Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng trong giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại (KDTM) tại tỉnh Gia Lai nhằm làm rõ vai trò và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) trong giải quyết tranh chấp KDTM Từ đó, bài viết đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của VKS trong quá trình thực hiện hoạt động tranh chấp KDTM, đáp ứng yêu cầu tư pháp hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến hợp đồng và giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Việt Nam Do tính chất rộng lớn của đề tài và việc thực hiện cá nhân, phạm vi nghiên cứu sẽ chủ yếu xoay quanh các quy định về hợp đồng trong kinh doanh thương mại theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Luật thương mại 2005 của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, tập trung vào việc phân tích Hiến pháp qua các lần sửa đổi, cùng với các ngành luật cơ bản như Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và các văn bản liên quan Để đảm bảo tính toàn diện, nghiên cứu yêu cầu xem xét cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, từ đó hình thành bài báo cáo chủ yếu dựa trên các khía cạnh này.
2 phương pháp phân tích, chọn lọc, tổng hợp, hệ thống những số liệu tổng kết có được từ thống kê thực tiễn.
Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo đề tài được chia thành 03 chương:
Chương 1: Cơ sở pháp lý về tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
Chương 2: Thực trạng tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại tại Viện Kiểm sát Tỉnh Gia Lai
Chương 3: Các kiến nghị và đề xuất
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
KHÁI NIỆM KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Theo Điều 3 LTM 2005, hoạt động thương mại được định nghĩa là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư và xúc tiến thương mại Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại giữa các thương nhân được gọi là tranh chấp thương mại, phản ánh những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình thực hiện hoạt động này Trong bối cảnh kinh tế thị trường, tranh chấp thương mại ngày càng đa dạng và phức tạp Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 liệt kê các loại tranh chấp về kinh doanh thương mại, như tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh, tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, và tranh chấp giữa công ty với các thành viên của nó Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự không sử dụng thuật ngữ "tranh chấp thương mại", nhưng thực chất các tranh chấp này vẫn mang tính chất của tranh chấp thương mại theo định nghĩa của luật thương mại năm 2005.
Kinh doanh thương mại được định nghĩa là việc đầu tư tiền bạc, công sức và tài năng của cá nhân hoặc tổ chức vào lĩnh vực mua bán hàng hóa với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận.
Kinh doanh thương mại là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội và phân công lao động, cùng với sự mở rộng trong trao đổi và lưu thông hàng hóa Sự phát triển của phân công lao động dẫn đến chuyên môn hóa trong quá trình trao đổi, giúp hàng hóa được cung cấp đúng nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, chủng loại, tiến độ giao hàng và điều kiện thanh toán.
Kinh doanh thương mại đóng vai trò quan trọng như một cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng Các doanh nghiệp kinh doanh thương mại cung cấp yếu tố đầu vào cho sản xuất, đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra liên tục và hiệu quả Đồng thời, sự hiện diện của các cửa hàng, siêu thị và trung tâm mua sắm giúp mọi tầng lớp dân cư dễ dàng thỏa mãn nhu cầu hàng hóa tiêu dùng.
1 Khái niệm kinh doanh thương mại Đăng trên Tiến sỹ Bùi Ngọc Cường (Năm 2008), Giáo trình Luật thương mại, Nhà xuất bản giáo dục
Hoạt động kinh doanh thương mại cần có hành vi buôn bán, tức là mục đích mua hàng là để bán cho người khác, không phải để tiêu dùng cá nhân Điều này bao gồm việc mua hàng ở thời điểm hiện tại để bán vào thời điểm khác, hoặc mua hàng tại một địa điểm nhưng bán ở địa điểm khác.
