng đau ngực khi vận động trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ cao hơn so với các nghiên cứu trước Đau ngực thường gặp ở trẻ lõm ngực, đặc biệt là những trường hợp nặng, với cảm giác đau tức ở vùng trước ngực khi vận động, gắng sức hoặc ăn uống Nguyên nhân của triệu chứng này chưa được giải thích rõ ràng, nhưng nhiều tác giả cho rằng nó liên quan đến biến dạng xương và sụn sườn, bất thường hướng bám các cơ thành ngực và sự bất thường cơ hoành Khi lồng ngực cử động, sự co kéo của các cơ này gây ra biến dạng lồng ngực, dẫn đến triệu chứng đau và không thoải mái trong sinh hoạt, đặc biệt là khi hoạt động thể lực Đau ngực có thể xảy ra cả lúc nghỉ ngơi và nổi bật hơn khi vận động hoặc gắng sức.

4.4.3 Khó thở khi gắng sức

Triệu chứng khó thở khi gắng sức thường xuất hiện ở những trường hợp lõm ngực nặng, làm giảm thể tích lồng ngực và chèn ép tim, phổi, từ đó giảm thể tích phổi và cung lượng tim, gây ra mệt mỏi và khó thở, đặc biệt khi hoạt động Trong khi đó, trẻ nhỏ hoặc trẻ bị lõm ngực nhẹ thường ít gặp khó thở do lồng ngực vẫn giãn nở tốt và chức năng tim phổi chưa bị ảnh hưởng nhiều nhờ khả năng bù trừ của hệ tim phổi.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 218 trường hợp biểu hiện khó thở khi gắng sức (59,73%) (bảng 3.8) Tỷ lệ khó thở trong nghiên cứu của tác giả Nuss

Tỷ lệ khó thở trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu trước đây, với D (2008) ghi nhận 42,9%, Trần Thanh Vỹ (2019) là 22,7%, và Lâm Văn Nút (2014) là 24,9% Nguyên nhân có thể là do tỷ lệ bệnh nhân bị lõm ngực mức độ nặng trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn.

4.4.4 Ảnh hưởng tâm lý - xã hội, phát triển thể chất - trí tuệ

Nghiên cứu của Pilegaard H.K và cộng sự (2011) đã khảo sát 700 bệnh nhân mắc chứng lõm ngực bẩm sinh, trong độ tuổi từ 30 đến 53, những người đã trải qua phẫu thuật ít xâm lấn từ năm 2001 đến 2010 Phẫu thuật được chỉ định chủ yếu do ảnh hưởng tâm lý và sự không hài lòng về hình dạng lồng ngực của bệnh nhân.

Nghiên cứu của Aronson D.C và cộng sự (2007) cho thấy trong số 176 bệnh nhân trưởng thành (từ 18 đến 47 tuổi) mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh được điều trị bằng phẫu thuật xâm lấn tối thiểu, phần lớn bệnh nhân đều gặp phải các vấn đề tâm lý và có những than phiền về thẩm mỹ của lồng ngực.

Nghiên cứu của tác giả Lâm Văn Nút (2014) trên 229 bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh cho thấy 27,5% trong số họ gặp phải vấn đề về tâm lý và mối quan hệ xã hội, chủ yếu là ở những bệnh nhân trên 13 tuổi Họ thường cảm thấy mặc cảm về hình dạng lồng ngực và sức khỏe kém hơn bạn bè cùng lớp, đặc biệt là ở bệnh nhân nữ Ngoài ra, có 3 trường hợp sa sút trí tuệ (1,8%), khiến bệnh nhân không thể học tập do khả năng tiếp thu kiến thức rất kém.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 262 trường hợp (71,78%) bệnh nhân gặp phải vấn đề tâm lý xã hội, với nhiều người cảm thấy mặc cảm và tự ti về hình dáng lồng ngực cũng như sức khỏe kém hơn bạn bè cùng trang lứa, đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân trên 12 tuổi, khi trẻ đã có nhận thức rõ về hình thể của mình Bảng 3.7 và 3.8 chỉ ra rằng 192 bệnh nhân (52,6%) bị kém phát triển thể chất, trong đó hầu hết có chỉ số BMI dưới 18,5 Tổng cộng, có 308 bệnh nhân (84,38%) có chỉ số BMI dưới 18,5, không ghi nhận trường hợp nào thừa cân và chỉ có 3 trường hợp sa sút trí tuệ (0,82%), dẫn đến khó khăn trong việc tiếp thu học tập.

Trẻ nhỏ bị lõm ngực thường không nhận thức về hình thể lồng ngực, nên không ảnh hưởng đến tâm lý và vẫn tham gia sinh hoạt tập thể bình thường Tuy nhiên, khi bước vào tuổi dậy thì, trẻ bắt đầu nhận thức về hình thể lồng ngực của mình, dẫn đến tâm lý mặc cảm, tự ti và xấu hổ Điều này khiến trẻ xa lánh bạn bè và tránh né các tình huống cần cởi bỏ quần áo, đồng thời không tham gia các hoạt động xã hội và thể thao như bơi lội, điền kinh hay aerobic, nơi có khả năng để lộ lồng ngực.

Trẻ em bị lõm ngực thường có thể chất yếu, chậm phát triển và thiếu sức lực khi tham gia các hoạt động thể thao, dẫn đến tình trạng thụ động và thiếu tự tin trong sinh hoạt và học tập Khi tình trạng lõm ngực trở nên nặng, trẻ có thể gầy yếu, suy nhược cơ thể, và gặp khó khăn trong việc học Nghiên cứu của Lawson chỉ ra rằng trong những trường hợp nặng, trẻ có thể đối mặt với trầm cảm, tự kỷ, và thậm chí có ý tưởng tự sát do bị bạn bè và người xung quanh ngược đãi.

Đặc điểm cận lâm sàng trước phẫu thuật đặt thanh kim loại

4.5.1 Đặc điểm về chức năng hô hấp và tim mạch

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả bệnh nhân đều trải qua các xét nghiệm điện tim, siêu âm tim và đo chức năng hô hấp Kết quả cho thấy chức năng hô hấp của hầu hết bệnh nhân trước phẫu thuật là tốt, với giá trị FEV1/FVC trung bình là 111.91 ± 9,45, và 99,43% bệnh nhân có FEV1/FVC ≥ 70% Siêu âm tim doppler cho thấy phân suất tống máu (EF%) trung bình là 67,39 ± 5,91, nằm trong giới hạn bình thường Tuy nhiên, có một số phát hiện bất thường, bao gồm 22 trường hợp còn lỗ bầu dục (6,03%), 14 trường hợp hở van hai lá (3,84%), 24 trường hợp hở van ba lá (6,58%) và 33 trường hợp tăng áp lực động mạch phổi (9,04%) Trên điện tâm đồ, 150 bệnh nhân (41,10%) có biểu hiện bất thường.

Trong nghiên cứu, có 90 trường hợp nhịp nhanh xoang chiếm 24,66% và 1 trường hợp nhịp chậm xoang chỉ 0,27% Đối với các loại block, có 18 trường hợp block nhánh phải (4,93%) và 4 trường hợp block nhánh trái (1,1%) Ngoài ra, tăng gánh thất phải ghi nhận 33 trường hợp (9,04%) và ngoại tâm thu có 5 trường hợp (1,37%) như được trình bày trong bảng 3.9.

Nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014) chỉ ra rằng có 52 trường hợp (22,7%) có kết quả siêu âm tim trước phẫu thuật không bình thường, bao gồm hở van hai lá, hở van ba lá và sa van hai lá, trong đó hở van hai lá chiếm 42 trường hợp (18,3%) Bên cạnh đó, có 78 trường hợp (34,1%) có kết quả bất thường trên điện tâm đồ, với nhịp nhanh xoang chiếm ưu thế với 41 trường hợp (52,6%), 14 trường hợp block nhánh phải (17,9%) và 6 trường hợp ngoại tâm thu (7,7%).

