Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng luật trong hoạt động kiểm sát các vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) tại tỉnh Kon Tum nhằm làm rõ vai trò của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) trong giải quyết các vụ án này Bài viết cũng đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao vai trò của VKS trong quá trình kiểm sát các vụ án KDTM, đáp ứng yêu cầu tư pháp hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận trong bài viết này được xây dựng dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác-Lênin Nó bao gồm các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê và so sánh, kết hợp với lý luận thực tiễn để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc nghiên cứu và ứng dụng.
Đề án này áp dụng phương pháp lịch sử để phân tích quá trình phát triển vai trò của Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) tại tòa án Qua đó, bài viết sẽ so sánh và đánh giá những thay đổi trong vai trò của VKSND, từ đó làm nổi bật sự tiến bộ và những thách thức mà cơ quan này đối mặt trong bối cảnh pháp lý hiện nay.
Phương pháp phân tích và đánh giá quy định pháp luật về vai trò của VKSND trong hoạt động tố tụng dân sự (TTDS) và giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) tại tòa án là rất quan trọng Bên cạnh đó, việc sử dụng phương pháp thống kê giúp tác giả cung cấp số liệu về sự tham gia của VKSND trong việc kiểm sát giải quyết các vụ án KDTM Từ những số liệu này, có thể đánh giá rõ ràng vai trò của VKSND trong hoạt động kiểm sát các vụ án KDTM tại tòa án.
Ngoài ra tôi còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: so sánh, quy nạp, diễn giải…
Bố cục
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo Đề án được kết cấu gồm
Chương 1:Cơ sở pháp lý của công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại
Chương 2: Thực trang công tác kiểm sát giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại viện kiểm sát nhân dân tỉnh KtonTum và một số kiến nghị
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại
Hệ thống pháp luật Việt Nam đã ghi nhận khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên trong Luật thương mại 10/5/1997, định nghĩa tranh chấp thương mại là các tranh chấp phát sinh từ việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại (Điều 238) Tuy nhiên, quan niệm này đã loại bỏ nhiều tranh chấp có thể được xem là thương mại trong bối cảnh hiện đại, dẫn đến xung đột pháp luật giữa luật quốc gia và luật quốc tế.
Pháp lệnh trọng tài thương mại ngày 25/2/2003 không định nghĩa trực tiếp về tranh chấp thương mại, nhưng khái niệm “hoạt động thương mại” theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng giữa “thương mại” và “tranh chấp thương mại” trong pháp luật Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế Hoạt động thương mại được hiểu là việc thực hiện các hành vi thương mại của cá nhân hoặc tổ chức kinh doanh, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đại lý thương mại, vận chuyển hàng hóa, và các hành vi khác theo quy định của pháp luật (Điều 2 khoản 3).
Luật thương mại được Quốc hội thông qua vào ngày 14/6/2005 định nghĩa hoạt động thương mại là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư và xúc tiến thương mại (Điều 3 khoản 1) Khái niệm này đã được mở rộng tương tự như khái niệm kinh doanh trong Luật doanh nghiệp 1999 và 2005 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 liệt kê các tranh chấp về kinh doanh thương mại, bao gồm tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, và tranh chấp giữa công ty với các thành viên Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” mà dùng “tranh chấp về kinh doanh thương mại”, nhưng nội dung các tranh chấp này thực chất phản ánh các tranh chấp thương mại theo cách tiếp cận của Luật thương mại 2005.
Như vậy có thể hiểu: tranh chấp kinh doanh thương mại là những mâu thuẫn
( bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại
1.1.2 Các bước kiểm sát giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại:
Theo quy định tại Mục 2 kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự, Điều 10 và Điều 26 của Quy chế công tác kiểm sát 2017, quy trình kiểm sát giải quyết tranh chấp thương mại được thực hiện qua ba bước.