Kinh doanh thương mại yêu cầu có vốn và mục tiêu bảo toàn vốn cùng với lợi nhuận sau mỗi chu kỳ kinh doanh Vốn có thể đến từ nhiều nguồn như vốn góp, vốn vay hay vốn huy động Doanh nghiệp kỳ vọng thu về số tiền lớn hơn số vốn đã đầu tư ban đầu, với lợi nhuận là mục tiêu lâu dài Bên cạnh lợi nhuận, các doanh nghiệp còn hướng tới nhiều mục tiêu khác như khách hàng, chất lượng, vị thế và an toàn Tuy nhiên, do hạn chế về nguồn lực, biến động thị trường và cạnh tranh, doanh nghiệp không thể đạt tất cả các mục tiêu cùng một lúc Vì vậy, cần phải lựa chọn và sắp xếp các mục tiêu theo thứ tự ưu tiên, đặt mục tiêu quan trọng nhất và khả thi nhất lên hàng đầu, trong khi những mục tiêu khó thực hiện hơn sẽ được thực hiện sau.
ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Hợp đồng trong kinh doanh và thương mại được thiết lập giữa các thương nhân, bao gồm tổ chức kinh tế hợp pháp và cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh Theo Luật Thương mại, tất cả các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng kinh doanh đều phải có đăng ký kinh doanh Thương nhân có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài, và luật này quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của thương nhân nói chung cũng như thương nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Hợp đồng kinh doanh và thương mại có thể được thiết lập dưới nhiều hình thức như văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể của các bên Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, pháp luật yêu cầu các bên phải lập hợp đồng bằng văn bản, như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hoặc hợp đồng dịch vụ quảng cáo Luật Thương mại cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax và thông điệp dữ liệu.
Nội dung và mục đích của hợp đồng kinh doanh thương mại chủ yếu xoay quanh việc tạo ra lợi nhuận cho các bên tham gia Nếu một bên không có mục tiêu lợi nhuận trong giao dịch với thương nhân, thì hợp đồng có thể không đạt được hiệu quả như mong đợi.
Theo quy định của Luật Thương mại tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hợp đồng sẽ được áp dụng Luật Thương mại khi một bên không có mục đích lợi nhuận lựa chọn áp dụng luật này.
1.2.2 Phân loại hợp đồng kinh doanh thương mại
Hợp đồng trong kinh doanh, thương mại có thể chia thành những nhóm chủ yếu như sau:
Hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm nhiều loại hình khác nhau, như hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu Ngoài ra, còn có hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa, bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn.
Hợp đồng dịch vụ là thỏa thuận cung ứng dịch vụ liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa, bao gồm các hoạt động xúc tiến thương mại, trung gian thương mại và các hoạt động thương mại cụ thể khác Ngoài ra, còn có các hợp đồng cung ứng dịch vụ chuyên ngành như dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, đào tạo và du lịch.
Ba là, các hợp đồng trong hoạt động đầu tư thương mại đặc thù bao gồm hợp đồng giao nhận thầu xây lắp, hợp đồng chuyển nhượng dự án khu đô thị mới, khu nhà ở và dự án hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp.
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
1.3.1 Khái niệm về tranh chấp
Tranh chấp hợp đồng thương mại phát sinh từ những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại Đây là hệ quả tự nhiên của hoạt động kinh doanh.
1.3.2 Hình thức giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
Tranh chấp thương mại có thể giải quyết bằng một trong hai phương thức, phương thức mang tính tài phán hoặc không mang tính tài phán
Tài phán được hiểu là quyền của các cơ quan hành chính và tư pháp quốc gia trong việc giải quyết các vụ việc vi phạm pháp luật theo thẩm quyền của họ Quyền tài phán thường được định nghĩa là quyền xử lý và xét xử các hành vi vi phạm pháp luật.
Hình thức này bao gồm trọng tài và Tòa án, với các quyết định của Tòa án hay trọng tài không chỉ có giá trị ràng buộc mà còn yêu cầu bên thua kiện phải thi hành các quyết định đó.
Khác với hình thức mang tính tài phán, hình thức không mang tính tài phán bao gồm thương lượng và hòa giải, nhấn mạnh sự tự nguyện và tinh thần thiện chí giữa các bên Quyết định trong hòa giải và thương lượng không bắt buộc thi hành, cho phép các bên tự do chấp nhận hoặc từ chối Nếu không đạt được thỏa thuận hay sự nhất trí, các bên có thể lựa chọn phương thức giải quyết mang tính tài phán.