Nghiên cứu của Trần Thanh Vỹ (2019) cho thấy 93,7% trường hợp có điện tâm đồ bình thường, trong khi chỉ 3,9% trường hợp mắc nhịp nhanh xoang và 1,7% trường hợp bị block nhánh phải Siêu âm tim Doppler cũng được thực hiện để đánh giá tình trạng tim mạch.

Trong một nghiên cứu về 9 trường hợp hở van ba lá (1,3%), kết quả đo chức năng hô hấp cho thấy không có bệnh nhân nào mắc hội chứng tắc nghẽn Hầu hết bệnh nhân có chỉ số FEV1 ≥ 80%, chỉ 1,4% có FEV1 < 50%, trong khi 32,6% có FEV1 từ 50% đến dưới 80% Đo chức năng hô hấp là một xét nghiệm thường quy trước phẫu thuật cho bệnh nhân lõm ngực tại nhiều trung tâm trên thế giới Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số bệnh nhân có chức năng hô hấp giảm trước khi phẫu thuật, thể hiện qua việc thiếu khả năng gắng sức và giảm khả năng tập luyện thể lực so với mức bình thường cho độ tuổi của họ.

Tình trạng lõm ngực gây hẹp hình dạng lồng ngực và khung xương sườn, dẫn đến chèn ép ngực theo chiều trước - sau, giảm thể tích và chuyển động của lồng ngực, từ đó ngăn cản sự phát triển bình thường của phổi và gây áp lực lên tim, làm giảm khả năng co giãn của tim Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng chức năng hô hấp của bệnh nhân cải thiện sau phẫu thuật, ngay cả khi trước đó có sự giảm sút Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu cho thấy không có sự thay đổi đáng kể về chức năng hô hấp sau khi thực hiện phẫu thuật điều trị lõm ngực.

Hầu hết các nghiên cứu hiện nay chỉ đo chức năng hô hấp của bệnh nhân lõm ngực khi nghỉ ngơi, trong khi triệu chứng lâm sàng thường xuất hiện khi bệnh nhân gắng sức, dẫn đến khó khăn trong việc đánh giá toàn diện khả năng hô hấp Ngoài yếu tố cấu trúc giải phẫu, tâm sinh lý cũng ảnh hưởng lớn đến khả năng hô hấp; bệnh nhân lõm ngực thường ít tham gia thể thao, làm giảm khả năng tập luyện và gắng sức Do đó, phẫu thuật chỉnh sửa tình trạng lõm ngực không chỉ giúp cải thiện chức năng hô hấp mà còn tăng cường sự tự tin và khả năng tham gia các hoạt động thể lực của bệnh nhân.

4.5.2 Đặc điểm hình ảnh CLVT và X-quang ngực

Chụp CLVT lồng ngực là phương pháp chẩn đoán hình ảnh quan trọng trong việc phát hiện dị tật lõm ngực bẩm sinh Phương pháp này không chỉ xác định mức độ nghiêm trọng của tình trạng lõm ngực qua chỉ số Haller mà còn phân loại hình thái lồng ngực, chẩn đoán các bệnh lý và tổn thương kèm theo CLVT giúp đánh giá mức độ chèn ép tim, chèn ép phổi, sự mất cân xứng trong lồng ngực, cũng như các dị dạng khác, từ đó hỗ trợ phẫu thuật viên lựa chọn phương pháp phẫu thuật phù hợp Chính vì vậy, chụp CLVT lồng ngực đã trở thành thăm dò hình ảnh thường quy trước phẫu thuật tại các trung tâm điều trị lõm ngực bẩm sinh.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số Haller (HI) trung bình trên CLVT lồng ngực là 3,81, với giá trị thấp nhất là 2,58 và cao nhất là 14,5 (được ghi nhận ở một bệnh nhân) Nhóm tuổi trên 18 có chỉ số HI cao nhất là 4,10, trong khi nhóm từ 12 tuổi trở xuống có chỉ số thấp nhất.

Chỉ số Haller (HI) là yếu tố quan trọng trong chẩn đoán lõm ngực, với giá trị bình thường ≤ 2,56 Khi HI > 2,56, bệnh nhân được xác định là mắc lõm ngực, và chỉ định phẫu thuật được xem xét khi HI > 3,25 Mức độ nghiêm trọng của lõm ngực tỷ lệ thuận với giá trị HI, với kết quả nghiên cứu cho thấy 76 trường hợp (20,82%) bị lõm ngực nhẹ, 80 trường hợp (21,92%) bị lõm ngực trung bình, 202 trường hợp (55,34%) bị lõm ngực nặng.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân bị lõm ngực nặng là khá cao, tương tự như kết quả của Zhang (2015) với 61,5% bệnh nhân lõm ngực nặng dựa trên chỉ số HI từ CLVT ngực Nghiên cứu của Trần Thanh Vỹ (2019) cũng cho thấy tỷ lệ bệnh nhân lõm ngực nặng đạt 63,3%, trong khi tỷ lệ bệnh nhân lõm ngực rất nặng chỉ chiếm 1,7%.

Trên phim CLVT ngực, có 79 trường hợp xoắn vặn xương ức (21,64%) và 58 trường hợp tim bị chèn ép, đẩy lệch sang trái (15,89%) Ngoài ra, vẹo cột sống được ghi nhận ở 3 trường hợp (0,82%) và giãn phế quản ở 2 trường hợp (0,55%), cho thấy sự hiện diện của các bệnh kèm theo trên CLVT ngực.

Tác giả Trần Thanh Vỹ (2016) nghiên cứu trên 1067 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật theo phương pháp ít xâm lấn tại bệnh viện Đại học Y

Từ năm 2008 đến năm 2015, Dược thành phố Hồ Chí Minh ghi nhận 494 trường hợp xoắn xương ức, chiếm 46,3% tổng số ca, và 159 trường hợp chèn ép tim, tương đương 14,9% Chỉ số HI trung bình trên CLVT ngực là 4,3 ± 1,7 105.

Nghiên cứu của tác giả Lâm Văn Nút (2014) trên 229 bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh cho thấy 30,1% trường hợp mắc xoắn vặn xương ức, 16,1% có hiện tượng chèn ép tim Chỉ số HI trung bình trên CLVT được ghi nhận là 4,57, với giá trị thấp nhất là 3,05 và cao nhất là 19,3.

Như vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với kết quả trong nghiên cứu của các tác giả trên.

* Phân tích sự tương quan giữa chỉ số HI trên CLVT ngực và HI trên X-quang ngực:

Chụp CLVT ngực có nguy cơ nhiễm tia X cao gấp 2 - 3 lần so với chụp X-quang quy ước, đặc biệt là ở trẻ em, nơi mà sự tiếp xúc với bức xạ có thể làm tăng nguy cơ ung thư Trẻ em nhạy cảm hơn với bức xạ, do đó, ngay cả một liều nhỏ cũng có thể gây tác động lớn Việc tiếp xúc sớm với bức xạ, thậm chí chỉ qua một lần chụp CLVT, có thể liên quan đến sự phát triển của các bệnh ác tính sau này, với nguy cơ ung thư tử vong ước tính từ 1/1000 đến 1/500 cho trẻ nhỏ đã trải qua chụp CLVT Đối với trẻ em bị LNBS, việc sử dụng CLVT ngực trước phẫu thuật có thể dẫn đến phơi nhiễm phóng xạ đáng kể mà không cần thiết, vì hầu hết các em không có bệnh lý thực thể liên quan Hơn nữa, CLVT ngực không cung cấp thêm thông tin cho kế hoạch phẫu thuật, trong khi tỷ lệ tương đồng giữa CLVT và X-quang ngực cao, dẫn đến việc giảm nhu cầu chụp CLVT ở trẻ em không có triệu chứng.