Kiểm sát việc thụ lý vụ việc kinh doanh thương mại của Tòa án là trách nhiệm quan trọng của kiểm sát viên Khi nhận thông báo thụ lý, kiểm sát viên phải ghi vào sổ thụ lý và kiểm tra việc thực hiện thời hạn, đảm bảo hình thức và nội dung phù hợp với quy định tại Điều 174 Bộ luật Tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nếu thông báo thụ lý của Tòa án, cả ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm, không đúng quy định (như không gửi, gửi chậm, hoặc vi phạm về hình thức và nội dung), thì cần tập hợp kiến nghị và yêu cầu Tòa án khắc phục theo Điều 21 khoản 1 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Theo Điều 179 BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án kinh doanh thương mại là 02 tháng, có thể gia hạn thêm 01 tháng kể từ ngày thụ lý Sau thời hạn này, Tòa án phải ra một trong các quyết định theo khoản 2 Điều 179 BLTTDS và gửi cho Viện kiểm sát Kiểm sát viên có trách nhiệm thực hiện các công việc liên quan.
Khi nhận quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án, cần ghi vào sổ theo dõi và lập văn bản nghiên cứu các quyết định này Nếu phát hiện dấu hiệu vi phạm, phải yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để nghiên cứu theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSTC-TANDTC Điều này nhằm xem xét việc kháng nghị và báo cáo đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị hoặc kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc phục.
Khi tiếp nhận Kiểm sát viên, Tòa án cần nghiên cứu kỹ lưỡng nội dung và hình thức của các Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định và một số quyết định khác Đồng thời, Tòa án cũng phải tập hợp các khiếu nại của đương sự (nếu có) để xác định tính hợp pháp và có căn cứ của những quyết định này Nếu phát hiện vi phạm, Tòa án cần thực hiện kiến nghị phù hợp.
Khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, kiểm sát viên cần ghi vào sổ theo dõi và nghiên cứu đơn khiếu nại của đương sự liên quan đến việc thu thập chứng cứ của Tòa án Nếu có, kiểm sát viên sẽ yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để lập hồ sơ kiểm sát và tham gia phiên tòa.
Sau khi nhận quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự liên quan đến kinh doanh thương mại cùng với hồ sơ, kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ lưỡng, lập hồ sơ kiểm sát và tham gia phiên họp một cách đầy đủ.
Trong quá trình nghiên cứu các quyết định, bản án hoặc hồ sơ vụ việc, kiểm sát viên có quyền yêu cầu đương sự, cá nhân, tổ chức, cơ quan cung cấp hồ sơ, tài liệu và vật chứng cần thiết để thực hiện quyền kháng nghị theo quy định tại khoản 3 Điều 85 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Trong trường hợp Tòa án không gửi hoặc gửi chậm các bản án và quyết định liên quan đến vụ việc dân sự, Viện kiểm sát cùng cấp và cấp trên cần kiến nghị với Tòa án bằng văn bản để đảm bảo tiến trình pháp lý được thực hiện đúng hạn.
Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết đơn khiếu nại của đương sự liên quan đến việc thu thập chứng cứ của Tòa án Khi nhận được đơn khiếu nại, Viện kiểm sát phải ghi vào sổ nhận đơn và phân công kiểm sát viên nghiên cứu nội dung đơn, bao gồm quan hệ tranh chấp, các quyết định và hành vi của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ mà đương sự khiếu nại Nếu đương sự gửi đơn khiếu nại trực tiếp đến Viện kiểm sát, cơ quan này sẽ chuyển đơn đến Tòa án để yêu cầu Tòa án cung cấp hồ sơ vụ án, nhằm đảm bảo Viện kiểm sát có thể tham gia vào phiên tòa.
Nếu đơn không đầy đủ thông tin cần thiết, Viện kiểm sát sẽ hướng dẫn đương sự bổ sung Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể yêu cầu Tòa án xác minh và làm rõ các vấn đề mà đương sự khiếu nại, yêu cầu, kèm theo văn bản nêu rõ nội dung và thời hạn xác minh.
1.1.3 Vị trí, vai trò của việc kiểm sát việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TAND CẤP TỈNH
1.2.1 Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiên vụ án KDTM
Khi Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, cần phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại Văn bản này cũng phải được gửi đến Viện kiểm sát cùng cấp theo quy định tại Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
12 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao)
Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận văn bản trả lại đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn đó Nếu có khiếu nại hoặc kiến nghị về việc trả lại, Thẩm phán được phân công phải mở phiên họp để xem xét và giải quyết trong thời hạn 05 ngày Kiểm sát viên cần gửi ý kiến về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đến Tòa án cùng cấp.
Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận được quyết định trả lời khiếu nại hoặc kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện từ Thẩm phán, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án cấp trên để xem xét và giải quyết.
Trong vòng 10 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án cấp trên phải đưa ra quyết định giữ nguyên việc trả lại đơn hoặc yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm tiếp nhận lại đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ liên quan để tiến hành thụ lý vụ án.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có hiệu lực thi hành (Khoản 6 Điều 194 BLTTDS năm 2015)
Nếu có căn cứ cho rằng quyết định của Chánh án Tòa án cấp trực tiếp vi phạm pháp luật theo Khoản 6 Điều 194 BLTTDS năm 2015, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định Kiến nghị này có thể gửi đến Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, hoặc gửi đến Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nếu quyết định bị khiếu nại là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.
1.2.2 Kiểm sát việc thụ lý vụ án KDTM
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi thụ lý vụ việc, Tòa án phải gửi thông báo về việc thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp theo Điều 196 và thông báo thụ lý đơn yêu cầu theo Điều 365 BLTTDS năm 2015 Đối với các vụ án KDTM liên quan đến chứng cứ, tài sản công, quyền sử dụng đất, nhà ở, hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, hoặc người gặp khó khăn trong nhận thức, Tòa án cần thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát để họ có thể tham gia phiên tòa sơ thẩm theo Khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2015.
1.2.3 Kiểm sát các quyết định của Tòa án
- Các biện pháp khẩn cấp tạm thời:
Tòa án phải gửi quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc văn bản trả lời không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cho Viện kiểm sát ngay sau khi ban hành Viện kiểm sát có thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định hoặc trả lời của Thẩm phán để thực hiện các bước tiếp theo.
Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án về quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án Điều này bao gồm cả việc Thẩm phán không quyết định áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, theo quy định tại Điều 140 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Trong vòng 03 ngày làm việc kể từ khi nhận được khiếu nại của đương sự hoặc kiến nghị từ Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án có trách nhiệm xem xét và giải quyết các khiếu nại, kiến nghị theo quy định tại Điều 140 của Bộ luật này (Điều 141 BLTTDS năm 2015).
- Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử:
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, Chánh án Tòa án có quyền gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử đối với các vụ án phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, với thời gian gia hạn không quá 02 tháng cho trường hợp quy định tại điểm a và không quá 01 tháng cho trường hợp quy định tại điểm b, theo Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, nếu vụ án có tính chất phức tạp hoặc gặp sự kiện bất khả kháng, Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá 01 tháng theo quy định tại Khoản 1 Điều.
- Giải quyết vụ việc bị tạm đình chỉ, đình chỉ:
Trong vòng 03 ngày làm việc từ ngày ban hành quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại, Tòa án phải gửi quyết định đó đến Viện kiểm sát theo quy định tại Khoản 2 Điều 214 và Khoản 3 Điều 217 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Khi Tòa án quyết định tiếp tục giải quyết vụ việc kinh doanh thương mại, quyết định này sẽ được gửi đến Viện kiểm sát để thực hiện nhiệm vụ kiểm sát theo quy định của pháp luật, theo Điều 216 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
1.2.4 Kiểm sát việc chuyển hồ sơ vụ án KDTM của Tòa án
Căn cứ vào Điều 4 của Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 1/8/2012 và các Điều 4, 5, 6, 7, 8, 9 của Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016, các quy định của Viện KSNDTC và Tòa án NDTC đã được thiết lập để hướng dẫn thực hiện các quy trình liên quan.
