1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát

80 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quản Lý Và Sử Dụng Lâm Sản Phi Gỗ Trên Địa Bàn Xã Môn Sơn Thuộc Vùng Đệm Vườn Quốc Gia Pù Mát
Tác giả Nguyễn Thị Hiếu
Người hướng dẫn ThS. Đậu Khắc Tài
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Quản Lý Tài Nguyên Và Môi Trường
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2015
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 2,94 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (9)
    • 1. Tính cấp thiết của đề tài (9)
    • 2. Mục tiêu nghiên cứu (10)
    • 4. Quản điểm nghiên cứu (11)
    • 5. Phương pháp nghiên cứu (12)
    • 6. Cấu trúc đề tài (14)
  • B. NỘI DUNG (15)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUÂN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (15)
    • 1.1. Cơ sở lý luận (15)
      • 1.1.1. Tổng quan lâm sản phi gỗ (15)
        • 1.1.1.1. Khái quát về lâm sản phi gỗ (15)
      • 1.1.2. Cơ sở lý luận về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ (18)
    • 1.2. Cơ sở thực tiễn (18)
      • 1.2.1. Thực trạng về chính sách quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ tại Việt Nam (18)
        • 1.2.1.1. Chính sách quản lý, bảo tồn lâm sản phi gỗ (18)
        • 1.2.1.2. Chính sách liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ lâm sản phi gỗ (19)
        • 1.2.1.3. Một số văn bản luật liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ lâm sản phi gỗ (20)
      • 1.2.2. Thực trạng về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ ở Việt Nam (20)
      • 1.2.3. Thực trạng về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ của Vườn quốc gia Pù Mát (22)
    • 2.1. Tổng quan khu vực nghiên cứu (23)
      • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên (23)
        • 2.1.1.1. Vị trí địa lý (23)
        • 2.1.1.2. Khí hậu (24)
        • 2.1.1.3. Thủy văn (25)
      • 2.1.2. Các dữ liệu về kinh tế - xã hội của xã Môn Sơn (25)
        • 2.1.2.1. Dân số (25)
        • 2.1.2.2. Giáo dục (27)
        • 2.1.2.3. Cơ sở hạ tầng (28)
        • 2.1.2.4. Nghề nghiệp (29)
        • 2.1.2.5. Nguồn thu nhập và tình trạng nghèo (30)
    • 2.2. Thực trạng lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đêm Vườn quốc gia Pù Mát (30)
      • 2.2.1. Tiềm năng của lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn -Vườn quốc gia Pù Mát (30)
      • 2.2.2 Vai trò của lâm sản Phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn -Vườn quốc gia Pù Mát (32)
        • 2.2.2.1. Giá trị kinh tế (32)
        • 2.2.2.2. Giá trị xã hội (33)
        • 2.2.2.3. Giá trị môi trường (33)
    • 2.3. Thực trạng quản lý sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đêm Vườn quốc gia Pù Mát (35)
      • 2.3.1 Các hoạt động khai thác lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (35)
        • 2.3.1.1. Vấn đề chung trong khai thác và sử dụng lâm sản phi gỗ (35)
        • 2.3.1.2. Mùa thu hái các loại lâm sản phi gỗ (42)
      • 2.3.3. Tình hình quản lý lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (51)
        • 2.3.3.1. Tình hình quản lý lâm sản phi gỗ của cơ quan chức năng trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (51)
    • 2.4. Đánh giá quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (53)
      • 2.4.1. Thuận lợi (53)
      • 2.4.2. Khó khăn (54)
  • CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG LÂM SẢN PHI GỖ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MÔN SƠN THUỘC VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT (55)
    • 3.1. Cơ sở đề xuất các giải pháp quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (55)
    • 3.2. Đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (56)
      • 3.2.1. Giải pháp kỹ thuật (56)
        • 3.2.1.1. Kỹ thuật khai thác (56)
        • 3.2.1.2. Kỹ thuật bảo tồn (59)
        • 3.2.1.3. Kỹ thuật gây trồng lâm sản phi gỗ (59)
      • 3.2.2. Giải pháp về vốn (61)
      • 3.2.3. Giải pháp thị trường (61)
      • 3.2.4. Tuyên truyền và giáo dục người dân (62)
      • 3.2.5. Giải pháp quản lý (63)
    • C. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ (65)
      • 1. Kết luận (65)
      • 2. Kiến Nghị (65)

Nội dung

NỘI DUNG

CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Cơ sở lý luận

1.1.1.Tổng quan lâm sản phi gỗ

1.1.1.1 Khái quát về lâm sản phi gỗ a Khái niệm về lâm sản phi gỗ

Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về lâm sản phi gỗ chưa có một khái niệm chung nhất định

Lâm sản phi gỗ (LSPG) bao gồm tất cả các vật liệu sinh học không phải gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên để phục vụ nhu cầu của con người.

