Giới thiệu
Bối cảnh và vấn đề nghiên cứu
Kể từ khi Luật ĐTNN được ban hành vào năm 1987, khu vực kinh tế FDI tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp FDI không chỉ tăng cường năng lực sản xuất và đổi mới công nghệ cho nhiều ngành, mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Ngoài ra, FDI còn thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tự cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo ra hiệu ứng tích cực cho nền kinh tế Trong giai đoạn 2005-2009, số lượng dự án đầu tư vào Việt Nam tăng nhanh chóng, với vốn FDI đăng ký đạt mức kỷ lục, trong đó năm 2005, Việt Nam thu hút được 6,8 tỷ USD.
Năm 2006, Việt Nam thu hút 12,5 tỷ USD vốn đăng ký, tăng 83,8% so với năm 2005 Năm 2007, con số này tiếp tục lập kỷ lục mới với 21,3 tỷ USD, tăng 71% so với năm trước Đến năm 2008, vốn đăng ký đạt trên 71,7 tỷ USD, gấp ba lần so với năm 2007 Tuy nhiên, năm 2009, vốn thu hút giảm còn 21,5 tỷ USD do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Với tốc độ tăng nhanh chóng của dòng vốn FDI đổ vào Việt Nam kể từ năm
Từ năm 2005 đến 2009, tỷ lệ đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào GDP Việt Nam tăng từ 16% lên 18,3% Trong giai đoạn này, xuất khẩu của khu vực FDI chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Vốn đăng ký bao gồm cả vốn mới và vốn tăng thêm từ các dự án hiện có, đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế Khu vực FDI đã chứng minh vai trò thiết yếu của mình trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hàng năm.
Các địa phương trên cả nước đang quyết tâm thu hút FDI nhờ vào những ưu điểm và thành tựu nổi bật của khu vực này Ông Nguyễn Hoàng Sơn, Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, cho biết từ năm 2006, tỉnh đã áp dụng chính sách chọn lọc dự án đầu tư, đặc biệt là mời gọi các dự án công nghệ cao Chính sách này đã được nhiều địa phương khác học hỏi, thậm chí có nơi đã “xé rào” để thu hút doanh nghiệp FDI Tuy nhiên, kết quả thu hút FDI giữa các địa phương vẫn có sự chênh lệch rõ rệt; những nơi có cơ sở hạ tầng phát triển và lao động tay nghề cao thường thu hút được nhiều vốn FDI hơn, trong khi các địa phương có cơ sở hạ tầng yếu kém lại gặp khó khăn trong việc thu hút đầu tư.
Bảng 1.1 Thu hút FDI giai đoạn 2005-2009
Tổng số 968 6.834,6 1061 12.511,9 1544 21.347,9 1557 71.725,9 839 21.482,2 Đồng bằng sông Hồng 220 2.452,3 340 3.450,1 492 6.685,7 421 8.051,3 273 1.093,1 Trung du và miền núi phía Bắc
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
Tây Nguyên 11 34,9 14 58,3 15 142,6 21 224,1 10 50,6 Đông Nam Bộ 634 3.722,0 575 6.465,5 790 8.322,5 894 25.296,5 456 13.187,8 Đồng bằng sông Cửu Long 24 148,8 43 351,7 91 1.742,9 83 3.878,3 36 109,3
Nguồn: Cục ĐTNN-Bộ KHĐT
2 Niên giám Thống kê 2008, Tổng cục Thống kê
3 http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Binh-Duong-vuon-len-tu-nhung-khu-cong-nghiep/20104/1357.vnplus
Theo báo cáo của Cục ĐTNN-Bộ KHĐT năm 2009, số lượng dự án FDI vào Việt Nam đã tăng nhanh chóng, với khoảng 10.960 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 177 tỷ USD tính đến ngày 15/12/2009 Đáng chú ý, phần lớn các dự án và nguồn vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm 7 tỉnh thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai.
Trong năm 2009, Bà Rịa-Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, và Long An đã thu hút 47,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước Một số tỉnh như Nam Định, Ninh Bình, Vĩnh Phúc và Bắc Ninh cũng áp dụng cơ chế ưu đãi hấp dẫn, thậm chí "xé rào" để thu hút đầu tư, theo Quyết định số
Theo báo cáo của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/12/2005, kết quả thu hút FDI tại các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chỉ đạt khoảng 18% tổng vốn đăng ký, trong đó Hà Nội chiếm 11% Sự chênh lệch này gợi ra câu hỏi về nguyên nhân khác biệt trong việc thu hút FDI giữa các tỉnh Để tìm hiểu, tác giả đã chọn tỉnh Vĩnh Phúc thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và tỉnh Bình Dương thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút FDI.