Việc chuyển hồ sơ vụ án kinh doanh thương mại giữa Tòa án và Viện kiểm sát diễn ra ngay sau khi Tòa án ban hành quyết định mở phiên họp sơ thẩm hoặc phúc thẩm Trong trường hợp vụ việc phức tạp, Tòa án có thể chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát trước khi ra quyết định mở phiên họp để đảm bảo Viện kiểm sát có đủ thời gian nghiên cứu.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 cùng các văn bản hướng dẫn đã quy định rõ ràng về trình tự và thủ tục giải quyết vụ án kinh doanh thương mại, lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát Trình độ nghiệp vụ của cán bộ và kiểm sát viên đã được nâng cao, với sự quan tâm của lãnh đạo VKSND các cấp đối với công tác này Các cấp ủy Đảng cũng đã tăng cường lãnh đạo và giám sát hoạt động của VKSND, trong khi sự phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án ngày càng chặt chẽ Hơn nữa, trang thiết bị và phương tiện làm việc đã được cải thiện đáng kể, đáp ứng nhu cầu công việc.
Một số văn bản pháp luật hiện nay thiếu sự rõ ràng và có sự chồng chéo, trong khi Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chưa được ban hành kịp thời.
Quy định yêu cầu Kiểm sát viên gửi ngay văn bản phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát cho Tòa án ngay sau khi kết thúc phiên tòa là không hợp lý Trong các phiên tòa giải quyết án kinh doanh thương mại và lao động, các đương sự thường có nhiều ý kiến bổ sung, thay đổi hoặc rút bớt nội dung đơn khởi kiện, vì vậy Kiểm sát viên cần thời gian để chỉnh sửa và bổ sung bài phát biểu trước khi gửi cho Tòa án.
Luật TTDS năm 2015 không quy định rõ ràng về việc gửi quyết định gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, điều này gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong việc kiểm soát thời hạn chuẩn bị xét xử.
Luật Thương mại năm 2005 đã mang lại nhiều cải tiến so với Luật Thương mại năm 1997, nhưng vẫn tồn tại một số vấn đề cần được xem xét Khoản 1 Điều 3 định nghĩa "hoạt động thương mại" là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư và xúc tiến thương mại, nhưng chưa rõ ràng về các hoạt động sinh lợi khác Điều này dẫn đến câu hỏi liệu các tranh chấp trong lĩnh vực xây dựng, bảo hiểm có được xem là hoạt động thương mại hay không Thêm vào đó, Khoản 3 Điều 3 về "thói quen trong hoạt động thương mại" cũng gây ra nhiều cách hiểu khác nhau, đặc biệt là trong việc xác định quy tắc xử sự và số lần cần thiết để được coi là thói quen.
Trong một thời gian dài, 12 định đã trở thành thói quen trong hoạt động thương mại, mặc dù việc công nhận của các bên liên quan gặp nhiều khó khăn.
Theo Điều 306 Luật Thương mại, bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả lãi suất cho số tiền chậm thanh toán, dựa trên lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán Tuy nhiên, hiện chưa có hướng dẫn cụ thể về cách xác định lãi suất này Một số ý kiến cho rằng lãi suất nợ quá hạn nên dựa vào mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố, trong khi ý kiến khác lại cho rằng cần căn cứ vào lãi suất nợ quá hạn trung bình của ba ngân hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank và Agribank tại khu vực xảy ra tranh chấp.
Theo Điều 30 Bộ luật TTDS năm 2015, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại thuộc về Tòa án, bao gồm các tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh với mục đích lợi nhuận Đồng thời, Điểm b Điều 2 Nghị quyết 03/2012 của HĐTPTANDTC xác định rằng Tòa kinh tế có nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết các tranh chấp và yêu cầu liên quan đến kinh doanh, thương mại theo quy định tại Điều 29 và Điều 30.
Theo Điều 30 và Điều 31 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, các tranh chấp về kinh doanh, thương mại có thể xảy ra ngay cả khi một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn nhằm mục đích lợi nhuận Tuy nhiên, Nghị quyết 03/2012 về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đã mâu thuẫn với quy định tại Điều 29 BLTTDS, mặc dù vẫn được áp dụng trong thực tế Việc xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp là rất quan trọng để xác định thẩm quyền của Tòa án và áp dụng pháp luật nội dung, vì nếu không xác định đúng sẽ dẫn đến việc giải quyết và áp dụng pháp luật thiếu thống nhất và bất cập.
Việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp giữa vụ án kinh doanh thương mại và vụ án dân sự chưa có sự thống nhất rõ ràng Theo Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, việc xác định mục đích vay là yếu tố quan trọng: nếu vay để sinh lợi thì thuộc án kinh doanh, thương mại, ngược lại, nếu chỉ nhằm tiêu dùng thì là án dân sự Tuy nhiên, việc phân biệt giữa mục đích lợi nhuận và mục đích tiêu dùng gặp nhiều khó khăn, vì cần căn cứ vào lời trình bày của đương sự, hợp đồng và các chứng cứ liên quan Ví dụ, trường hợp ông A vay tiền từ Ngân hàng chính sách xã hội cho hộ gia đình, mục đích vay có thể ảnh hưởng đến loại án được áp dụng.
Trong vụ việc 13 đình nghèo vay tiền để nuôi bò, Tòa án đã đưa ra hai quan điểm khác nhau: một Tòa án xác định đây là tranh chấp dân sự, trong khi một Tòa án khác lại cho rằng đây là tranh chấp kinh doanh thương mại.
Trong chương 1, tôi đã trình bày khái niệm về vụ án kinh doanh thương mại (KDTM), tranh chấp KDTM và hoạt động kiểm sát các vụ án này Tôi cũng phân tích đặc điểm các quy định pháp luật liên quan đến công tác kiểm sát, đồng thời nêu rõ cơ sở lý luận và trách nhiệm pháp lý của hoạt động này Những nội dung trong chương 1 sẽ là nền tảng để phân tích vai trò của kiểm sát trong các vụ án KDTM, cụ thể theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) 2015 và thực trạng công tác kiểm sát giải quyết tranh chấp KDTM tại tỉnh Kon Tum trong chương 2.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
2.2.1 Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện vụ án KDTM
Sau khi nhận văn bản trả lại đơn khởi kiện từ Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ phân công Kiểm sát viên và Kiểm tra viên tiến hành thụ lý, nghiên cứu, lập phiếu kiểm sát và hồ sơ kiểm sát liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện, theo quy định tại Điều 8 Quy chế công tác kiểm sát.
Theo Điều 109 Luật Tố tụng hành chính và Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Tòa án có quyền trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp được quy định bởi luật.
Công tác kiểm sát tại tỉnh Kon Tum cho thấy Viện kiểm sát tỉnh đã phát hiện nhiều vấn đề liên quan đến việc Tòa án lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ của đương sự, dẫn đến việc hướng dẫn bổ sung đơn khởi kiện không hợp lý và ngại thụ lý các quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân Điều này đã gây ra tình trạng trả lại đơn khởi kiện không đúng quy định pháp luật, làm phiền hà và bức xúc cho người dân Trong tố tụng hành chính, việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện do đương sự không có quyền khởi kiện hoặc khởi kiện không đúng đối tượng là phổ biến Tương tự, trong tố tụng dân sự, lý do thường gặp là vụ việc đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực pháp luật hoặc không thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ Do đó, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kon Tum đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm sát quy trình trả lại đơn khởi kiện, mặc dù cũng gặp nhiều khó khăn, như việc Tòa án chỉ gửi thông báo mà không kèm theo bản sao đơn hoặc tài liệu liên quan.
Viện kiểm sát tại một số địa phương đã thực hiện hiệu quả công tác tuyên truyền về quy định pháp luật, dẫn đến việc nhiều đương sự gửi đơn khởi kiện đến Tòa án và đồng thời gửi đơn đến Viện kiểm sát Điều này tạo điều kiện cho Viện kiểm sát thực hiện nhiệm vụ kiểm sát một cách hiệu quả Hơn nữa, khi nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện từ Tòa án, Viện kiểm sát có thêm thông tin để tiến hành kiểm sát và thực hiện quyền kiến nghị của mình.
Khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kontum nhận thông báo từ Tòa án về việc trả lại đơn khởi kiện, Viện kiểm sát sẽ xem xét tính hợp pháp và căn cứ của quyết định này Nếu phát hiện vi phạm, Viện trưởng Viện kiểm sát sẽ kiến nghị Chánh án Tòa án cấp tỉnh xem xét lại quyết định trả lại đơn khởi kiện Trong trường hợp Chánh án Tòa án cấp phúc thẩm vẫn giữ quan điểm trả lại, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp phúc thẩm sẽ tiếp tục kiến nghị lên Chánh án Tòa án cấp trên để được xem xét Quyết định của Chánh án Tòa án cấp trên là quyết định cuối cùng.