1.3.3 Những yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại
Việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phải hội tụ đủ các yếu tố:
Tranh chấp kinh doanh thương mại chủ yếu liên quan đến những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên trong một mối quan hệ cụ thể.
- Thứ hai, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải phát sinh từ hoạt động thương mại
Mâu thuẫn giữa các thương nhân chủ yếu phát sinh từ những vấn đề không đồng nhất Theo Khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giám sát giải quyết các vụ việc kinh doanh thương mại và lao động được quy định tại Điều 4 và Điều 27 của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 Bên cạnh đó, Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng nêu rõ vị trí và vai trò của Viện kiểm sát trong việc đảm bảo tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự.
Viện kiểm sát có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị và kháng nghị theo quy định của pháp luật Điều này nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự được thực hiện kịp thời và đúng pháp luật.
Viện kiểm sát tham gia các phiên họp sơ thẩm trong các vụ việc dân sự, đặc biệt là những vụ án mà Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc có đối tượng tranh chấp liên quan đến tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở Đặc biệt chú trọng đến các đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, và những người gặp khó khăn trong nhận thức và khả năng làm chủ hành vi, theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này.
- Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
1.3.4 Các phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp kinh doanh thương mại cần được giải quyết một cách thỏa đáng để bảo vệ quyền lợi của các bên và nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, từ đó ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại Hiện nay, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bao gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và tòa án, mỗi phương thức có đặc điểm pháp lý và quy trình khác nhau Các bên có quyền tự do lựa chọn phương thức phù hợp, dựa vào lợi thế mà mỗi phương thức mang lại, cũng như mức độ phù hợp với tính chất tranh chấp và thiện chí của các bên.
Ngành kinh doanh thương mại cần quản lý hiệu quả khâu tồn kho, bao gồm khảo sát mua hàng, nhập kho và quản lý kho Việc đảm bảo hàng hóa luôn sẵn có cho khách hàng là rất quan trọng; nếu tồn kho quá ít, sẽ không đáp ứng kịp thời nhu cầu, trong khi nếu nhập quá nhiều hàng sẽ hạn chế khả năng xoay vòng vốn Quản lý tồn kho tốt giúp cân đối sản phẩm, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Bán hàng là một công việc quan trọng trong ngành kinh doanh thương mại, nơi đào tạo nhiều kỹ năng như quản trị bán hàng và quản trị bán lẻ Các phương pháp bán hàng hiệu quả cũng được chú trọng, đặc biệt khi các đơn vị mở rộng hệ thống trung tâm bán hàng tại nhiều địa điểm Do đó, quản trị chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi bán lẻ trở thành những khối chuyên môn không thể thiếu trong ngành này.
Những người làm kinh doanh thương mại cần có khả năng quản lý lực lượng bán hàng và tổ chức các hoạt động bán lẻ hiệu quả Họ cũng phải hiểu tâm lý và hành vi mua sắm của khách hàng, đồng thời xây dựng hệ thống chuỗi cung ứng hợp lý Ngoài ra, việc nắm bắt các vấn đề liên quan đến môi trường kinh doanh quốc tế và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường là rất quan trọng Từ đó, họ có thể xác định và định vị hoạt động kinh doanh của công ty để thích ứng với môi trường kinh doanh hiện tại.
THỰC TRẠNG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI VIỆN KIỂM SÁT TỈNH GIA LAI
TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG, CHỨC NĂNG, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
Hệ thống Viện Kiểm Sát Nhân Dân gồm có:
- Viện Kiểm Sát Nhân dân tối cao;
- Viện Kiểm Sát Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Viện Kiểm Sát Nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Viện Kiểm Sát Quân sự;
(Điều 7, luật Tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân dân 2014)
Viện Kiểm Sát nhân dân hoạt động theo nguyên tắc thống nhất lãnh đạo
Theo Điều 2 khoản 1 của Luật Tổ chức Viện Kiểm sát 2014 và Điều 107 khoản 1 của Hiến pháp 2014, Viện Kiểm sát Nhân dân có hai chức năng chính là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp Các chức năng này được cụ thể hóa tại Điều 3 và các điều khoản liên quan trong luật.