Chỉ định phẫu thuật

Dựa trên kết quả nghiên cứu toàn cầu và phân tích đặc điểm bệnh nhân điều trị lõm ngực bẩm sinh tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, chúng tôi chỉ định phẫu thuật Nuss có nội soi lồng ngực hỗ trợ cho bệnh nhân khi có hai trong số các đặc điểm theo Nuss và Kelly R.E.

Chỉ số Haller trên CT ngực > 3,25.

Lõm ngực tiến triển có triệu chứng như đau ngực, khó thở và hụt hơi khi vận động Tình trạng này ảnh hưởng đến chức năng hô hấp, khiến người bệnh khó thở khi gắng sức và dễ bị viêm nhiễm đường hô hấp Ngoài ra, siêu âm doppler màu và điện tâm đồ cho thấy có sự chèn ép tim, lệch tim, sa van hai lá và rối loạn dẫn truyền Bệnh nhân thường cảm thấy tự ti và xấu hổ về hình dạng lồng ngực của mình, dẫn đến nhu cầu phẫu thuật để cải thiện thẩm mỹ.

Lõm ngực tái phát: sau phẫu thuật Nuss hoặc phẫu thuật theo phương pháp khác như Ravitch…

Trên CLVT ngực, bình thường chỉ số Haller (HI) ≤ 2,56 ở mọi lứa tuổi; 2,56 < HI ≤ 3,25: lõm ngực nhẹ; 3,25 < HI < 3,5: lõm ngực trung bình; 3,6 ≤ HI

Lõm ngực được phân loại theo chỉ số HI, với HI ≤ 6,0 chỉ ra tình trạng lõm ngực nặng và HI > 6,0 cho thấy tình trạng rất nặng Nhiều tác giả đồng thuận rằng phẫu thuật chỉnh sửa lõm ngực nên được chỉ định cho bệnh nhân có HI > 3,25.

Theo bảng 3.14, có 267 trường hợp với chỉ số Haller trên CLVT ngực > 3,25, chiếm 73,15% Tình trạng lõm ngực đang tiến triển ảnh hưởng đến chức năng hô hấp và tim mạch, với 40,82% trường hợp bị đau ngực khi vận động, 59,73% gặp khó khăn trong việc thở khi gắng sức, và 55,62% cảm thấy hụt hơi khi tập luyện Hơn nữa, 81,64% có biểu hiện hồi hộp, nhanh mệt, trong khi 71,78% cảm thấy mặc cảm, tự ti về hình dạng lồng ngực, dẫn đến nhu cầu phẫu thuật chỉnh sửa.

Trên siêu âm Doppler tim, tỷ lệ hở van ba lá là 6,58% và hở van hai lá là 3,84% Kết quả điện tim cho thấy 9,04% bệnh nhân có tăng gánh tim phải và 4,93% bị block nhánh phải Ngoài ra, có 5 trường hợp (1,37%) bị lõm ngực tái phát sau phẫu thuật điều trị lõm ngực bẩm sinh theo phương pháp Ravitch Nghiên cứu không phân biệt độ tuổi và giới tính khi lựa chọn bệnh nhân, với độ tuổi trung bình là 15,61±3,73 tuổi, trong đó độ tuổi thấp nhất là 5 và cao nhất là 27, tỷ lệ nam giới chiếm 85% và nữ giới 15%.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên cứu trước đây và phù hợp với quan điểm chỉ định phẫu thuật của nhiều tác giả trong nước và quốc tế, bao gồm Trần Thanh Vỹ (2019), Lâm Văn Nút (2014), Ngô Gia Khánh (2011), Park H.J và cộng sự (2010), Krystian Pawlak (2018), cùng với Choi.S và Park H.J (2017).

Nhiều nghiên cứu quốc tế chỉ ra rằng phẫu thuật ít xâm lấn điều trị lõm ngực bẩm sinh được đồng thuận chỉ định do ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý và thẩm mỹ của bệnh nhân Sau khi phẫu thuật, đa số bệnh nhân cảm thấy hài lòng và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Đặc điểm phẫu thuật đặt thanh kim loại

4.7.1 Tạo hình thanh kim loại

Việc tạo hình dạng thanh kim loại phù hợp là rất quan trọng trong phẫu thuật Nuss điều trị lõm ngực bẩm sinh Nghiên cứu của Kelly R.E và cộng sự (2010) khuyến nghị uốn thanh kim loại theo hình bán nguyệt, với hai đầu thanh thoai thoải và giữ thẳng ở trung tâm khoảng 2 - 4 cm tại vị trí tiếp xúc dưới xương ức Trong quá trình phẫu thuật, vòm thanh nâng cần được uốn cao hơn một chút so với hố lõm để ngăn ngừa tái phát lõm ngực, đặc biệt ở bệnh nhân trước tuổi dậy thì và vị thành niên nhằm giảm nguy cơ sụp xuống của các sụn sườn.

Tác giả Park H.J cùng các cộng sự và Vũ Hữu Vĩnh đã đề xuất sử dụng thanh kim loại uốn cong đối xứng cho bệnh nhân bị lõm ngực đối xứng, trong khi thanh kim loại uốn cong không đối xứng được áp dụng cho những bệnh nhân bị lõm ngực không đối xứng.

Thanh vòm đối xứng Thanh vòm không đối xứng

Thanh lồi đối xứng Thanh lồi không đối xứng

Hình 4.1 Hình dạng thanh nâng ngực

Chúng tôi sử dụng thước đo uốn để tạo hình khuôn lồng ngực mong muốn, sau đó tiến hành uốn thanh kim loại nâng ngực theo kích thước đã đo, bắt đầu từ giữa và dần ra hai đầu Kích thước thanh kim loại thường nhỏ hơn chiều dài giữa hai đường nách khoảng 1 inch Phương pháp uốn này giúp tạo ra hình dạng cân xứng cho lồng ngực, mang lại sự ổn định cho bệnh nhân sau phẫu thuật.

4.7.2 Số lượng thanh kim loại được đặt

Trong nghiên cứu của chúng tôi, 95,89% trường hợp (350/365) được đặt 1 thanh kim loại, trong khi chỉ có 4,11% (15/365) trường hợp được đặt 2 thanh Đối tượng chủ yếu của những trường hợp đặt 2 thanh là bệnh nhân lớn tuổi với tình trạng lõm ngực nặng và diện lõm ngực rộng Đáng lưu ý, không có trường hợp nào được đặt 3 thanh kim loại.

Nghiên cứu của Krystian Pawlak (2018) chỉ ra rằng nhóm bệnh nhân lớn tuổi cần nhiều thanh kim loại hơn so với nhóm bệnh nhân trẻ tuổi Trần Thanh Vỹ (2019) ghi nhận hơn 2/3 trường hợp chỉ cần một thanh kim loại, với tỷ lệ cần hai thanh kim loại ở trẻ em thấp hơn có ý nghĩa thống kê Lâm Văn Nút (2014) cho thấy tỷ lệ đặt hai thanh kim loại chiếm 36,7%, và qua theo dõi, ông nhận thấy bệnh nhân sử dụng hai thanh kim loại có hình dạng lồng ngực ổn định, thẩm mỹ hơn, ít di lệch thanh và ít đau sau phẫu thuật so với bệnh nhân chỉ được đặt một thanh kim loại.

Theo nghiên cứu của Nuss D và cộng sự (2005), trong giai đoạn 1987-2004, đã phẫu thuật ít xâm lấn cho 668 bệnh nhân bị lõm ngực bẩm sinh, với tỷ lệ đặt 1 thanh kim loại là 78,1% và 2 thanh kim loại là 21,9% Biến chứng lệch thanh kim loại giai đoạn đầu ghi nhận là 14,3%, nhưng sau khi cải tiến phương pháp cố định bằng nẹp vít kết hợp chỉ thép và chỉ PDS, tỷ lệ lệch thanh kim loại đã giảm xuống còn 4,6%.