110 Luật Tố tụng hành chính)
2.2.2 Kiểm sát việc thụ lý vụ án KDTM
Theo số liệu thống kê công tác giải quyết, xét xử án Kinh Doanh Thương mại ( số liệu được tính từ ngày 01/01/2017 đến ngày 31/10/2017)
Cụ thể : Án Kinh doanh thương mại
Trong năm nay, Toàn án nhân dân hai cấp đã thụ lý 82 vụ án, trong đó có 12 vụ chuyển tiếp từ năm trước, và đã giải quyết thành công 70 vụ, đạt tỷ lệ 85% So với cùng kỳ năm 2016, số vụ thụ lý đã tăng 26 vụ, tương ứng với mức tăng 46%, trong khi số vụ được giải quyết cũng tăng 22 vụ, đạt tỷ lệ tăng 46%.
Trong năm qua, Tòa án nhân dân hai cấp đã thụ lý 78 vụ án theo thủ tục sơ thẩm, trong đó đã giải quyết thành công 68 vụ, đạt tỷ lệ 87% Cụ thể, tòa đã xét xử 18 vụ, hòa giải thành công 41 vụ, và đình chỉ một số vụ án khác.
Thụ lý giải quyết theo thủ tục phúc tẩm: Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý 04 vụ, giải quyết 02 vụ, đạt tỷ lệ 50%
Tòa án nhân nhân hai cấp không bị kháng cáo, kháng nghi Kết quả giải quyết: + Giữu nguyên bản án, quyết định sơ thẩm : 01 vụ
+ Đình chỉ: 01 vụ (do đương sự rút đơn khởi kiện)
Hầu hết các vụ án kinh doanh thương mại đều có hồ sơ và chứng từ rõ ràng, giúp Tòa án nhân dân hai cấp nghiên cứu và áp dụng đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết Điều này đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng Đặc biệt, công tác hòa giải được chú trọng, với 41/82 vụ được hòa giải thành công, chiếm tỷ lệ 50%, giúp cá nhân và tổ chức nhanh chóng tháo gỡ khó khăn và tiếp tục hoạt động sản xuất, kinh doanh.
2.2.3 Kiểm sát các quyết định của Tòa án
Theo Điều 203 BLTTDS 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án KDTM là 02 tháng, có thể gia hạn thêm 01 tháng kể từ ngày thụ lý Sau thời hạn này, TAND tỉnh Kon Tum phải thực hiện một trong các quy định tại khoản 3 Điều 203 BLTTDS 2015 và gửi cho VKSND tỉnh Kon Tum để KSV thực hiện các công việc liên quan.
Khi nhận quyết định công nhận thỏa thuận, tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ, KSV cần ghi vào sổ theo dõi, nghiên cứu và lập văn bản về các quyết định này Nếu phát hiện vi phạm, KSV sẽ yêu cầu TAND tỉnh Kon Tum chuyển hồ sơ để nghiên cứu thêm Đối với các quyết định liên quan đến biện pháp khẩn cấp tạm thời, quyết định trưng cầu giám định và một số quyết định khác, KSV phải nghiên cứu kỹ nội dung và hình thức, đồng thời tập hợp khiếu nại của đương sự (nếu có) để xác định tính hợp pháp và căn cứ của các quyết định, từ đó thực hiện kiến nghị với Tòa án nếu có vi phạm.
Phần lớn các Quyết định tạm đình chỉ vụ án đều được KSV lập phiếu kiểm sát theo đúng quy chế nghiệp vụ và phát hiện vi phạm đúng luật định Tuy nhiên, vẫn còn nhiều KSV được phân công kiểm sát các quy định tạm đình chỉ nhưng nội dung kiểm sát chưa đảm bảo yêu cầu.