4 Luật Tổ chức Viện Kiểm Sát Nhân dân 2014
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan như Công an, Tòa án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, và các tổ chức khác để phòng, chống tội phạm hiệu quả Họ đảm bảo xử lý kịp thời và nghiêm minh các loại tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp Bên cạnh đó, Viện cũng thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu về tội phạm và vi phạm pháp luật.
Viện Kiểm sát thực hiện quyền công tố và giám sát trong các lĩnh vực như điều tra, xét xử, thi hành án, giam giữ và cải tạo.
THỰC TRẠNG TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH GIA LAI QUA CÁC GIAI ĐOẠN
2.2.1 Giai đoạn từ khi bộ luật tố tụng dân sự có hiệu lực ngày 01/01/2005 đến trước khi luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 có hiệu lực ngày 01/01/2012
Ngày 15/6/2004, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 đã được Quốc hội Việt Nam khóa XI thông qua, bao gồm 9 phần, 36 chương và 418 điều, cụ thể hóa quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp Chức năng và nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong Bộ luật Tố tụng được khẳng định là nguyên tắc cơ bản, trong đó Viện Kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm đảm bảo giải quyết vụ việc dân sự kịp thời và đúng pháp luật Viện Kiểm sát nhân dân cũng tham gia phiên tòa đối với các vụ án có khiếu nại từ đương sự và các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết.
Viện Kiểm sát không còn tham gia 100% các phiên tòa dân sự như trước đây, mà chỉ tham gia trong những vụ án mà Tòa án thu thập chứng cứ có khiếu nại hoặc các vụ việc có kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án Bộ luật dân sự không quy định Viện Kiểm sát nhân dân có quyền khởi tố vụ án dân sự, hôn nhân, gia đình lao động như Luật Tổ chức Viện Kiểm sát 2002 Viện Kiểm sát không kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án và không tự đi xác minh, thu thập chứng cứ thay cho đương sự, mà có quyền yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng từ các cá nhân, cơ quan, tổ chức Ngoài ra, Viện Kiểm sát không yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và không phản đối biên bản hòa giải thành công của các bên đương sự theo quy định trước đó.
Ngay sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 có hiệu lực, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã triển khai tập huấn cho Kiểm sát viên và Kiểm tra viên về công tác dân sự Nội dung tập huấn tập trung vào những điểm mới về chức năng và nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân theo Bộ luật Tố tụng dân sự Kết quả là công tác kiểm sát xét xử các vụ án kinh doanh thương mại được thực hiện đúng theo pháp luật.
2004 trong thời gian 7 năm (2005 – 2011) như sau:
Biểu đồ 2.1 Số vụ án tranh chấp Hợp đồng kinh doanh thương mại tại Viện kiểm sát tỉnh Gia Lai từ năm 2005 - 2011 2
- Tổng số vụ thụ lý kiểm sát: 43 vụ Trong đó Kinh doanh thương mại sơ thẩm: 17 vụ; kinh doanh thương mại phúc thẩm: 26 vụ
2 Số liệu được lấy từ Phòng thống kê – Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Gia Lai
Tổng số vụ thụ lý kiểm sát Án sơ thẩm
Dựa trên các vi phạm được phát hiện trong quá trình kiểm sát thông báo thụ lý vụ án, bản án và quyết định của Tòa án, Viện Kiểm sát đã yêu cầu Tòa án chuyển 32 hồ sơ để xem xét vi phạm Tỷ lệ kháng nghị được Tòa án chấp nhận hàng năm đạt 90%.