Nhiều địa phương đã ban hành chính sách ưu đãi vượt quá thẩm quyền nhằm thu hút FDI, dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh và hiện tượng “xé rào” trong ưu đãi đầu tư Điều này lý giải sự lựa chọn Bình Dương và Vĩnh Phúc làm đối tượng so sánh, trong đó Vĩnh Phúc được liệt kê là địa phương “xé rào” theo quyết định số 1387 ngày 29/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ, trong khi Bình Dương không được đề cập Để cải thiện môi trường đầu tư và thu hút nhiều vốn FDI hơn mà không vi phạm quy định, cần tận dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có.
Bài viết này tập trung vào việc so sánh các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại hai tỉnh Bình Dương và Vĩnh Phúc Tác giả nghiên cứu các chính sách và điều kiện cụ thể của từng địa phương nhằm hiểu rõ hơn về cách thức thu hút vốn FDI Từ những phân tích này, bài viết sẽ đưa ra các khuyến nghị chính sách thiết thực cho cả hai tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư.
1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này so sánh chính sách và môi trường đầu tư, cùng với các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI tại hai tỉnh Bình Dương và Vĩnh Phúc Mục tiêu là xác định yếu tố nào có tác động lớn nhất đến việc thu hút vốn FDI và lý do vì sao hai địa phương này có sự khác biệt trong thu hút đầu tư Đề tài sẽ đánh giá thực trạng thu hút FDI của Việt Nam, đặc biệt là Bình Dương và Vĩnh Phúc, đồng thời phân tích các chính sách và tác động của chúng đối với đầu tư Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra các gợi ý chính sách nhằm hỗ trợ chính quyền địa phương trong việc phát triển kế hoạch thu hút nguồn vốn FDI hiệu quả hơn.
Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại Bình Dương và Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2005-2009, với mục tiêu đánh giá hiệu quả của các chính sách thu hút FDI tại hai tỉnh này Tác giả sẽ làm rõ các vấn đề liên quan đến môi trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, và các chính sách hỗ trợ từ chính quyền địa phương nhằm thu hút nhà đầu tư nước ngoài.
- Cơ sở lý thuyết về FDI;
- Chính sách thu hút FDI;
Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI bao gồm cơ sở hạ tầng mềm như chi phí gia nhập thị trường, tính minh bạch, khả năng tiếp cận thông tin, cùng với hệ thống pháp lý và sự năng động của lãnh đạo tỉnh Ngoài ra, chỉ số PCI và các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng cứng cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.
Đề tài này dựa trên các nghiên cứu trước để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI tại Việt Nam Sử dụng phương pháp so sánh và phân tích định tính, nghiên cứu sẽ đánh giá và so sánh các yếu tố này ở hai tỉnh Bình Dương và Vĩnh Phúc nhằm giải quyết các vấn đề nghiên cứu liên quan đến kết quả thu hút FDI.
Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 5 chương với nội dung chủ yếu sau:
Chương 1 Giới thiệu tính cấp thiết của đề tài, đối tượng, phạm vi, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
Chương 2 Cơ sở lý thuyết về FDI, tác động của FDI, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI và các nghiên cứu trước về thu hút FDI của Việt Nam
Chương 3 Thực trạng FDI của Việt Nam bao gồm cơ sở pháp lý và quá trình phân cấp quản lý hoạt động FDI, chính sách thu hút FDI và kết quả thu hút FDI của Việt Nam
Chương 4 Thu hút FDI tình huống Bình Dương và Vĩnh Phúc: nghiên cứu so sánh chính sách thu hút đầu tư, môi trường đầu tư, các yếu tố ảnh hưởng và kết quả thu hút FDI của Bình Dương và Vĩnh Phúc Chương 5 Kết luận và khuyến nghị chính sách.
Cơ sở lý thuyết về FDI
Một số khái niệm về FDI
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) được định nghĩa là khoản đầu tư có mối quan hệ lâu dài, trong đó một tổ chức từ một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp hoạt động tại một nền kinh tế khác.
Theo các nhà kinh tế quốc tế, FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài) là việc một nhà đầu tư tại một quốc gia mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế ở quốc gia khác Đây là khoản tiền mà nhà đầu tư chi trả để có quyền quyết định và kiểm soát đối với thực thể kinh tế nước ngoài đó.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 định nghĩa FDI là hoạt động mà tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài đầu tư vốn bằng tiền hoặc tài sản được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh Hoạt động này có thể diễn ra thông qua hợp đồng, thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của pháp luật.
FDI, hay Đầu tư trực tiếp nước ngoài, được hiểu là việc nhà đầu tư từ một quốc gia chuyển vốn hoặc tài sản vào một quốc gia khác để sở hữu, quản lý hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế tại đó Mục tiêu chính của FDI là tối đa hóa lợi ích cho nhà đầu tư.