Nội dung kiểm sát chưa được ghi chép đầy đủ, thiếu sự phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp áp dụng điểm d và điểm đ khoản 1 Điều 214 BLTTDS 2015 Cụ thể, lý do tạm đình chỉ theo điểm d khoản 1 cũng chưa được làm rõ Hơn nữa, chưa xác định được các trường hợp có thời hạn chờ tối đa 01 tháng kể từ ngày nhận quyết định ủy thác theo Điều 105 và các trường hợp có thời hạn chờ tối đa 15 ngày theo Điều 106 BLTTDS 2015.
Khi nhận được quyết định tạm đình chỉ hoặc tiếp tục giải quyết vụ án từ TAND tỉnh Kon Tum, VKSND tỉnh Kon Tum chưa thực hiện việc đóng dấu công văn để xác nhận ngày gửi theo quy định của pháp luật Điều này ảnh hưởng đến việc xác định thời hạn chuẩn bị xét xử, bắt đầu từ thời điểm nào theo quy định tại khoản 2 Điều 124 và Điều 216 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Khi nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử, Kiểm sát viên (KSV) cần ghi vào sổ theo dõi và nghiên cứu nội dung vụ án Đồng thời, KSV phải đối chiếu với đơn khiếu nại của đương sự liên quan đến việc thu thập chứng cứ của Tòa án (nếu có) Dựa trên đó, KSV sẽ yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ để tiến hành nghiên cứu, lập hồ sơ kiểm sát và tham gia phiên tòa.
2.2.4 Kiểm sát việc chuyển hồ sơ vụ án KDTM của Tòa án
Công tác kiểm sát của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum trong việc chuyển hồ sơ vụ án kinh doanh thương mại của Tòa án Nhân dân tỉnh Kon Tum được thực hiện đúng quy định pháp luật Các bên khởi kiện đã nộp hồ sơ tại Tòa án có thẩm quyền, và sau khi hoàn tất thủ tục thụ lý, Tòa án tỉnh Kon Tum đã tiến hành thu thập chứng cứ và chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm sát để nghiên cứu, đảm bảo đưa ra hướng giải quyết đúng thời hạn và theo quy định pháp luật.
2.2.5 Kiểm sát việc thu thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án KDTM
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, NHỮNG TỒN TẠI TRONG CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
2.2.1: Những kết quả đạt được
Trong 2 năm từ năm 2015 đến năm 2017 VKSND tỉnh kontum đã kiểm sát thụ lý giải quyết 347 vụ án KDTM sơ thẩm và phúc thẩm Kiểm sát 99% các thoogn abos thụ lý vụ án, kiểm sát 183 hồ sơ vụ án KDTM Viện kiểm sát tham gai 128 phiên tòa sơ thẩm, tham gia 100% phiên tòa phúc thẩm nghiên cứu và lập hồ sơ đầy đủ
Trong hai năm qua, Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum đã kháng nghị 4 vụ án kinh doanh thương mại và ban hành 35 bản kiến nghị yêu cầu Tòa án Nhân dân tỉnh Kon Tum khắc phục các vi phạm và thiếu sót trong quá trình áp dụng pháp luật Đồng thời, Viện cũng đã báo cáo và đề nghị Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm đối với 5 vụ án.
VKSND tỉnh Kon Tum đã phát hiện vi phạm của Tòa án nhân dân tỉnh trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại Những kết quả này đạt được nhờ VKSND tỉnh thường xuyên chú trọng vào công tác quản lý và chỉ đạo điều hành hiệu quả.
2.2.2 Những hạn chế tồn tại trong công tác kiểm sát
Mặc dù đã đạt được một số kết quả trong công tác kiểm sát giải quyết án kinh doanh thương mại, nhưng VKSND tỉnh Kon Tum vẫn gặp nhiều hạn chế Những vấn đề tồn tại chủ yếu trong năm vừa qua cần được khắc phục để nâng cao hiệu quả công tác này.
- Khó Khăn trong kiểm sát trả lại đơn khởi kiện: Theo quy định tại khoản 2 Điều
Theo quy định tại Điều 129, khi TAND tỉnh KonTum trả lại đơn khởi kiện và tài liệu kèm theo, Tòa án phải có văn bản nêu rõ lý do và gửi ngay cho VKSND tỉnh KonTum biết Tuy nhiên, quy định này chưa đủ, vì VKSND tỉnh KonTum không nhận được bất kỳ tài liệu nào khác, dẫn đến khó khăn trong công tác kiểm sát Việc chỉ kiểm sát thông báo trả lại đơn khởi kiện khiến VKSND không thể trực tiếp xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, từ đó làm giảm khả năng phát hiện vi phạm và thiếu sót trong quá trình trả lại đơn khởi kiện của TAND tỉnh KonTum.