Tác giả Pilegaard H.K và cộng sự (2008) thực hiện phẫu thuật ít xâm lấn

Từ năm 2001 đến 2007, có 180 bệnh nhân mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh, với độ tuổi trung bình là 22, trong đó bệnh nhân trẻ nhất là 18 tuổi và lớn nhất là 43 tuổi Trong số này, 121 bệnh nhân (66,8%) được phẫu thuật đặt 1 thanh kim loại, 57 trường hợp (32%) được đặt 2 thanh kim loại, và 2 trường hợp (1,2%) được đặt 3 thanh kim loại.

Tác giả Park H.J và cộng sự (2010), thực hiện phẫu thuật ít xâm lấn cho

Từ năm 1999 đến 2008, có 1170 bệnh nhân mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh, với độ tuổi trung bình là 10,3 tuổi, trong đó bệnh nhân nhỏ nhất chỉ 18 tháng và lớn nhất là 51 tuổi Trong số đó, 81,5% bệnh nhân được đặt 1 thanh kim loại, trong khi 18,5% còn lại được đặt 2 thanh kim loại.

Năm 2010, tác giả Kelly R.E và cộng sự đã công bố kết quả nghiên cứu kéo dài 21 năm về điều trị lõm ngực bẩm sinh bằng phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn, được thực hiện trên 1215 bệnh nhân tại Mỹ trong giai đoạn từ năm 1987 đến 2008, chủ yếu ở độ tuổi từ 6 trở lên.

14 tuổi Trong đó, đặt 1 thanh kim loại cho 775 trường hợp (69,3%), đặt 2 thanh kim loại cho 338 trường hợp (30,3%) và đặt 3 thanh kim loại cho 4 trường hợp(0,4%) 57

Bảng 4.2 So sánh tỷ lệ số thanh kim loại được đặt ở một số nghiên cứu

Tác giả Số thanh kim loại được đặt

Như vậy, tỷ lệ đặt 2 thanh kim loại trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với nghiên cứu của các tác giả trên.

Khi bệnh nhân còn nhỏ hoặc trước tuổi dậy thì, thành ngực thường mềm mại và dễ uốn nắn, nhưng sau tuổi dậy thì, thành ngực trở nên cứng và khó uốn nắn hơn Việc sử dụng hai thanh kim loại trong điều trị cho những bệnh nhân này mang lại kết quả tốt và ổn định hơn Đặc biệt, những bệnh nhân có hội chứng Marfan hoặc các dạng lõm ngực như hẻm núi, không đối xứng hay hình đĩa thường cần phải đặt hai thanh kim loại Trong những năm gần đây, tỷ lệ sử dụng hai thanh kim loại đã tăng lên, với một số tác giả còn sử dụng ba thanh Sự ổn định của thanh kim loại trong lồng ngực được cải thiện, và không cần can thiệp phẫu thuật lại nếu được đặt hai thanh kim loại ngay từ đầu Do đó, việc sử dụng hai thanh kim loại trong lần điều trị đầu tiên đã trở thành tiêu chuẩn cho phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị lõm ngực bẩm sinh.

4.7.3 Nội soi lồng ngực hỗ trợ

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 100% trường hợp sử dụng nội soi lồng ngực hỗ trợ kết hợp với bơm khí CO2 (áp lực 5 mmHg) vào khoang màng phổi để làm xẹp phổi chủ động Trong số đó, 308 trường hợp (84,38%) thực hiện nội soi từ bên trái, 43 trường hợp (11,78%) từ bên phải, và 14 trường hợp (3,84%) thực hiện nội soi cả hai bên lồng ngực, chủ yếu ở bệnh nhân bị lõm ngực nặng gây chèn ép tim phổi và những bệnh nhân phẫu thuật Ravitch thất bại.

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng nội soi lồng ngực mang lại nhiều lợi ích cho phẫu thuật Nuss, giúp quy trình trở nên an toàn hơn và giảm thiểu tai biến, đặc biệt cho bệnh nhân bị lõm ngực nặng hoặc có tiền sử phẫu thuật lồng ngực Thông thường, phẫu thuật viên đứng bên phải bệnh nhân khi thực hiện nội soi hỗ trợ, phù hợp với kỹ thuật Nuss truyền thống, mặc dù trong một số trường hợp, nội soi bên trái hoặc cả hai bên cũng có thể được áp dụng.

Chúng tôi thực hiện phẫu thuật Nuss bằng cách đặt trocar 5 mm ở đường nách trước, dưới 2 khoang liên sườn để tạo không gian phẫu thuật mà không cần nâng xương ức Sử dụng Optic 30 độ và bơm khí CO2 áp lực thấp giúp tạo tràn khí khoang màng phổi nhân tạo, làm xẹp phổi Trong những năm gần đây, chúng tôi chủ yếu thực hiện nội soi hỗ trợ từ lồng ngực bên trái, cho phép quan sát rõ ràng toàn bộ khoang màng phổi, tim, mạch máu và trung thất, từ đó giảm thiểu nguy cơ biến chứng Đặt camera ở đường nách trước từ lồng ngực bên trái giúp kiểm soát quá trình tạo đường hầm giữa hai khoang màng phổi Mặc dù một số tác giả đề xuất đặt trocar ở đường nách giữa, chúng tôi nhận thấy điều này có thể cản trở tầm nhìn do sự che khuất của tim và phổi Nội soi lồng ngực trái mang lại lợi ích vượt trội trong việc giảm nguy cơ tổn thương tim, đặc biệt khi tim thường lệch sang bên trái Việc tiếp cận từ lồng ngực bên trái giúp phẫu thuật viên thao tác dễ dàng hơn và tự tin hơn trong quá trình phẫu thuật Đối với bệnh nhân có tình trạng lõm ngực sâu, có thể áp dụng nội soi hai bên, nhưng cần thận trọng khi đặt trocar bên trái để tránh cản trở tầm nhìn.

Dưới sự quan sát của ống kính nội soi, chúng tôi kiểm soát tốt cầm máu và tránh tổn thương phổi trong quá trình bóp bóng qua nội khí quản, giúp quan sát rõ sự nở của hai phổi Khi phổi nở tối đa và khoang màng phổi hết khí, chúng tôi rút trocar nội soi mà không cần đặt dẫn lưu khoang màng phổi trong mổ Điều này không chỉ rút ngắn thời gian nằm viện mà còn giảm đau sau mổ do ống dẫn lưu gây ra Theo nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014), chỉ có 6,6% trường hợp phải đặt dẫn lưu màng phổi trong lúc mổ do không loại bỏ hết khí trong khoang màng phổi.

4.7.4 Cách cố định thanh kim loại

Cố định thanh kim loại là yếu tố quyết định thành công của phẫu thuật, tuy nhiên, trước đây tỷ lệ di lệch thanh kim loại lên đến hơn 15% do phẫu thuật viên thường cố định vào cơ hoặc cân thành ngực Gần đây, nghiên cứu cho thấy việc sử dụng chỉ thép để khâu cố định thanh kim loại vào xương sườn hai bên hoặc nẹp vít để cố định hai đầu thanh kim loại là hiệu quả hơn Cụ thể, phương pháp cố định bằng chỉ thép sử dụng hai mũi chỉ mỗi bên, giúp tiết kiệm thời gian, giảm chi phí và nguy cơ nhiễm trùng Trong khi đó, phương pháp nẹp vít tuy vững chắc nhưng có thể tốn kém và gây hoại tử da do diện tích tiếp xúc lớn Tác giả Hebra A và cộng sự (2009) đã đề xuất phương pháp cố định 3 điểm bằng cách khâu thêm mũi chỉ PDS vào xương sườn gần xương ức, giúp giảm tỷ lệ di lệch thanh kim loại đáng kể.