Tác động của FDI
2.2.1 Tác động đố i v ới nước đầu tư
Chuyển giao nguồn lực đầu tư hướng ngoại và tăng thu ngoại tệ từ phần lợi nhuận được chuyển về từ hoạt động đầu tư ở nước ngoài;
Chủ đầu tư có điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới và nâng cao năng lực cạnh tranh;
Tăng cường sức mạnh kinh tế, nâng cao uy tín, mở rộng thị trường tiêu thụ của chủ đầu tư;
Trong dài hạn, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (FDI) sẽ có tác động tích cực đến cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia đầu tư, nhờ vào việc xuất khẩu máy móc, thiết bị, nguyên liệu và vật liệu.
2.2.2 Tác động đố i v ới nướ c nh ận đầu tư
Tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy nhờ vào việc bổ sung nguồn vốn quan trọng cho tổng vốn đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển xã hội.
FDI đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng công nghệ của nước chủ nhà thông qua việc chuyển giao công nghệ từ bên ngoài và phát triển các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng nội địa Đây là một trong những mục tiêu hàng đầu mà các quốc gia mong muốn đạt được từ các nhà đầu tư.
FDI tạo ra hiệu ứng lây lan giúp các công ty địa phương cải thiện năng suất và tận dụng được các cơ hội khi tiếp cận với MNCs
FDI tác động tích cực trong việc phát triển nguồn nhân lực và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động của nước chủ nhà
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy FDI có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh tế của nước nhận đầu tư Tác giả Balasubramanyam, Salisu và Sapsford
Năm 1996, một nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu từ 46 quốc gia đang phát triển để khảo sát ảnh hưởng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế Kết quả cho thấy, FDI thúc đẩy tăng trưởng mạnh hơn ở những quốc gia theo chính sách xuất khẩu hơn là thay thế nhập khẩu, và khi cơ chế ngoại thương hỗ trợ xuất khẩu, FDI có tác động tích cực hơn so với đầu tư trong nước Nghiên cứu này cũng phù hợp với kết quả của Borensztein, de Gregorio và Lee (1998), cho thấy FDI đóng góp nhiều hơn vào tăng trưởng so với đầu tư trong nước Tuy nhiên, FDI chỉ thực sự hiệu quả khi quốc gia nhận đầu tư có nguồn nhân lực đủ mạnh và khả năng hấp thụ tốt.
Nghiên cứu của Laura Alfaro (2003) chỉ ra rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Cụ thể, dòng vốn FDI vào các lĩnh vực khác nhau như sơ cấp, công nghiệp chế biến và dịch vụ sẽ có tác động khác nhau đến sự phát triển kinh tế.
FDI vào khu vực kinh tế sơ cấp như nông, lâm nghiệp, thủy sản và khai khoáng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Ngược lại, FDI vào ngành chế biến lại mang lại tác động tích cực cho sự phát triển kinh tế Tuy nhiên, tác động của FDI vào khu vực dịch vụ vẫn chưa rõ ràng.
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh và cộng sự (2006) cho thấy FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, đặc biệt khi đất nước hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu Vốn con người, được đo bằng trình độ học vấn, đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của FDI FDI không chỉ bổ sung cho vốn trong nước mà còn tạo ra tác động lan tỏa qua việc di chuyển lao động, chuyển giao công nghệ và tăng cường cạnh tranh trong các ngành như chế biến thực phẩm và dệt may Nghiên cứu của Magnus Blomström và Ari Kokko (1997) chỉ ra rằng MNCs có thể thúc đẩy tăng trưởng năng suất và xuất khẩu ở nước chủ nhà, nhưng tác động của FDI khác nhau giữa các ngành và quốc gia, phụ thuộc vào môi trường chính sách Tóm lại, FDI ngày càng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, giúp đa dạng hóa nền kinh tế, cung cấp nguồn vốn dồi dào, nâng cao trình độ công nghệ và kỹ năng lao động, đồng thời tạo việc làm và tăng nguồn thu ngân sách.
Các yếu tố tác động và chính sách thu hút FDI
2.3.1 Các y ế u t ố tác động đế n thu hút FDI
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Nhã (2001) chỉ ra rằng có năm nhân tố chính ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của một quốc gia Những nhân tố này mang tính tổng quát và đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện môi trường đầu tư, từ đó thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Môi trường chính trị, kinh tế và xã hội ổn định là yếu tố then chốt thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) Sự ổn định chính trị đảm bảo cam kết của chính phủ về quyền sở hữu vốn và các chính sách ưu đãi, đồng thời là điều kiện cần thiết để duy trì sự ổn định kinh tế-xã hội, giảm rủi ro cho nhà đầu tư Ngược lại, bất ổn chính trị có thể làm chậm dòng vốn đầu tư, khiến các nhà đầu tư tìm kiếm những nơi an toàn hơn Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, dung lượng và cơ cấu thị trường, cũng như sở thích của người tiêu dùng đều ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.