Lâm sản phi gỗ (Non Timber Forest Products - NTFP) theo Wicken G.E (1991) là tất cả các sản phẩm sinh học khai thác từ rừng không phải gỗ, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau của con người Các sản phẩm này bao gồm thực phẩm, dược liệu, gia vị, dầu ăn, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật, và nhiên liệu - chất đốt.

Theo FAO năm 1995, lâm sản phi gỗ (LSPG) bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học ngoại trừ gỗ, cùng với các dịch vụ từ rừng và các hình thức sử dụng đất tương tự Tại hội nghị FAO năm 1999, lâm sản phi gỗ được định nghĩa là các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật không phải gỗ, được khai thác từ rừng, đất có rừng và các cây thân gỗ.

Năm 2000, JennH De Beer đã định nghĩa lâm sản phi gỗ (LSPG) là các nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật không phải gỗ, được khai thác từ rừng để phục vụ nhu cầu con người LSPG bao gồm thực phẩm, thuốc gia vị, tinh dầu, nhựa, mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (cả động vật sống lẫn sản phẩm của chúng), củi và các nguyên liệu thô như tre, nứa, mây, song, gỗ nhỏ và sợi.

CƠ SỞ LÝ LUÂN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Cơ sở lý luận

1.1.1.Tổng quan lâm sản phi gỗ

1.1.1.1 Khái quát về lâm sản phi gỗ a Khái niệm về lâm sản phi gỗ

Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về lâm sản phi gỗ chưa có một khái niệm chung nhất định

Lâm sản phi gỗ (LSPG) bao gồm tất cả các vật liệu sinh học không phải gỗ, được khai thác từ rừng tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con người.

Lâm sản phi gỗ (Non Timber Forest Products - NTFP) được định nghĩa bởi Wicken G.E vào năm 1991 là tất cả các sản phẩm sinh học có thể khai thác từ rừng mà không phải là gỗ, phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau của con người Các sản phẩm này bao gồm thực phẩm, thuốc chữa bệnh, gia vị, dầu ăn, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật và nhiên liệu - chất đốt.

Theo FAO, lâm sản phi gỗ (LSPG) bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh học, ngoại trừ gỗ, cùng với các dịch vụ từ rừng và các hình thức sử dụng đất tương tự Tại hội nghị năm 1999, FAO đã định nghĩa LSPG là các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật, không phải gỗ, được khai thác từ rừng, đất có rừng và các cây thân gỗ.

Năm 2000, JennH De Beer đã định nghĩa lâm sản phi gỗ (LSPG) là những nguyên liệu có nguồn gốc sinh vật, không phải gỗ, được khai thác từ rừng phục vụ cho con người LSPG bao gồm thực phẩm, thuốc gia vị, tinh dầu, nhựa, mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã (cả động vật sống và sản phẩm từ chúng), củi, và các nguyên liệu thô như tre, nứa, mây, song, gỗ nhỏ và sợi.

Năm 2001, Vũ Văn Dũng, Hoàng Hữu Nguyên và Trinh Vỹ đã đề xuất khái niệm về Lâm sản phi gỗ (LSPG) tại Việt Nam, định nghĩa rằng LSPG là các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật từ rừng hoặc đất rừng Các sản phẩm này bao gồm củi, than gỗ và nhiều loại sản phẩm không có nguồn gốc sinh vật khác Cụ thể, LSPG bao gồm các nhóm như tre nứa, song mây, cây thuốc, cây thực phẩm, gia vị, tinh dầu, dầu béo, nhựa, mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh và động vật hoang dã, bao gồm cả động vật sống và sản phẩm từ chúng.

Theo Tiến sĩ Nguyễn Thanh Chiến từ Trung tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản, lâm sản phi gỗ (LSPG) là các vật liệu sinh học không phải gỗ được khai thác từ rừng để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của con người LSPG bao gồm nhiều loại sản phẩm như thực phẩm, dược liệu, tinh dầu, nhựa cây, keo, dán, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dã, chất đốt, các chất liệu thô, song mây, tre nứa và gỗ nhỏ cho sợi.