Phẫu thuật rút thanh kim loại

Theo Nuss (2016), thời gian lưu thanh kim loại nên kéo dài từ 2 đến 4 năm, tùy thuộc vào mức độ dị tật lõm ngực và độ tuổi của bệnh nhân khi đặt thanh Việc rút thanh kim loại quá sớm có thể làm tăng tỷ lệ tái phát tình trạng lõm ngực Nuss khuyến nghị rằng thời điểm lý tưởng để rút thanh kim loại là sau khi đã đặt được một khoảng thời gian nhất định.

Trong ba năm theo dõi, không có trường hợp nào bệnh nhân bị lõm ngực tái phát sau khi rút thanh kim loại Nghiên cứu chỉ ra rằng, kết quả phẫu thuật ở bệnh nhân dưới 12 tuổi tốt hơn so với những bệnh nhân trên 12 tuổi Đặc biệt, bệnh nhân lớn tuổi thường cần lưu thanh kim loại lâu hơn.

Sau phẫu thuật đặt thanh kim loại tạo hình lồng ngực, bệnh nhân sẽ được hẹn tái khám định kỳ Nếu tình trạng sau phẫu thuật bình thường, thời gian lưu thanh kim loại sẽ từ 2 - 4 năm, tùy thuộc vào mức độ lõm ngực và độ tuổi phẫu thuật Trong trường hợp bệnh nhân gặp phải nhiễm trùng hoặc dị ứng với thanh kim loại, việc rút thanh có thể diễn ra sớm hơn nếu điều trị nội khoa không hiệu quả Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 175 bệnh nhân đã phẫu thuật rút thanh kim loại, với thời gian lưu trung bình là 28,89 tháng, ngắn nhất là 2 tháng do dị ứng và dài nhất là 49 tháng Thời gian lưu thanh kim loại trung bình ở nhóm tuổi từ 6 - 11 là 25,04 tháng.

- 15 là 27,12 tháng; ở nhóm tuổi từ 16 - 18 tuổi là 32,02 tháng; ở nhóm tuổi trên

Thời gian lưu thanh kim loại ở nhóm tuổi 18 là 34,05 tháng, cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (biểu đồ 3.4) Kết quả này cũng phù hợp với khuyến cáo của tác giả Donald Nuss.

Thời gian phẫu thuật rút thanh trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là 34,09 ± 10,58 phút, thời gian rút thanh kim loại ngắn nhất là 20, dài nhất là

Trong một ca phẫu thuật kéo dài 110 phút, một bệnh nhân nam 19 tuổi đã được rút thanh kim loại sau 2 năm cấy ghép do bị dị ứng muộn Vết mổ ở ngực của bệnh nhân xuất hiện dịch viêm, dẫn đến việc phẫu thuật để rút thanh kim loại và nạo sạch tổ chức viêm, đồng thời xương cũng bị mủn nát Sau phẫu thuật, bệnh nhân được đặt dẫn lưu hút áp lực âm tại chỗ và cấy dịch viêm, kết hợp điều trị bằng kháng sinh Vết mổ được cắt lọc, nặn dịch và thay băng hàng ngày Đây là trường hợp nằm viện lâu nhất sau khi rút thanh kim loại.

Thời gian nằm viện trung bình sau khi rút thanh kim loại là 2,4 ± 1,3 ngày, với thời gian ngắn nhất là 1 ngày, do bệnh nhân ổn định và xin ra viện sau mổ.

3.20) Kết quả của chúng tôi tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Trần Thanh Vỹ 99

Biến chứng

4.9.1 Tai biến trong phẫu thuật

Năm 2008, tác giả Gips H và cộng sự đã báo cáo một trường hợp thủng tim trong quá trình phẫu thuật cho bệnh nhân nam 17 tuổi bị lõm ngực bẩm sinh nặng, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và hoạt động thể lực Bệnh nhân được phẫu thuật theo kỹ thuật Nuss kinh điển nhưng sau đó lồng ngực không đạt yêu cầu, dẫn đến việc phẫu thuật viên rút thanh kim loại và chuyển sang phẫu thuật Ravitch Sau phẫu thuật, bệnh nhân gặp tình trạng huyết áp tụt và cần phẫu thuật cấp cứu do tổn thương chảy máu trong lồng ngực Kiểm tra cho thấy thanh kim loại đã xuyên thủng thành trước thất phải, nhĩ phải và gây vết thương phổi trái Mặc dù được khâu các vết thương tim, phổi và dẫn lưu khoang màng phổi, bệnh nhân đã tử vong do mất máu nhiều.

A Hình ảnh lồng ngực còn biến dạng sau lần mổ thứ hai (kỹ thuật

B Các vết thương ở tâm thất phải

Hình 4.2 Tai biến thủng tim

Tác giả Marush F và cộng sự (2003) báo cáo 1 trường hợp bệnh nhân nam

Một bệnh nhân 21 tuổi đã trải qua phẫu thuật ít xâm lấn (kỹ thuật Nuss) để điều trị lõm ngực bẩm sinh, trong đó hai thanh kim loại được đặt vào cơ thể Sau bốn tháng, bệnh nhân nhập viện trở lại do khó thở, tức ngực và đau bụng Kết quả chẩn đoán cho thấy bệnh nhân bị thủng cơ hoành, dẫn đến việc dạ dày, đại tràng ngang và lách thoát vị lên lồng ngực Phẫu thuật viên đã thực hiện phẫu thuật mở ngực cấp cứu, đưa các tạng trở lại ổ bụng và khâu lại lỗ thủng ở cơ hoành.

Tác giả Castellani C và cộng sự (2008) báo cáo kết quả nghiên cứu trên

Trong một nghiên cứu về 167 bệnh nhân mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh, phẫu thuật ít xâm lấn với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực đã được thực hiện bằng trocar 5mm đặt ở lồng ngực phải, sử dụng bơm khí CO2 với áp lực 5mmHg Tuy nhiên, đã xảy ra một trường hợp tai biến nghiêm trọng ở một bệnh nhân nam 12 tuổi, khi thanh đỡ kim loại đã đâm thủng tâm nhĩ phải và tâm thất phải, dẫn đến chảy máu trong lồng ngực Bệnh nhân đã được cấp cứu mở ngực để khâu các vết thương tim và sau đó hồi phục hoàn toàn.

Năm 2013, Tumay Umuroglu M và các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên 214 bệnh nhân mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh, được phẫu thuật bằng phương pháp ít xâm lấn với sự hỗ trợ của nội soi lồng ngực phải Trong số đó, có một trường hợp tai biến nghiêm trọng là rách cơ tim.

Năm 2017, Monge M C và cộng sự đã báo cáo một trường hợp tai biến tổn thương động mạch ngực bên trái gây chảy máu trong quá trình phẫu thuật Nuss để điều trị lõm ngực bẩm sinh cho một bệnh nhân nữ 14 tuổi Bệnh nhân đã được thực hiện can thiệp mạch nút coil động mạch ngực thành công.

Phẫu thuật Nuss, mặc dù hiếm gặp tai biến nặng, vẫn có thể gặp những biến chứng nguy hiểm, trong đó tổn thương tim là nghiêm trọng nhất nhưng ít được báo cáo Ngoài ra, các tai biến khác như tổn thương động mạch chủ, động mạch ngực trong, gan, và cơ hoành cũng có thể xảy ra Những bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật tim hoặc bị lõm ngực sâu có nguy cơ cao hơn Đặc biệt, những ca phẫu thuật tim hở trước đó có thể dẫn đến tổn thương tim khi thực hiện Nuss Để giảm thiểu rủi ro này, các tác giả khuyến nghị một số biện pháp như sử dụng nội soi lồng ngực với khí CO2, chuông hút áp lực âm, và móc kim loại để nâng xương ức trong quá trình phẫu thuật.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, đã ghi nhận một trường hợp tai biến chảy máu trong mổ do tổn thương bó mạch liên sườn tại vị trí khâu chỉ thép cố định thanh kim loại Tuy nhiên, chúng tôi đã thành công trong việc cầm máu dưới sự hướng dẫn của nội soi mà không gặp tai biến nghiêm trọng nào và không có trường hợp tử vong Việc sử dụng nội soi lồng ngực hỗ trợ với trocar đặt ở đường nách trước giúp quan sát hiệu quả, đồng thời bơm CO2 tạo tràn khí khoang màng phổi và xẹp phổi chủ động đã đảm bảo an toàn trong quá trình thao tác Nhiều tác giả cũng chỉ ra rằng nội soi lồng ngực trái mang lại nhiều lợi ích, giúp quan sát thuận lợi và giảm thiểu nguy cơ biến chứng tổn thương tim.