Chính sách và pháp luật đóng vai trò quan trọng trong quá trình đầu tư, đặc biệt là đối với các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) cần một môi trường pháp lý ổn định Môi trường này bao gồm các quy định về thành lập và hoạt động của ĐTNN, tiêu chuẩn đối xử và cơ chế hoạt động của thị trường có sự tham gia của vốn ĐTNN Một môi trường pháp lý hấp dẫn FDI cần có chính sách linh hoạt, quy định phù hợp và hiệu lực cao trong thực thi Những căn cứ pháp lý này không chỉ bảo vệ quyền lợi của ĐTNN mà còn tạo điều kiện cho họ yên tâm hoạt động lâu dài tại nước chủ nhà.
Các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) rất quan tâm đến định hướng đầu tư của nước chủ nhà, bao gồm các chính sách về tiền tệ, tỷ giá hối đoái, thuế, thương mại, giáo dục và cơ cấu các ngành kinh tế Vì họ thường có chiến lược kinh doanh dài hạn, sự rõ ràng và ổn định trong các chính sách và định hướng đầu tư là yếu tố quan trọng đối với họ.
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng (CSHT) là yếu tố then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế, bao gồm hệ thống giao thông vận tải hiện đại, các cầu, đường, cảng biển, sân bay và kho bãi, đảm bảo kết nối toàn quốc và quốc tế Bên cạnh đó, hệ thống thông tin liên lạc viễn thông với công nghệ hiện đại cần phải được thiết lập để kết nối đồng bộ trong nước và toàn cầu Hệ thống điện nước phải đầy đủ và phân bổ hợp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống, cùng với mạng lưới cung cấp dịch vụ y tế, giáo dục, giải trí, tài chính và thương mại đa dạng và chất lượng cao Tất cả những yếu tố này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn giúp họ tiết kiệm chi phí Chính sách hạ tầng, đất đai và bất động sản có ảnh hưởng lớn đến dòng vốn FDI vào một quốc gia.
Sự phát triển của đội ngũ lao động có trình độ cao và hệ thống doanh nghiệp trong nước là yếu tố then chốt giúp một quốc gia vượt qua hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, thu hút đầu tư nước ngoài Việc thiếu nhân lực kỹ thuật lành nghề và lãnh đạo có trình độ sẽ gây khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư Hệ thống doanh nghiệp phát triển, có khả năng tiếp nhận công nghệ và cạnh tranh bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để thu hút vốn đầu tư hiệu quả Các doanh nghiệp cần hoạt động trong nhiều lĩnh vực, thành thạo nghiệp vụ kinh doanh quốc tế và giữ vững thị phần trong nước, đồng thời tăng cường sức cạnh tranh toàn cầu Mạng lưới doanh nghiệp dịch vụ tài chính-ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện huy động và lưu chuyển vốn, cả trong nước và quốc tế.
Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI phụ thuộc vào bộ máy hành chính hiệu quả, quyết định thành công trong thu hút vốn nước ngoài và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển Bộ máy này cần thống nhất, gọn nhẹ, nhạy bén với chính sách, với thủ tục hành chính và quy định pháp lý đơn giản, công khai và nhất quán Để đạt được điều này, cần có những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật.
Yếu tố vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, bao gồm khoảng cách, địa điểm, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp giảm chi phí vận chuyển, đa dạng hóa các lĩnh vực đầu tư và cung cấp nguồn nguyên liệu phong phú với giá rẻ, đồng thời tạo ra tiềm năng tiêu thụ lớn Những yếu tố này không chỉ giảm giá thành sản phẩm mà còn thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ Ngoài ra, chính sách xúc tiến đầu tư, các biện pháp ưu đãi và cải cách thủ tục hành chính cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước, từ đó cải thiện chất lượng dịch vụ tiện ích xã hội và đảm bảo chất lượng cuộc sống cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Các yếu tố đầu tư này có tính chất toàn cầu, phù hợp với từng quốc gia Do đó, quốc gia nào tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có nhiều ưu đãi sẽ có khả năng thu hút FDI cao hơn.
2.3.2 Chính sách thu hút FDI
Vì những đóng góp quan trọng của FDI đối với tăng trưởng kinh tế, các quốc gia ngày càng chú trọng vào việc xây dựng chính sách thu hút nguồn vốn FDI.