Có nhiều phương pháp phân nhóm lâm sản phi gỗ (LSPG), trong đó bài viết này tập trung vào phân loại theo công dụng và dạng sống của cây Khung phân loại LSPG được đề xuất bao gồm 6 nhóm chính, dựa trên công dụng và nguồn gốc của các sản phẩm từ lâm sản phi gỗ.

(1) Những sản phẩm có sợi: Tre, song mây, các loại cây thân có sợi và cỏ

Thực phẩm bao gồm các sản phẩm từ thực vật như thân, chồi non, rễ, lá, hoa, quả, hạt, dầu và nấm; bên cạnh đó, còn có các sản phẩm từ động vật như mật ong, thịt thú rừng, tổ yến, trứng chim và các loại côn trùng ăn được.

(3) Cây dược liệu và chất thơm, cây có chất độc

(4) Những sản phẩm chiết xuất như các loại nhựa, cao su, tanin, chất màu, dầu béo và tinh dầu, nhựa và nhựa - dầu…

Động vật và các sản phẩm từ động vật không phải thực phẩm bao gồm nhiều loại như thú rừng, chim, côn trùng sống, da, sừng, ngà và xương, cũng như một số loài như kiến đỏ.

Các sản phẩm như cây cảnh, lá dùng để gói thực phẩm và hàng hóa thuộc nhiều nhóm khác nhau Tuy nhiên, việc phân loại này chỉ mang tính tương đối do công dụng của lâm sản có thể thay đổi theo thời gian và địa điểm, dẫn đến nhiều sản phẩm có thể được xếp vào nhiều nhóm khác nhau.

1.1.1.2 Tầm quan trọng của lâm sản phi gỗ

Tài nguyên LSPG tại Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm hàng ngày cho cộng đồng dân cư gần rừng, góp phần xóa đói giảm nghèo cho các dân tộc thiểu số và vùng nông thôn Được hình thành từ sự đa dạng sinh học của rừng, LSPG không chỉ bảo vệ môi trường mà còn mang lại giá trị kinh tế cao cho người dân sống gần rừng Các sản phẩm LSPG giúp tạo việc làm cho hàng triệu lao động từ miền núi đến đồng bằng, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của làng nghề thủ công mỹ nghệ xuất khẩu, mang lại thu nhập cao hơn so với nông nghiệp và tận dụng thời gian sản xuất linh hoạt.

Cây đặc sản LSPG, được trồng ở một số địa phương, mang lại giá trị cao cho xuất khẩu Sản phẩm như nhựa cánh kiến và mật ong ngày càng được ưa chuộng và có giá trị kinh tế cao.

Vai trò và tiềm năng của LSPG trong phát triển kinh tế xã hội là rất lớn Các sản phẩm LSPG tại nước ta và tỉnh ta vô cùng phong phú và đa dạng, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập và ổn định cuộc sống cho người dân sống gần rừng Điều này không chỉ nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ mà còn đóng góp nhiều mặt hàng xuất khẩu có giá trị cho đất nước.

Để tận dụng tiềm năng của các loài LSPG cho phát triển bền vững, các nhà quản lý và hoạch định chính sách cần xây dựng chiến lược và quy hoạch hợp lý cho từng loài có giá trị kinh tế cao Điều này sẽ góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, đặc biệt ở các xã miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và khu vực sâu, xa Bên cạnh đó, việc này cũng giúp hạn chế tình trạng đốt phá rừng bừa bãi, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái.

1.1.2 Cơ sở lý luận về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ

Quản lý và sử dụng LSPG nhằm đảm bảo khai thác hợp lý, phục vụ cho cuộc sống hiện tại mà không ảnh hưởng đến tương lai Có nhiều hình thức quản lý LSPG khác nhau để đạt được mục tiêu này.

Quản lý do tổ chức kiểm lâm

Quản lý do các cấp từ trung ương; bộ; sở; xã; thôn, bản

Cơ sở thực tiễn

1.2.1 Thực trạng về chính sách quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ tại Việt Nam

Chính sách quản lý bảo tồn lâm sản phi gỗ tại Việt Nam hiện nay được chú trọng đáng kể, với việc xây dựng các chính sách quản lý phù hợp Hệ thống pháp lý và bộ máy quản lý nhà nước đã được kết hợp chặt chẽ với sự tham gia của cộng đồng, nhằm nâng cao hiệu quả trong việc bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên này.