Biến chứng sớm trong quá trình nằm viện có thể bao gồm tràn dịch, tràn khí, tràn máu trong khoang màng phổi, cũng như các vấn đề như máu cục màng phổi, nhiễm trùng, tụ dịch vết mổ, viêm phổi, xẹp phổi, nhiễm trùng và dị ứng với kim loại, viêm màng tim, và di lệch thanh kim loại.

Nghiên cứu của Lâm Văn Nút (2014) tại bệnh viện Chợ Rẫy trên 229 bệnh nhân phẫu thuật lõm ngực từ năm 2009 đến 2012 cho thấy tỷ lệ biến chứng chung là 10% (23 trường hợp) Trong số đó, tràn khí màng phổi chiếm đa số với 7 trường hợp cần đặt dẫn lưu (3%) Ngoài ra, có 2 trường hợp tràn máu khoang màng phổi (0,9%) cần can thiệp dẫn lưu, 1 trường hợp máu cục màng phổi (0,4%) phải phẫu thuật nội soi, 2 trường hợp lệch thanh kim loại (0,9%) cần phẫu thuật lại, 5 trường hợp tụ dịch vết mổ (1,7%), 1 trường hợp viêm phổi (0,4%) và 1 trường hợp xẹp phổi.

Nghiên cứu của tác giả Nuss D và cộng sự (2008) trên 1015 bệnh nhi bị lõm ngực phẫu thuật ít xâm lấn tại Virginia trong 20 năm (1988-2008) đã ghi nhận một số biến chứng đáng chú ý Cụ thể, có 31 trường hợp tràn khí khoang màng phổi (3%) cần đặt dẫn lưu, 2 trường hợp tràn máu màng phổi (0,2%) cũng phải can thiệp tương tự Ngoài ra, còn có 11 trường hợp nhiễm trùng vết mổ (1,1%), 6 trường hợp viêm phổi (0,6%), và 4 trường hợp viêm màng tim (0,4%) Các biến chứng khác bao gồm 29 trường hợp dị ứng với thanh kim loại (2,9%), 58 trường hợp di lệch thanh kim loại (5,8%), và 32 trường hợp nâng ngực quá mức (3,2%).

Tác giả Kelly và cộng sự (2010) công bố kết quả nghiên cứu trên 1215 bệnh nhân lõm ngực bẩm sinh được phẫu thuật ít xâm lấn từ năm 1997 đến năm

Năm 2008, các biến chứng sớm được ghi nhận bao gồm 45 trường hợp tràn khí màng phổi (3,7%) cần đặt dẫn lưu, 6 trường hợp tràn máu màng phổi (0,5%), 11 trường hợp nhiễm trùng vết mổ (1%), 6 trường hợp viêm phổi (0,5%), 5 trường hợp viêm màng tim (0,5%) và 3 trường hợp tràn dịch màng phổi (0,3%).

Nghiên cứu của tác giả Pawlak K tại Ba Lan vào năm 2018 trên 1006 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ biến chứng sớm sau phẫu thuật là 35,6% Trong đó, tỷ lệ tràn khí màng phổi chiếm 24,5%, với 30% trường hợp cần dẫn lưu khoang màng phổi, trong khi phần còn lại tự hấp thu Ngoài ra, có 13 trường hợp tràn máu khoang màng phổi, trong đó 7 trường hợp cần phải dẫn lưu và 1 bệnh nhân cần truyền máu.

Nghiên cứu của tác giả Trần Thanh Vỹ (2019) trên 719 bệnh nhân cho thấy tỷ lệ biến chứng đáng chú ý, trong đó có 31 trường hợp tràn khí màng phổi, chiếm 4,3%, là biến chứng phổ biến nhất Tỷ lệ tràn máu khoang màng phổi ghi nhận là 3,6%, và chỉ có 1 trường hợp máu cục màng phổi (0,1%) Đặc biệt, không có trường hợp nào nhiễm trùng vết mổ hay di lệch thanh kim loại sớm.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, biến chứng sớm được ghi nhận bao gồm 5 trường hợp tràn khí màng phổi (1,37%), trong đó có 1 trường hợp tràn khí khoang màng phổi hai bên (0,27%) ở bệnh nhân có tiền sử mổ lõm ngực, đã được phẫu thuật nội soi cắt kén khí và ổn định Một trường hợp tràn khí khoang màng phổi (0,27%) được xử lý bằng dẫn lưu qua vết mổ nội soi Hai trường hợp tràn máu khoang màng phổi không cần dẫn lưu do số lượng ít, trong khi 1 trường hợp (0,27%) do tổn thương động mạch liên sườn đã được phẫu thuật lấy máu cục và cầm máu Để ngăn ngừa biến chứng, cần xuyên chỉ thép ở bờ trên xương sườn dưới sự quan sát của nội soi Một trường hợp nhiễm trùng thanh kim loại không đáp ứng với kháng sinh đã phải phẫu thuật lại để rút thanh kim loại Tụ dịch vết mổ ghi nhận 3 trường hợp (0,82%) chỉ cần thay băng và nặn dịch Một trường hợp nhiễm trùng vết mổ kèm viêm phổi đã được điều trị kháng sinh và ổn định ra viện Không có trường hợp nào bị biến chứng chảy máu sau mổ cần truyền máu, và không có biến chứng nặng hay tử vong xảy ra.

Biến chứng sớm phổ biến nhất trong phẫu thuật là tràn khí khoang màng phổi, thường do bơm khí CO2 làm xẹp phổi, thủng hoặc rách phổi khi đặt dụng cụ, hoặc do không đuổi khí triệt để sau khi đặt thanh kim loại Hầu hết các trường hợp không cần dẫn lưu khoang màng phổi vì khí tự hấp thu Để giảm thiểu biến chứng này, cần thực hiện đúng quy trình nở phổi và đuổi khí khoang màng phổi, đặc biệt là khi có nội soi lồng ngực hỗ trợ, giúp quy trình trở nên dễ dàng hơn Tuy nhiên, trong trường hợp gỡ dính phổi hoặc tổn thương phổi, cần chủ động dẫn lưu khoang màng phổi.

Kết quả trung hạn, dài hạn

Bệnh nhân sau phẫu thuật đặt thanh kim loại chỉnh sửa lõm ngực sẽ được hẹn khám lại sau 1 tuần để kiểm tra vết mổ và chụp X-quang ngực nhằm đánh giá tình trạng thanh kim loại và phổi, cũng như phát hiện các biến chứng nếu có Sau đó, bệnh nhân sẽ theo dõi và khám định kỳ mỗi 1-3-6 tháng, bao gồm thăm khám lâm sàng và chụp X-quang Nếu tình trạng ổn định, bệnh nhân chỉ cần kiểm tra lại mỗi 6 tháng đến 1 năm Để thu thập dữ liệu nghiên cứu, chúng tôi sẽ hẹn bệnh nhân tái khám và nếu không thể đến, sẽ thực hiện phỏng vấn qua điện thoại để thu thập thông tin và hướng dẫn chụp X-quang Tùy vào từng trường hợp, bệnh nhân sẽ được lên lịch phẫu thuật rút thanh nâng ngực.