2.2.2 Giai đoạn từ khi luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật tố tụng dân sự
2004 có hiêụ lực thi hành đến trước khi luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực
Vào ngày 29 tháng 3 năm 2011, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 9, đã thông qua Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Luật năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01/01/2012, đã mở rộng quyền tham gia phiên tòa của Viện Kiểm sát nhân dân trong các vụ án dân sự và những vụ án liên quan đến tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở, hoặc có bên đương sự là người chưa thành niên hay người có khuyết tật Viện Kiểm sát có quyền tham gia vào các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm Ngoài ra, Viện Kiểm sát còn có quyền kiểm sát văn bản trả lại đơn khởi kiện và kiến nghị với Chánh án Tòa án về những quyết định này, cũng như kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao xem xét lại các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm Trong các phiên tòa sơ thẩm, Viện Kiểm sát chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi Hội đồng xét xử nghị án.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã mở rộng chức năng và nhiệm vụ theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tố tụng dân sự, đồng thời đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng về cơ sở vật chất và tổ chức cán bộ để thực hiện tốt công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự Theo chỉ thị số 04/VKSTC-VPT1 ngày 17/5/2012, công tác kháng nghị phúc thẩm dân sự được xác định là nhiệm vụ trọng tâm và là công tác mũi nhọn Trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2015, công tác kiểm sát xét xử các vụ án kinh doanh thương mại đã được thực hiện hiệu quả.
Sơ đồ 2.2 Số vụ án tranh chấp Hợp đồng kinh doanh thương mại tại Viện kiểm sát tỉnh Gia Lai từ năm 2012 – 2015 3
- Tổng số vụ thụ lý kiểm sát: 29 vụ Trong đó Kinh doanh thương mại sơ thẩm: 14; kinh doanh thương mại phúc thẩm: 15
Để nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát và kháng nghị, Viện Kiểm sát tỉnh đã phát hành 10 văn bản thông báo nhằm rút kinh nghiệm và hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ.
17 Viện Kiểm Sát cấp huyện tham khảo thực hiện và tổ chức rút kinh nghiệm
2.2.3 Giai đoạn từ khi bộ luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành đến nay
Ngày 24/11/2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật dân sự số 91/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 Bộ luật này là một trong những đạo luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ dân sự và bảo vệ quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự Nó góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hỗ trợ hội nhập quốc tế và ổn định môi trường pháp lý cho phát triển kinh tế - xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành Để đảm bảo quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân và phát huy vai trò của Bộ luật dân sự, Bộ luật 2015 quy định cụ thể về nguyên tắc áp dụng pháp luật dân sự, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế Công tác kiểm sát xét xử các vụ án kinh doanh thương mại từ năm 2016 đến nay đã được thực hiện tốt.
3 Số liệu được lấy từ Phòng thống kê – Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Gia Lai
Tổng số vụ thụ lý kiểm sát Án sơ thẩm
Biểu đồ 2.3 Số vụ án tranh chấp Hợp đồng kinh doanh thương mại tại Viện kiểm sát tỉnh Gia Lai từ năm 2016- nửa năm 2018 4
- Tổng số vụ thụ lý kiểm sát: 48 vụ Trong đó Kinh doanh thương mại sơ thẩm: 26; kinh doanh thương mại phúc thẩm: 22
Biểu đồ trên cho thấy số lượng các vụ án kinh doanh thương mại ba năm gần đây
Từ năm 2016 đến nửa năm 2018, có dấu hiệu tăng trưởng trong các vụ án kinh doanh thương mại so với các năm trước Mặc dù số lượng vụ án tồn đọng không lớn, nhưng giá trị tài sản và số tiền liên quan lại khá cao so với các loại án khác.
Năm 2016 đánh dấu sự khởi đầu của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020, mặc dù có nhiều yếu tố thuận lợi nhưng cũng đối mặt với không ít khó khăn và thách thức Tình hình kinh tế thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, với tốc độ phục hồi chậm và nhiều rủi ro tiềm ẩn Sự cạnh tranh trong kinh doanh và thương mại ngày càng gay gắt dẫn đến sự gia tăng các bản án, quyết định liên quan đến lĩnh vực này Do đó, việc thi hành án kinh doanh, thương mại trở thành thách thức lớn cho các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt trong quá trình thực hiện án gặp nhiều khó khăn và vướng mắc Cần có giải pháp để nâng cao hiệu quả thi hành Những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, và sau khi bản án có hiệu lực, cơ quan thi hành án sẽ tổ chức thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
4 Số liệu được lấy từ Phòng thống kê – Viện kiểm sát nhân dân Tỉnh Gia Lai
Tổng số vụ thụ lý kiểm sát Án sơ thẩm
13 yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 5 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG KINH DOANH THƯƠNG MẠI
Kiểm sát việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại là một trong những chức năng quan trọng của Viện Kiểm sát nhân dân Đây là nhiệm vụ thiết yếu trong việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, đảm bảo tính công bằng và hợp pháp trong các giao dịch thương mại.
Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại là nhiệm vụ quan trọng của Viện Kiểm sát nhân dân, nhằm đảm bảo tính hợp pháp và căn cứ trong các phán quyết của Tòa án Đối tượng của công tác này bao gồm việc tuân thủ pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, và các bên tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án thương mại.
Quá trình kiểm sát xét xử các vụ án kinh doanh thương mại bắt đầu khi Tòa án thông báo thụ lý vụ án và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc có yêu cầu, kiến nghị, đề nghị.
2.3.1 Kiểm tra việc thông báo thụ lý vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại, kiểm sát việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện
Khi nhận thông báo từ Tòa án về việc thụ lý vụ án kinh doanh thương mại hoặc trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên và cán bộ cần ghi vào sổ thụ lý, lập phiếu kiểm sát và kiểm tra nội dung thông báo theo quy định tại Điều 191, Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Nếu phát hiện vi phạm, họ phải tập hợp báo cáo lãnh đạo Viện Kiểm sát để xem xét, kiến nghị và yêu cầu Tòa án thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp Kiểm sát viên phải tham gia phiên tòa xét xử vụ án, Viện trưởng Viện Kiểm sát sẽ phân công Kiểm sát viên tham gia và thông báo cho Tòa án về việc này.
2.3.2 Kiểm sát việc giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục sơ thẩm
Viện Kiểm Sát tham gia các phiên tòa sơ thẩm đối với các vụ án sau:
Trong vụ án kinh doanh thương mại, Tòa án thực hiện việc xác minh và thu thập chứng cứ theo quy định tại Điều 93 và các Điều 97 đến 104 của Bộ luật Tố tụng dân sự Khi giải quyết vụ án, từ giai đoạn thụ lý đến xét xử, nếu phát hiện có vụ án dân sự thuộc các trường hợp nêu trên, Tòa án phải thông báo cho Viện Kiểm sát để Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm.
- Vụ án kinh doanh thương mại có tài sản tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng
5 Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm được đăng tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-phap- luat.aspx?ItemID'1
- Vụ án có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tinh thần, thể chất thuộc một trong các trường hợp sau:
• Người có nhược điểm về tinh thần có giấy rờ, tài liệu được cơ quan ý tế có thẩm quyền các nhận
Người có nhược điểm về thể chất bao gồm các trường hợp như mù hai mắt, câm hoặc điếc, và phải có xác nhận từ cơ quan y tế cấp huyện trở lên.
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án và lập hồ sơ kiểm sát
Khi tiếp nhận hồ sơ vụ án từ Tòa án, cán bộ và Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ trong thời gian quy định theo khoản 2 Điều 220 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Năm 2015, kiểm sát viên tham gia phiên tòa cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ để nắm rõ nội dung vụ án và các quy định pháp luật liên quan.
Lập hồ sơ kiểm sát việc giải quyết các vụ án theo hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một bước quan trọng Cần dự thảo đề cương tham gia hỏi và chuẩn bị ý kiến phát biểu tại phiên tòa Đồng thời, báo cáo lãnh đạo đơn vị và lãnh đạo Viện kiểm sát về kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án và quan điểm giải quyết trước khi tham gia phiên tòa cũng rất cần thiết.
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm giám sát việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án và đảm bảo rằng các bên tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định pháp luật.
Kiểm sát viên có quyền đề nghị hoãn phiên tòa trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 62, khoản 2 Điều 84, và các Điều 227, 229, 230, 231, 241 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Nếu Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị hoãn phiên tòa từ Kiểm sát viên, thì Kiểm sát viên vẫn phải tiếp tục tham gia phiên tòa Sau khi phiên tòa kết thúc, Kiểm sát viên cần báo cáo ngay với lãnh đạo Viện kiểm sát để xem xét và quyết định.