1.2.1.1 Chính sách quản lý, bảo tồn lâm sản phi gỗ

Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình quan trọng nhằm bảo vệ và phát triển rừng, bao gồm chương trình 327 vào năm 1992, dự án phủ xanh đất trống đồi trọc do Ngân hàng Thế giới thực hiện vào năm 1994, việc thành lập hệ thống rừng đặc dụng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn vào năm 1997, cùng với chương trình 5 triệu ha rừng hướng tới việc đóng cửa rừng tự nhiên cũng trong năm 1997.

Vào ngày 30/3/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 32/2006/NĐ-CP, thay thế Nghị định 18/NĐ-CP, nhằm quy định về việc quản lý các loài thực vật và động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nghị định này phân loại các loài thành 2 nhóm và đưa ra các chế độ quản lý cụ thể.

1.2.1.2 Chính sách liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ lâm sản phi gỗ

Quy hoạch vùng nguyên liệu LSPG theo pháp luật hiện hành bao gồm vùng đất và vùng rừng được quy hoạch cho xây dựng rừng sản xuất và rừng phòng hộ Nhà nước khuyến khích khoanh nuôi và tái sinh rừng, đặc biệt là trồng bổ sung cây LSPG trên đất rừng phòng hộ và rừng sản xuất, coi đây là giải pháp quan trọng để phục hồi rừng, bao gồm các loài LSPG Ngoài ra, một số văn bản pháp luật cũng khuyến khích phát triển các loài LSPG để làm nguyên liệu chế biến sản phẩm thủ công mỹ nghệ và các sản phẩm từ mây, tre.

Nhà nước đã giao quyền sử dụng rừng và đất rừng cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân nhằm đảm bảo sử dụng ổn định lâu dài cho mục đích lâm nghiệp Chính sách quy định quyền chuyển đổi, chuyển nhượng sử dụng đất và rừng, cũng như cho thuê đất, thuê rừng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tập trung và tích tụ đất đai, từ đó hình thành các vùng nguyên liệu sản xuất lâm sản.

Chính sách đầu tư trong lĩnh vực trồng rừng nguyên liệu, bao gồm cây LSPG, chế biến lâm sản và sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống như mây, tre, trúc, được hưởng nhiều ưu đãi như miễn giảm tiền sử dụng đất và tiền thuê đất Các dự án liên quan đến trồng rừng nguyên liệu LSPG và chế biến lâm sản có thể vay vốn với lãi suất ưu đãi, trong khi hộ gia đình sản xuất mây tre và hàng thủ công mỹ nghệ cũng có cơ hội vay vốn với lãi suất thương mại.

Các sắc thuế liên quan đến kinh doanh nguyên liệu LSPG bao gồm thuế sử dụng đất 4% trên giá trị sản phẩm khai thác Từ năm 2003 đến 2010, tổ chức và cá nhân đầu tư phát triển nguyên liệu LSPG được miễn hoặc giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp Việc khai thác tre, nứa, vầu, giang, mai, lồ ô từ rừng tự nhiên phải nộp thuế tài nguyên 10%, trong khi thuế đối với mây là 5% Ngoài ra, thuế giá trị gia tăng (VAT) 5% áp dụng cho mây, tre, nứa khai thác từ rừng tự nhiên chưa qua chế biến Gần đây, các văn bản pháp luật đã được ban hành để quy định việc khai thác LSPG trong rừng sản xuất và rừng phòng hộ, cùng với chính sách hưởng lợi và tiêu thụ LSPG.

1.2.1.3 Một số văn bản luật liên quan đến sản xuất, chế biến, kinh doanh và tiêu thụ lâm sản phi gỗ

Quyết định 661/TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ quy định rằng tất cả các sản phẩm khai thác từ rừng trồng, tre, nứa và lâm sản phụ từ rừng tự nhiên đều được phép tự do lưu thông trên thị trường.

- Quyết định 65/TTg ngày 24/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc xuất khẩu sản phẩm gỗ, lâm sản và nhập khẩu nguyên liệu gỗ, lâm sản

Thông tư số 87/2009/TT-BNN&PTNT, ban hành ngày 31 tháng 12 năm 2009, cung cấp hướng dẫn chi tiết về thiết kế khai thác và chọn gỗ rừng tự nhiên Văn bản này được phát triển bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhằm đảm bảo việc khai thác gỗ diễn ra bền vững và hiệu quả, đồng thời bảo vệ tài nguyên rừng Các quy định trong thông tư nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các phương pháp khai thác hợp lý, góp phần vào việc quản lý và bảo tồn rừng tự nhiên.