Trong nghiên cứu với 365 bệnh nhân, chúng tôi đã liên lạc và khám lại được 344 trường hợp, đạt tỷ lệ 94,25% Trong số đó, 175 trường hợp đã trải qua phẫu thuật rút thanh kim loại, chiếm 50,87% Thời điểm khám lại cuối cùng diễn ra vào tháng 6 năm

2020), theo dõi trung hạn (sau phẫu thuật đặt thanh kim loại từ 6 - 30 tháng) có

124 trường hợp (33,97%); theo dõi dài hạn (sau phẫu thuật đặt thanh kim loại trên 30 tháng) có 220 trường hợp (60,27%).

Trong nghiên cứu, 124 bệnh nhân đã được theo dõi trong giai đoạn trung hạn, trong đó có 3 trường hợp (2,42%) đã được rút thanh kim loại.

- Đánh giá lâm sàng: kết quả lâm sàng rất tốt có 101 trường hợp (81,45%), tốt có

Trong nghiên cứu, có 21 trường hợp chiếm 16,94% có kết quả tốt, 2 trường hợp (1,61%) khá, và không có trường hợp nào có kết quả lâm sàng kém Đặc biệt, 78,23% bệnh nhân tăng cân và 92,74% bệnh nhân cải thiện sức khỏe, tăng cường hoạt động thể lực sau phẫu thuật.

Kết quả phẫu thuật được đánh giá dựa trên chỉ số HI trên X-quang ngực thẳng/nghiêng sau mổ trung hạn, với chỉ số Haller trung bình là 2,44 ± 0,15; thấp nhất là 1,96 và cao nhất là 3,2 Tỷ lệ kết quả tốt (HI ≤ 2,5) đạt 81,82%, kết quả khá (2,5 < HI < 3,25) là 18,18%, và không có trường hợp nào có kết quả kém (HI ≥ 3,25) Phân tích theo nhóm tuổi cho thấy chỉ số Haller trung bình có sự khác biệt nhẹ giữa các nhóm, tăng dần theo độ tuổi, cao nhất ở nhóm trên 18 tuổi (HI = 2,52) Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.

Theo bảng 3.23, hầu hết bệnh nhân và gia đình đều hài lòng về kết quả phẫu thuật, với 81,45% rất hài lòng và 16,13% hài lòng Chỉ có 2,42% bệnh nhân không hài lòng, chủ yếu do biến chứng nhiễm trùng vết mổ, để lại sẹo xấu, đau vết mổ và tình trạng dị ứng với thanh kim loại, khiến họ cảm thấy không thoải mái Tuy nhiên, cả ba trường hợp này đã được điều trị nội khoa ổn định và hiện chưa được rút thanh kim loại.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 220 bệnh nhân được theo dõi dài hạn, trong đó 172 trường hợp (chiếm 78,18%) đã được rút thanh kim loại Kết quả này cho thấy tỷ lệ thành công cao trong việc xử lý các trường hợp cần can thiệp.

- Đánh giá lâm sàng: kết quả lâm sàng rất tốt có 178 trường hợp (80,90%), tốt có

Trong nghiên cứu, có 37 trường hợp (16,82%) gặp tình trạng lâm sàng kém do tái phát lõm ngực sau khi rút thanh kim loại, trong khi 3 trường hợp (1,36%) và 2 trường hợp (0,92%) cũng ghi nhận tình trạng tương tự Tuy nhiên, 98,63% bệnh nhân đã cải thiện về cân nặng, sức khỏe và tăng cường hoạt động thể lực so với trước phẫu thuật.

Kết quả phẫu thuật được đánh giá qua chỉ số Haller (HI) trên X-quang ngực thẳng/nghiêng sau mổ dài hạn cho thấy chỉ số Haller trung bình trong nhóm theo dõi dài hạn là 2,45 ± 0,21, với giá trị thấp nhất là 1,95 và cao nhất là 4,3 Tỷ lệ kết quả tốt đạt 76,77%, trong khi kết quả khá là 22,31% Tuy nhiên, có 2 trường hợp (0,92%) có kết quả kém do đã rút thanh kim loại nhưng bị tái phát lõm ngực Phân tích theo từng nhóm tuổi cho thấy chỉ số Haller trung bình sau mổ đều giảm về giới hạn bình thường, và mức giảm không có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi (p > 0,05).

Theo bảng 3.24, hầu hết bệnh nhân và gia đình đều hài lòng sau phẫu thuật, với 80,90% rất hài lòng và 18,18% hài lòng Tuy nhiên, có 2 trường hợp (0,92%) không hài lòng do tái phát sau khi rút thanh kim loại Một trường hợp là bệnh nhân nữ 22 tuổi bị lõm ngực nặng, có kết quả phẫu thuật kém và cải thiện rất ít sau khi rút thanh kim loại, nguyên nhân do tuổi tác, thanh kim loại uốn không đạt yêu cầu và thời gian lưu ngắn (27 tháng) Trường hợp thứ hai là bệnh nhân nam 9 tuổi với lồng ngực lõm nặng, lệch tâm, chỉ được đặt 1 thanh kim loại và thời gian lưu cũng ngắn (23 tháng), chỉ số HI sau rút thanh là 4,3.

Kết quả khảo sát sự hài lòng của bệnh nhân trước và sau khi rút thanh kim loại cho thấy, 89,7% bệnh nhân hài lòng với phẫu thuật sau khi rút thanh kim loại khỏi lồng ngực, trong khi chỉ có 72,2% bệnh nhân trong nhóm chưa rút thanh kim loại cảm thấy rất hài lòng Sự khác biệt này được lý giải bởi cảm giác thoải mái và sự chỉnh sửa lồng ngực theo mong muốn của bệnh nhân sau khi rút thanh kim loại, giúp họ không còn cảm giác mang dị vật và có thể tham gia các hoạt động thể lực một cách bình thường.

Nghiên cứu của Nuss D và cộng sự (2008) về kết quả điều trị sau khi rút thanh kim loại ở 628 bệnh nhân trong số 1015 bệnh nhân mắc bệnh lõm ngực bẩm sinh đã chỉ ra rằng 86% trường hợp đạt kết quả rất tốt, 10,3% tốt, 2,4% khá và 1,3% kém Tác giả nhận thấy rằng tỷ lệ tái phát tỷ lệ nghịch với thời gian lưu thanh kim loại, đặc biệt khi thanh kim loại được rút trước 2 năm Ngoài ra, tuổi can thiệp phẫu thuật cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ tái phát, với nguy cơ tái phát là 5% nếu rút thanh kim loại trước tuổi dậy thì Tất cả bệnh nhân cần thực hiện tập thể dục thường xuyên sau phẫu thuật từ 6 - 8 tuần, vì những bệnh nhân này có kết quả lâu dài tốt hơn so với những người không tập thể dục.

Nghiên cứu của tác giả Park H.J và cộng sự (2010) về kết quả điều trị 1170 bệnh nhân lõm ngực từ năm 1999 đến 2008 cho thấy 576 trường hợp (49,2%) đã được rút thanh kim loại, với thời gian lưu trung bình là 2,5 năm, dao động từ 10 ngày đến 7 năm Kết quả đánh giá điều trị rất tốt ở 1085 trường hợp (92,7%), tốt ở 69 trường hợp (5,9%), khá ở 16 trường hợp (1,4%), trong khi 1 trường hợp rút thanh sau 10 ngày do nhiễm trùng vết mổ nặng được xem là thất bại (0,001%) Sau khi rút thanh kim loại, có 3 trường hợp tái phát nhẹ.