Nghiên cứu của Bernard Hoekman và Kamal Saggi (1998) chỉ ra rằng FDI phụ thuộc vào các chính sách của cả nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư Để tăng cường nguồn vốn FDI, các quốc gia nên áp dụng các chính sách tích cực như miễn giảm thuế và nới lỏng quy định cho khu vực ưu tiên Ngược lại, các biện pháp tiêu cực như đánh thuế hai lần có thể hạn chế FDI Chính sách minh bạch và rõ ràng sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế Do đó, chính quyền cần áp dụng các biện pháp khuyến khích tích cực để thu hút nguồn vốn FDI Hơn nữa, do nguồn lực và yếu tố sản xuất khác nhau giữa các quốc gia, chiến lược thu hút FDI cũng cần phù hợp với từng bối cảnh Cuộc cạnh tranh giữa các quốc gia trong việc thu hút FDI đang diễn ra mạnh mẽ, vì vậy Chính phủ cần đưa ra các chính sách ưu đãi hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư.
Một chính sách FDI minh bạch và rõ ràng sẽ thu hút nhiều công ty đầu tư, tăng cường cạnh tranh giữa các công ty nước ngoài và giữa chúng với doanh nghiệp nội địa Do đó, các quốc gia cần cải thiện chính sách để thu hút nhiều FDI hơn Để xây dựng chính sách hấp dẫn cho nhà đầu tư, chính quyền cần nhận thức rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI, từ đó phát triển kế hoạch và chiến lược hiệu quả.
Các yếu tố tác động và chính sách thu hút FDI ở Việt Nam
2.4.1 Các nghiên c ứu trướ c v ề các y ế u t ố tác động đế n FDI ở Vi ệ t Nam
Trong các hội thảo và trên báo chí, cả lợi ích lẫn thách thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã được thảo luận Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút FDI tại các tỉnh và thành phố ở Việt Nam, tiêu biểu là các công trình nghiên cứu của các nhóm tác giả.
Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hoài (2007) chỉ ra rằng các yếu tố "cơ sở hạ tầng mềm" có ảnh hưởng lớn đến việc thu hút vốn đầu tư địa phương, được kiểm định qua mô hình hồi quy Kết quả cho thấy mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh và thu hút vốn đầu tư, trong đó các yếu tố như chi phí thời gian thực hiện quy định, thiết chế pháp lý, chi phí không chính thức, ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước, tính minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin, cùng với sự năng động của lãnh đạo tỉnh, đóng vai trò quan trọng Các địa phương có lãnh đạo năng động, thiết chế pháp lý đáng tin cậy, thông tin minh bạch và thủ tục hành chính nhanh chóng sẽ thu hút nhiều nguồn vốn FDI hơn.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Vũ Thành Tự Anh và cộng sự (2007) tập trung vào việc xé rào ưu đãi đầu tư tại các tỉnh Việt Nam trong bối cảnh mở rộng phân cấp Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của chính sách ưu đãi đầu tư đến sự phát triển kinh tế địa phương và đưa ra những khuyến nghị nhằm tối ưu hóa việc sử dụng các ưu đãi này.
Nghiên cứu cho thấy rằng cơ sở hạ tầng cứng là cần thiết để thu hút nhà đầu tư, nhưng cơ sở hạ tầng mềm lại quan trọng hơn trong việc chuyển đổi vốn đăng ký thành đầu tư thực tế Đặc biệt, việc “xé rào” của một số tỉnh không chỉ không thu hút được nhiều FDI hơn mà còn gia tăng gánh nặng thâm hụt ngân sách và làm chậm tăng trưởng.
Nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Anh và Nguyễn Thắng (2007) chỉ ra rằng các yếu tố thị trường, bao gồm chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, lao động và cơ sở hạ tầng, có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thu hút FDI tại các tỉnh thành phố ở Việt Nam.
2.4.2 Các y ế u t ố tác động đế n FDI c ủ a Vi ệ t Nam
Việt Nam cần tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút FDI để xây dựng chính sách hiệu quả Là một nước đang phát triển với tình hình chính trị-xã hội ổn định, Việt Nam cần duy trì sự ổn định này và cải thiện môi trường pháp lý, chính sách ưu đãi, cùng với việc phát triển cơ sở hạ tầng hiện đại Những yếu tố này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và thu hút các nhà đầu tư.
Tại cấp địa phương, các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) thường chi tiết và cụ thể hơn Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng những yếu tố này bao gồm nhiều khía cạnh quan trọng, góp phần quyết định khả năng thu hút FDI của từng địa phương.
2.4.2.1 Các yếu tố CSHT mềm
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng mềm đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư tại một địa phương, được nhiều nhà nghiên cứu công nhận Những yếu tố này không chỉ cải thiện môi trường đầu tư mà còn ảnh hưởng tích cực đến quyết định của các nhà đầu tư Cơ sở hạ tầng mềm thể hiện sự chủ động của chính quyền địa phương trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư, đồng thời phản ánh triết lý lãnh đạo của các nhà quản lý trong việc xây dựng chính sách thu hút vốn Tại Việt Nam, các yếu tố này bao gồm các chỉ số thành phần trong chỉ số PCI, góp phần nâng cao sức hấp dẫn của địa phương đối với các nhà đầu tư.