Ban Pháp chế cơ bản đã thống nhất với những tồn tại và hạn chế được nêu trong Báo cáo số 193/BC-VKS, ngày 28 tháng 5 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng thời, báo cáo cũng nhấn mạnh một số vấn đề cần khắc phục.
Một số đơn vị vẫn chưa thực hiện hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xử lý tin báo, dẫn đến tình trạng một số tin báo quá hạn giải quyết Tỷ lệ giải quyết tin báo tại cơ quan điều tra chỉ đạt 62,5%.
Thực hành công tố và kiểm sát hiện nay còn nhiều hạn chế, gây ra tình trạng tạm đình chỉ điều tra các vụ án trong lĩnh vực này với tỷ lệ cao.
Trong giai đoạn truy tố, việc thực hành quyền công tố và kiểm sát vẫn gặp phải tình trạng trả hồ sơ điều tra bổ sung hoặc cấp phúc thẩm hủy để điều tra, xét xử lại Điều này thường xảy ra do thiếu chứng cứ hoặc phát sinh tình tiết mới.
+ Vẫn còn một số Kiểm sát viên chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong nghiên cứu hồ sơ, kỹ năng tranh tụng còn hạn chế
Lãnh đạo ngành kiểm sát đang tích cực quan tâm đến việc kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự và công tác thi hành án dân sự Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hạn chế, đặc biệt là việc phát hiện và kiến nghị sửa chữa các vi phạm về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án của Tòa án nhân dân và cơ quan Thi hành án dân sự chưa được thực hiện kịp thời.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỈNH KON TUM
Việc đổi mới hoạt động giám sát của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum là cần thiết để nâng cao hiệu quả trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại Cần phát huy vai trò giám sát tại cộng đồng và tăng cường kiểm tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện Kiểm sát đối với các vi phạm của Tòa án.
Để nâng cao chất lượng giải quyết án kinh doanh thương mại tại Tòa án Tỉnh KonTum, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật như Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Bộ Luật Dân sự và Luật Thương mại Cần bãi bỏ, thay thế những văn bản pháp luật chồng chéo, đồng thời điều chỉnh, sửa đổi các quy định còn vướng mắc để đảm bảo tính chính xác và rõ ràng của các bản án, quyết định Viện kiểm sát tỉnh KonTum cũng cần xây dựng một hệ thống hiệu quả để hỗ trợ công tác này.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay, việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và đồng bộ là yêu cầu cấp bách Hệ thống pháp luật đầy đủ, cụ thể và rõ ràng sẽ tạo ra hành lang pháp lý vững chắc, giúp các cơ quan tư pháp áp dụng pháp luật một cách thống nhất và hiệu quả, từ đó giảm thiểu tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện.
Lãnh đạo viện kiểm sát tỉnh Kontum đang tăng cường quản lý và chỉ đạo để nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ và Kiểm sát viên trong thực hiện nhiệm vụ Để đảm bảo hiệu quả trong công tác duyệt án, cán bộ và Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, đối chiếu chứng cứ thu thập với quy định pháp luật, đồng thời ghi rõ nội dung các điều luật liên quan và đề xuất quan điểm rõ ràng trước khi trình lãnh đạo.
Bài viết nghiên cứu và đánh giá thực trạng công tác của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Kon Tum trong lĩnh vực kinh doanh thương mại (KDTM) ở giai đoạn phúc thẩm, phân tích những nguyên nhân dẫn đến hạn chế và vướng mắc trong pháp luật giải quyết tranh chấp KDTM Từ đó, bài viết đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát giải quyết tranh chấp KDTM Mục tiêu là cải thiện công tác kiểm sát các tranh chấp dân sự, đồng thời góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan trong các tranh chấp KDTM tại tỉnh Kon Tum.