Theo nghiên cứu của Kelly R.E và cộng sự (2010), khảo sát mức độ hài lòng của 798 bệnh nhân và 341 cha mẹ bệnh nhân về kết quả phẫu thuật và hình dạng lồng ngực sau khi rút thanh kim loại cho thấy 93% bệnh nhân hài lòng, trong khi chỉ 1% không hài lòng Tương tự, 92% cha mẹ bệnh nhân cũng bày tỏ sự hài lòng, với chỉ 1% không hài lòng Kết quả được theo dõi trung vị 854 ngày sau khi rút thanh với 790 bệnh nhân, cho thấy sự hài lòng cao về kết quả phẫu thuật.

Trong tổng số 790 trường hợp, có 674 trường hợp (85,3%) đạt kết quả tốt, 83 trường hợp (10,5%) đạt kết quả khá, 11 trường hợp (1,4%) đạt kết quả trung bình, và 6 trường hợp (0,8%) có kết quả kém Đặc biệt, có 11 trường hợp (1,4%) bị tái phát lõm ngực cần phẫu thuật lại Ngoài ra, có 5 trường hợp không quay lại khám sau khi rút thanh kim loại.

Ngày đăng: 28/08/2021, 19:39

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Nuss D, Kelly RE, Jr., Croitoru DP, et al. (1998). A 10-year review of a minimally invasive technique for the correction of pectus excavatum.Journal of pediatric surgery.33(4):545-552 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(1998). A 10-year review of aminimally invasive technique for the correction of pectus excavatum."Journal of pediatric surgery
Tác giả: Nuss D, Kelly RE, Jr., Croitoru DP, et al
Năm: 1998
3. Nuss D (2005). Recent experiences with minimally invasive pectus excavatum repair "Nuss procedure". The Japanese journal of thoracic and cardiovascular surgery : official publication of the Japanese Association for Thoracic Surgery = Nihon Kyobu Geka Gakkai zasshi.53(7):338-344 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nuss procedure
Tác giả: Nuss D
Năm: 2005
4. Fokin AA, Steuerwald NM, Ahrens WA, et al. (2009). Anatomical, histologic, and genetic characteristics of congenital chest wall deformities.Seminars in thoracic and cardiovascular surgery.21(1):44-57 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2009). Anatomical,histologic, and genetic characteristics of congenital chest wall deformities."Seminars in thoracic and cardiovascular surgery
Tác giả: Fokin AA, Steuerwald NM, Ahrens WA, et al
Năm: 2009
5. Goretsky MJ, Kelly RE, Jr., Croitoru D, et al. (2004). Chest wall anomalies: pectus excavatum and pectus carinatum. Adolescent medicine clinics.15(3):455-471 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2004). Chest wallanomalies: pectus excavatum and pectus carinatum. "Adolescent medicineclinics
Tác giả: Goretsky MJ, Kelly RE, Jr., Croitoru D, et al
Năm: 2004
6. Redlinger RE, Rushing GD, Moskowitz AD, et al. (2010). Minimally invasive repair of pectus excavatum in patients with Marfan syndrome and marfanoid features. Journal of pediatric surgery.45(1):193-199 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2010). Minimallyinvasive repair of pectus excavatum in patients with Marfan syndromeand marfanoid features. "Journal of pediatric surgery
Tác giả: Redlinger RE, Rushing GD, Moskowitz AD, et al
Năm: 2010
8. Creswick HA, Stacey MW, Kelly RE, Jr., et al. (2006). Family study of the inheritance of pectus excavatum. Journal of pediatric surgery.41(10):1699-1703 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2006). Family study ofthe inheritance of pectus excavatum. "Journal of pediatricsurgery
Tác giả: Creswick HA, Stacey MW, Kelly RE, Jr., et al
Năm: 2006
9. Adkins PC, Blades B (1961). A stainless steel strut for correction of pectus escavatum. Surgery, gynecology &amp; obstetrics.113:111-113 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Surgery, gynecology & obstetrics
Tác giả: Adkins PC, Blades B
Năm: 1961
10. Vũ Hữu Vĩnh (2008). Kỹ thuật can thiệp tôi thiểu trong phẫu thuật lõm ngực. Tạp chí Y học Việt Nam.352:522-528 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tạp chí Y học Việt Nam
Tác giả: Vũ Hữu Vĩnh
Năm: 2008
12. Nguyễn Quang Quyền (1999). Phần ngực. In: Bài giảng giải phẫu học tập 2. Nhà xuất bản Y học:17 – 31 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng giải phẫu học tập2
Tác giả: Nguyễn Quang Quyền
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học:17 – 31
Năm: 1999
13. Nguyễn Quang Quyền (2017). Xương ngực; Trung thất. In: Bài giảng giải phẫu học tập 2. Đại học Y dược Thành phô Hồ Chí Minh, Bộ môn giải phẫu: Nhà xuất bản Y học:19-33; 93-101 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng giảiphẫu học tập 2
Tác giả: Nguyễn Quang Quyền
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học:19-33; 93-101
Năm: 2017
14. Hoàng Văn Cúc, Nguyễn Văn Huy, và cộng sự (2018). Giải phẫu người. Đại học Y Hà Nội, Bộ môn Giải phẫu: Nhà xuất bản Y học:48- 51; 406-408 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải phẫungười
Tác giả: Hoàng Văn Cúc, Nguyễn Văn Huy, và cộng sự
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học:48-51; 406-408
Năm: 2018
17. Skandalakis JE (2004). Chest wall and pleura. In: Surgical Anatomy - The Embryologic and Anatomic Basis of Modern Surgery. Vol II. McGrawHill Publishing:095-1150 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Surgical Anatomy - TheEmbryologic and Anatomic Basis of Modern Surgery
Tác giả: Skandalakis JE
Năm: 2004
18. Schwabegger AH (2011). Congenital thoracic wall deformities:Diagnosis, therapy, and current developments Springer Wien New York Sách, tạp chí
Tiêu đề: Congenital thoracic wall deformities:"Diagnosis, therapy, and current developments
Tác giả: Schwabegger AH
Năm: 2011
19. Shamberger RC (1996). Congenital chest wall deformities. Current problems in surgery.33(6):469-542 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Currentproblems in surgery
Tác giả: Shamberger RC
Năm: 1996
20. Shamberger RC (2009). Chest wall deformities. In: General Thoracic Surgery.599 – 628 Sách, tạp chí
Tiêu đề: General ThoracicSurgery
Tác giả: Shamberger RC
Năm: 2009
21. Nuss D (2008). Minimally invasive surgical repair of pectus excavatum.Seminars in pediatric surgery.17(3):209-217 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Seminars in pediatric surgery
Tác giả: Nuss D
Năm: 2008
22. Shamberger RC (2000). Cardiopulmonary effects of anterior chest wall deformities. Chest surgery clinics of North America.10(2):245-252, v-vi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chest surgery clinics of North America
Tác giả: Shamberger RC
Năm: 2000
23. Saxena AK (2017). Classification of Chest Wall Deformities. In: Chest Wall Deformities. Saxena, A. K. ed.: Springer, Berlin, Germany:19-36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ChestWall Deformities
Tác giả: Saxena AK
Năm: 2017
24. Aronson DC, Bosgraaf RP, van der Horst C, et al. (2007). Nuss procedure: pediatric surgical solution for adults with pectus excavatum.World journal of surgery.31(1):26-29; discussion 30 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2007). Nussprocedure: pediatric surgical solution for adults with pectus excavatum."World journal of surgery
Tác giả: Aronson DC, Bosgraaf RP, van der Horst C, et al
Năm: 2007
25. Cartoski MJ, Nuss D, Goretsky MJ, et al. (2006). Classification of the dysmorphology of pectus excavatum. Journal of pediatric surgery.41(9):1573-1581 Sách, tạp chí
Tiêu đề: et al. "(2006). Classification of thedysmorphology of pectus excavatum. "Journal of pediatricsurgery
Tác giả: Cartoski MJ, Nuss D, Goretsky MJ, et al
Năm: 2006

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w