Chi phí gia nhập thị trường thể hiện đánh giá của doanh nghiệp về thời gian chờ đợi để nhận các giấy tờ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như mức độ khó khăn trong việc xin cấp các loại giấy tờ này.
Tiếp cận đất đai và sự ổn định trong việc sử dụng đất là yếu tố quan trọng quyết định khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp Doanh nghiệp cần đảm bảo rằng việc tiếp cận đất đai diễn ra một cách dễ dàng và thuận tiện, đồng thời cần có sự yên tâm về tính ổn định trong việc sử dụng mặt bằng để hoạt động lâu dài.
Tính minh bạch trong doanh nghiệp được đo lường qua khả năng tiếp cận các kế hoạch và văn bản pháp lý cần thiết cho hoạt động Các chính sách và quy định mới cần được tham khảo ý kiến từ doanh nghiệp, đồng thời đánh giá khả năng dự đoán trong việc triển khai kế hoạch Ngoài ra, mức độ tiện dụng của trang web tỉnh đối với doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng.
Chi phí thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước phản ánh thời gian mà doanh nghiệp phải bỏ ra cho các thủ tục hành chính Chi phí không chính thức đo lường các khoản chi phí không chính thức mà doanh nghiệp phải trả và những trở ngại do chúng gây ra, đồng thời cho thấy liệu cán bộ nhà nước có lợi dụng quy định để trục lợi hay không Tính năng động và tiên phong của lãnh đạo tỉnh thể hiện sự sáng tạo trong việc thực thi các chính sách của Trung ương, hỗ trợ doanh nghiệp và áp dụng các chính sách chưa rõ ràng theo hướng có lợi Cuối cùng, ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước cho thấy sự phân biệt trong chính sách và tiếp cận nguồn vốn của chính quyền địa phương.
Chính sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) của tỉnh tập trung vào việc đo lường các dịch vụ như xúc tiến thương mại và hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm đối tác kinh doanh Đồng thời, tỉnh cũng chú trọng phát triển các khu/cụm công nghiệp để thúc đẩy kinh tế địa phương Bên cạnh đó, việc đào tạo lao động được coi là một nỗ lực quan trọng nhằm nâng cao tay nghề cho người lao động, từ đó hỗ trợ doanh nghiệp và giúp người lao động dễ dàng tìm kiếm việc làm.
Thiết chế pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc đo lường lòng tin của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) đối với hệ thống tòa án và tư pháp của tỉnh Sự hiệu quả của các thiết chế này khi giải quyết tranh chấp và khả năng tiếp nhận phản ánh về hành vi nhũng nhiễu của cán bộ công quyền là yếu tố quyết định đến sự tin tưởng của DNTN.
Môi trường đầu tư tại Việt Nam được đánh giá qua chỉ số PCI, do VCCI và VNCI công bố hàng năm Chỉ số này tổng hợp từ 10 chỉ số thành phần, phản ánh khả năng điều hành kinh tế của 64 tỉnh, thành phố và thể hiện nhận định của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Thực trạng FDI ở Việt Nam
Cơ sở pháp lý cho hoạt động FDI ở Việt Nam
Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987 quy định rõ ràng về các hình thức đầu tư, biện pháp bảo đảm đầu tư công bằng và hợp lý, cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam Luật cũng xác định vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài.
Những quy định này được sửa đổi bổ sung vào năm 1990 và 1992 Đến năm
Năm 1996, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Đầu tư nước ngoài mới, được sửa đổi vào năm 2000 với nhiều quy định mới nhằm giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Những sửa đổi này giúp thu hẹp khoảng cách giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đồng thời tạo điều kiện cho quá trình hội nhập và đảm bảo các cam kết quốc tế, làm cho môi trường kinh doanh tại Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn Để cải thiện môi trường đầu tư, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1/7/2006, nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư.
Phân cấp quản lý FDI
Quá trình phân cấp quản lý và phân bổ FDI tại Việt Nam bắt đầu từ khi có Luật ĐTNN, với giai đoạn đầu chỉ có số lượng dự án và vốn đầu tư nước ngoài thấp, do đó Trung ương quản lý toàn bộ Tuy nhiên, sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ, dòng FDI vào Việt Nam gia tăng đáng kể Trước tình hình này, việc phân cấp quản lý FDI đã được đặt ra và dần được mở rộng thông qua các Luật, Nghị định và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Quá trình phân cấp quản lý FDI tại Việt Nam bắt đầu với Quyết định số 386/TTg ngày 7/6/1997, quy định phân cấp cấp Giấy phép Đầu tư (GPĐT) cho 8 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Tiếp theo, Quyết định 41/1998/QĐ-TTg ngày 20/2/1998 tiếp tục phân cấp GPĐT cho UBND của các tỉnh này Đến Quyết định số 233/1998/QĐ-TTg ngày 01/12/1998, Thủ tướng Chính phủ đã mở rộng quyền cấp GPĐT cho tất cả các UBND cấp tỉnh và điều chỉnh GPĐT cho các dự án FDI Các quy định về phân cấp quản lý FDI được quy định tại Điều 55 của Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 và Điều 115 của Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 Theo Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh có quyền quản lý các dự án ĐTNN tại các KCN có giá trị lên đến 10 triệu đô-la, trong khi các tỉnh khác chỉ được phép quản lý các dự án có vốn tối đa 5 triệu đô-la; các KCN và khu chế xuất có thể cấp phép cho các dự án FDI với vốn lên tới 40 triệu đô-la.