- Tham gia hỏi tại phiên tòa
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên tiến hành hỏi các đương sự, người đại diện và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, cùng những người tham gia tố tụng khác Họ xem xét nguồn gốc, tính có căn cứ và hợp pháp, cũng như tính khách quan của các tài liệu và chứng cứ do các đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hoặc do Tòa án thu thập Kiểm sát viên có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử cho nghe băng, đĩa ghi âm, ghi hình; nhận xét kết quả giám định và đặt câu hỏi về những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết quả giám định so với các tình tiết khác của vụ án dân sự.
Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật từ người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng, Kiểm sát viên cần yêu cầu Hội đồng xét xử can thiệp.
- Phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa
Dựa trên tài liệu và chứng cứ trong hồ sơ vụ án cùng với diễn biến tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã đưa ra ý kiến về việc tuân thủ pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, cũng như việc chấp hành pháp luật của các bên tham gia tố tụng từ khi vụ án được thụ lý.
15 lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án theo quy định tại Điều 262 BLTTDS
2015 và theo Điều 28 của Thông tư liên tịch số 02/2016-TTLT
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
Chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát còn thấp, dẫn đến nhiều kháng nghị không được Tòa án chấp nhận và một số vụ án bị hủy, sửa do thiếu kháng nghị hoặc kiến nghị từ Viện kiểm sát Nhiều văn bản kiến nghị thiếu chiều sâu và sức mạnh, chủ yếu chỉ nêu vi phạm về thời hạn và việc chậm gửi các văn bản tố tụng, làm giảm chất lượng, hiệu lực và hiệu quả công tác Hơn nữa, nhiều vi phạm về nội dung và tố tụng chưa được khắc phục kịp thời và triệt để.
Trong những năm gần đây, các chính sách và văn bản pháp luật liên quan đến kinh doanh thương mại và doanh nghiệp đã trải qua nhiều thay đổi Tuy nhiên, một số văn bản pháp luật vẫn còn mâu thuẫn và chưa nhận được sự hướng dẫn kịp thời từ các cơ quan có thẩm quyền, dẫn đến khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng pháp luật.
Luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định rõ về việc gửi quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp, theo Khoản 1 Điều 203 và Khoản 1 Điều 286 BLTTDS Điều này gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng giám sát thời hạn chuẩn bị xét xử.
Theo Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong hoạt động kinh doanh thương mại thuộc về Tòa án, bao gồm các tranh chấp giữa cá nhân và tổ chức có đăng ký kinh doanh, với mục đích lợi nhuận Ngoài ra, theo Điểm b Điều 2 Nghị quyết 03/2012 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Tòa kinh tế có nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết các tranh chấp và yêu cầu liên quan đến kinh doanh, thương mại theo quy định tại Điều 29.
Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2005 và Điều 31 BLTTDS năm 2015 quy định về các tranh chấp kinh doanh, thương mại liên quan đến các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng vẫn có mục đích lợi nhuận Nghị quyết 03/2012 hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đã mâu thuẫn và trái với quy định tại Điều 29 BLTTDS, mặc dù vẫn được áp dụng trong thực tế Việc xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp là rất quan trọng để xác định thẩm quyền của Tòa án và áp dụng pháp luật nội dung, trong khi xác định sai quan hệ pháp luật dẫn đến việc giải quyết và áp dụng pháp luật không thống nhất và thiếu hiệu quả.
Sự tham gia của Viện kiểm sát trong quá trình giải quyết vụ án kinh doanh thương mại được quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, giữ nguyên tinh thần của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 Viện kiểm sát không trực tiếp tham gia vào hoạt động tư pháp mà tham gia gián tiếp thông qua các quyền hạn được pháp luật cho phép như quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, và quyền kháng nghị Điều này đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, chính xác, công minh và đúng pháp.
22 luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo công lý, công bằng và ổn định xã hội, đồng thời khẳng định pháp chế xã hội chủ nghĩa Sự tham gia của Viện kiểm sát không chỉ giáo dục ý thức pháp luật của người dân mà còn củng cố niềm tin của họ đối với các cơ quan nhà nước Quy định này cũng thể hiện cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo Hiến pháp năm 2013.