Luật đầu tư năm 2005 đã phân cấp mạnh mẽ cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và khu kinh tế trong việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) và quản lý hoạt động đầu tư Điều này giúp giảm bớt số lượng dự án cần trình Thủ tướng Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý thực hiện trách nhiệm quản lý đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, góp phần vào cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Việc mở rộng phân cấp cấp Giấy phép đầu tư (GPĐT) cho UBND cấp tỉnh và Ban quản lý đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong cải cách hành chính, tạo động lực thi đua cho các địa phương Sự phân cấp này không chỉ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tỉnh mà còn góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh trên toàn quốc Đồng thời, việc này cũng giúp các Bộ, ngành quản lý nhà nước tập trung vào việc hoạch định chính sách, dự báo và giám sát hiệu quả hơn.
Mặc dù cơ chế phân cấp trong quản lý đầu tư đã được áp dụng, nhưng năng lực và trách nhiệm tương ứng với quyền hạn tại địa phương vẫn chưa được đảm bảo, dẫn đến nhiều bất cập Bộ KHĐT đang xem xét lại cơ chế này, vì những bất ổn trong cấu trúc đầu tư đã hạn chế thành tựu trong thu hút đầu tư nước ngoài Thêm vào đó, số lượng và quy mô dự án vượt quá khả năng đền bù, giải phóng mặt bằng của địa phương, cùng với việc cấp GCNĐT ồ ạt mà không tính đến khả năng hấp thụ, đã làm giảm hiệu quả triển khai dự án Sự chậm trễ và huỷ bỏ dự án không chỉ làm giảm hiệu quả sử dụng đất và vốn đầu tư mà còn góp phần gây mất cân đối và bất ổn định kinh tế vĩ mô trong trung hạn.
Tình hình thu hút FDI giai đoạn 2005-2009
Theo Cục ĐTNN-Bộ KHĐT, số dự án đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2005-2009 tăng nhanh, từ 968 dự án với 6,8 tỷ USD năm 2005 lên 1.554 dự án với 71,7 tỷ USD năm 2008 Tuy nhiên, năm 2009, do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, số dự án và vốn FDI giảm mạnh, chỉ còn 839 dự án với 21,5 tỷ USD tính đến 15/12/2009 Đặc biệt, vốn thực hiện trong giai đoạn này thấp hơn nhiều so với vốn đăng ký, với năm 2008 ghi nhận tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký thấp nhất, chỉ đạt 11,5 tỷ USD.
Số vốn đầu tư đăng ký
Nguồn: số liệu từ Cục ĐTNN-Bộ KHĐT
Hình 3.1 Số lượng dự án và vốn FDI vào Việt Nam 2005-2009
Giai đoạn 2005-2009, kết quả thu hút FDI đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã liên tục tăng trong những năm qua, góp phần quan trọng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế Mức độ đóng góp của khu vực FDI vào GDP đã tăng từ 16% vào năm 2005 lên 18,3% vào năm 2009, cho thấy vai trò ngày càng lớn của FDI trong nền kinh tế Việt Nam.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước
Khu vực kinh tế Nhà nước
Nguồn: số liệu từ Niên giám Thống kê 2008, Tổng cục Thống kê
Hình 3.2 GDP phân theo khu vực kinh tế 2005-2009
Sự tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực FDI trong giai đoạn 2005-2009 đã đóng góp đáng kể vào việc bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển Vốn FDI thực hiện tăng nhanh, dẫn đến tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội gia tăng rõ rệt Lượng vốn FDI được giải ngân trong giai đoạn này đã tăng nhanh, góp phần nâng cao tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước
Khu vực kinh tế nhà nước
Nguồn: số liệu từ Niên giám Thống kê 2008, Tổng cục Thống kê
Hình 3.3 Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế 2005-2009
Khu vực FDI đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu, góp phần cải thiện cán cân thanh toán Xuất khẩu từ khu vực này luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Khu vực kinh tế có vốn đầ u tư nước ngoài
Khu vực kinh tế trong nước
Nguồn: số liệu từ Niên giám Thống kê 2008, Tổng cục Thống kê
Hình 3.4 XK phân theo khu vực kinh tế 2005-2009
Trong giai đoạn 2005-2009, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng góp đáng kể vào việc tạo ra việc làm cho người lao động, với trung bình khoảng 100.000 việc làm mới mỗi năm, theo báo cáo của Cục ĐTNN - Bộ KHĐT Sự gia tăng việc làm này không chỉ giúp cải thiện đời sống của người dân mà còn góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước.
2008, các DN FDI đã nộp ngân sách nhà nước khoảng 6 tỷ USD (năm 2005 khoảng 1,03 tỷ USD năm 2006 là 1,47 tỷ USD, năm 2007 trên 1,57 tỷ USD và năm 2008 đạt 1,98 tỷ USD)
FDI đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Thời gian qua, hệ thống pháp luật và chính sách đầu tư ngày càng hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư Chính phủ đã triển khai các chính sách điều tiết kinh tế linh hoạt nhằm ứng phó với các thách thức như lạm phát và nhập siêu Các Bộ, ngành và UBND địa phương cũng đã tích cực thu hút và quản lý FDI, đơn giản hóa thủ tục hành chính và hỗ trợ nhanh chóng cho các dự án đã được cấp phép.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI, nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế về chính sách và môi trường đầu tư Quá trình phân cấp quản lý FDI đang tạo ra những vấn đề mới, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường và chính sách đầu tư tại các địa phương Những hạn chế này đang tác động đến khả năng thu hút cũng như hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế.
Hệ thống luật pháp và chính sách về đầu tư, kinh doanh hiện nay còn thiếu sự đồng bộ và nhất quán giữa các quy định pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành Tình trạng này dẫn đến sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng pháp luật giữa các cơ quan, gây khó khăn và chậm trễ trong việc cấp Giấy chứng nhận đầu tư (GCNĐT) cũng như giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai dự án.
Công tác quy hoạch hiện nay gặp nhiều vấn đề, bao gồm quy hoạch lãnh thổ, ngành và lĩnh vực sản phẩm, dẫn đến tình trạng mất cân đối trong phát triển Việc phân cấp triệt để trong cấp phép và quản lý đầu tư cho các địa phương đã khiến nhiều nơi cấp phép tràn lan, chỉ chú trọng đến vốn đầu tư mà bỏ qua các yếu tố quan trọng khác như thị trường, công nghệ-môi trường và tác động xã hội Điều này đã dẫn đến lãng phí tài nguyên và hiệu quả đầu tư thấp, điển hình là các dự án sản xuất thép, sân golf và cảng biển.
Hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) ngoài hàng rào đang gặp nhiều yếu kém, tạo ra tâm lý lo ngại cho các nhà đầu tư Để đảm bảo tiến độ xây dựng dự án, nhà đầu tư thường phải tính toán và điều chỉnh theo tiến độ phát triển của hạ tầng ngoài hàng rào Điều này nhằm tránh tình trạng dự án hoàn thành nhưng không thể đi vào vận hành do CSHT không đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là trong các lĩnh vực cung cấp điện, nước, giao thông và cảng biển, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa.
Tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực đã qua đào tạo, đặc biệt là công nhân kỹ thuật và kỹ sư, đang gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tuyển dụng Để khắc phục vấn đề này, các cấp chính quyền cần nghiên cứu và xem xét nhu cầu ngành nghề của thị trường lao động Việc tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp đáp ứng yêu cầu của nhà tuyển dụng, từ đó nâng cao hiệu quả và năng suất lao động trong các lĩnh vực cần thiết.
Công tác giải phóng mặt bằng tại Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư Mặc dù các địa phương đã chú trọng đến việc lập quy hoạch sử dụng đất, nhưng vẫn còn thiếu tính đồng bộ với quy hoạch ngành, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội và thu hút vốn FDI Việc sử dụng đất nông nghiệp cho các dự án khu công nghiệp, khu đô thị và sân golf đã gây ra nhiều tranh cãi Nhiều địa phương hiện đang gặp khó khăn trong việc bố trí đủ đất cho các dự án lớn như đã cam kết khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
Công tác xúc tiến đầu tư hiện nay đang gặp nhiều bất cập, thiếu tính chuyên nghiệp và hiệu quả Nội dung và hình thức xúc tiến còn nghèo nàn, có sự chồng chéo dẫn đến lãng phí nguồn lực Trình độ cán bộ trong lĩnh vực này còn hạn chế, cùng với việc thiếu cơ sở vật chất và điều kiện hoạt động Hơn nữa, công tác quản lý nhà nước và cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa thực sự hiệu quả, nhiều nội dung vẫn chưa được xác định rõ do thiếu văn bản quy phạm pháp luật cụ thể.