- Thông tư số 35/2011/TT- BNNPTNT ngày 20 tháng 5 năm 2011 về hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và lâm sản ngoài gỗ

- Thông tư 19/VBHN - BNNPTNT Hướng dẫn thực hiện khai thác, tận thu gỗ và lâm sản phi gỗ ngày 06/05/2014

1.2.2.Thực trạng về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ ở Việt Nam

Lâm sản phi gỗ là nguồn tài nguyên phong phú, bao gồm các sản phẩm có nguồn gốc từ thực vật và động vật, được hình thành từ cả tự nhiên và nuôi trồng Những sản phẩm này không chỉ có giá trị kinh tế cao mà còn mang lại nhiều lợi ích cho đời sống con người Việc phát triển lâm sản phi gỗ không chỉ tăng cường đa dạng sinh học và bảo vệ nguồn gen, mà còn đảm bảo khả năng phòng hộ của rừng và tạo việc làm cho nông dân.

Việt Nam có tiềm năng phát triển lâm sản phi gỗ lớn tại châu Á, với gần 1,6 triệu ha rừng đặc sản và sản lượng hàng năm vượt 40.000 tấn Nước này sở hữu 3.830 loài cây thuốc, 500 loài cây tinh dầu, 620 loài nấm, 820 loài tảo, 186 loài thực vật đặc hữu và 823 loài đặc hữu chỉ có ở Đông Dương Lâm sản phi gỗ của Việt Nam đã được xuất khẩu sang gần 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, với giá trị xuất khẩu giai đoạn 2005-2007 đạt 400 triệu USD.

500 triệu USD, bằng gần 20% tổng giá trị xuất khẩu đồ gỗ

Đến năm 2020, giá trị sản xuất lâm sản phi gỗ của Việt Nam dự kiến đạt 700-800 triệu USD/năm, chiếm 30-40% giá trị xuất khẩu gỗ, với mức tăng trưởng bình quân 10-15% Tuy nhiên, hiện tại, lâm sản phi gỗ chưa được điều tra và xác định rõ ràng, dẫn đến việc thiếu hồ sơ quản lý Các chủ rừng chủ yếu tập trung vào thống kê gỗ, trong khi lâm sản phi gỗ chưa được quan tâm đầy đủ Nhiều xã có rừng chưa thực hiện kiểm kê lâm sản phi gỗ, và việc khai thác còn tự phát, thiếu quy hoạch, dẫn đến lãng phí và hiệu quả kinh tế thấp Hầu hết cơ sở chế biến lâm sản phi gỗ quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém, ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh Mối quan hệ giữa sản xuất lâm sản phi gỗ và bảo tồn đa dạng sinh học vẫn chưa được thể chế hóa.

1.2.3 Thực trạng về quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ của Vườn quốc gia Pù Mát

Vườn Quốc gia Pù Mát có diện tích quản lý lên đến 180.804,4 ha Theo Quyết định số 08/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và rừng sản xuất, Điều 13 quy định rõ về việc quản lý, bảo vệ và phát triển tài nguyên trong khu rừng đặc dụng Cả hai phân khu, bao gồm phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và phân khu phục hồi sinh thái, đều cấm khai thác các tài nguyên sinh vật Điều này có nghĩa là tất cả các loài cây, động vật và sản phẩm từ chúng, kể cả lâm sản phi gỗ, đều không được phép khai thác trong rừng đặc dụng, mà chỉ được phép khai thác trong rừng sản xuất.

Kiểm lâm Pù Mát gặp khó khăn trong việc bảo vệ VQG, khi nhiều người dân địa phương vẫn vào thu hái lâm sản quý Tại các trạm kiểm lâm ở vùng sâu như Khe Bu, Khe Thơi và Khe Khặng, các kiểm lâm viên thường phải bỏ qua việc thu hái nếu không gây ảnh hưởng lớn đến rừng, do thu nhập của họ rất hạn chế.

Ban quản lý VQG đang triển khai chính sách quản lý lâm sản phi gỗ nhằm cải thiện đời sống người dân địa phương bằng cách cho phép họ khai thác lâm sản trong vùng lõi Tuy nhiên, việc hoàn thiện và thực thi chính sách này gặp nhiều khó khăn do mâu thuẫn với quy định của chính phủ và các cơ quan cấp trên, theo nhận định của cán bộ quản lý và khoa học tại VQG.

CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG LÂM SẢN PHI GỖ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MÔN SƠN THUỘC VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT

Tổng quan khu vực nghiên cứu

Xã Môn Sơn nằm về phía Tây Nam của huyện Con Cuông thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát Cách trung tâm Vườn 19,5 km

Môn Sơn là một trong 17 xã vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát nên có nhiều điểm tương đồng về điều kiện tự nhiên so với Vườn

- Tọa độ: từ 18 0 46 ’ đến 19 0 12 ’ độ Vĩ Bắc và từ 104 0 24 ’ đến 104 0 56 ’ kinh độ Đông

+) Phía Tây- Bắc giáp xã Lục Dạ

+) Phía Đông- Bắc giáp xã Cẩm Sơn; xã Tường Sơn (huyện Anh Sơn) +) Phía Đông-Nam giáp xã Phúc Sơn (huyện Anh Sơn)

+) Phía Tây-Nam có đường biên giới chung với nước bạn Lào dài trên 33 km

Xã Môn Sơn có tổng diện tích đất tự nhiên là 40.679,26 ha Trong đó: +) Diện tích đất nông nghiệp: 690,40 ha

+) Diện tích đất rừng: 38.855,07 ha

+) Diện tích đất khác: 1.133,79 ha

Xã Môn Sơn bao gồm 12 thôn bản, trong đó có 10 bản vùng ngoài như Bản Khe Ló, Bản Xiềng, Bản Cằng, Bản Thái Sơn, Bản Cửa Rào, Bản Bắc Sơn, Bản Nam Sơn, Bản Thái Hoà và Bản Yên Ngoài ra, còn có 2 bản vùng đầu nguồn Khe Khặng là Bản Búng và Bản Cò Phạt Tại đây, có 3 dân tộc sinh sống với tổng số dân là 1.795 hộ và 8.253 khẩu.

+) Dân tộc Kinh tổng: 142 hộ (Chiếm 7,90%)

+) Dân tộc Thái, Đan Lai: 1653 hộ (Chiếm 92,10%)[11]

Môn Sơn là một xã nằm trong vùng đệm của Vườn quốc gia Pù Mát, thuộc vành đai khí hậu nhiệt đới Địa hình dãy Trường Sơn ảnh hưởng mạnh đến hoàn lưu khí quyển, tạo ra sự phân hóa khí hậu rõ rệt trong khu vực Dữ liệu quan trắc nhiều năm từ các trạm khí tượng Con Cuông và Tương Dương đã ghi nhận những đặc điểm khí hậu đặc trưng của Môn Sơn.

VQG Pù Mát tọa lạc trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, nơi chịu tác động từ hai loại gió chủ yếu: gió mùa Đông Bắc vào mùa Đông và gió mùa Tây Nam trong mùa Hè.

Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 23 đến 24 độ C, với tổng nhiệt năng đạt khoảng 8.500 đến 8.700 độ C Mùa đông kéo dài từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mang đến giá lạnh và mưa phùn Trong giai đoạn này, nhiệt độ trung bình giảm xuống dưới 20 độ C, với tháng Giêng là tháng có nhiệt độ thấp nhất, dưới 18 độ C.

Mùa hè ở khu vực này kéo dài từ tháng 4 đến tháng 7, với sự ảnh hưởng của gió Tây Nam (gió Lào), tạo ra thời tiết khô nóng Nhiệt độ trung bình mùa hè vượt qua 25°C, cao nhất vào tháng 6 và 7, đạt mức trung bình 29°C Trong tháng 4 và 5, nhiệt độ có thể lên tới 42°C ở Con Cuông và 42,7°C ở Tương Dương, trong khi độ ẩm nhiều ngày xuống dưới 30% Thời điểm này cũng là giai đoạn có nguy cơ cháy rừng cao.

Lượng mưa tại khu vực dao động từ 1.268,3 mm ở Tương Dương đến 1.790 mm ở Anh Sơn, tạo ra sự phân chia rõ rệt về khí hậu với vùng khô ở phía Tây Bắc và vùng mưa nhiều ở phía Nam Mưa chủ yếu tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm tới 90% tổng lượng mưa hàng năm Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, thường có hiện tượng mưa phùn do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc.

+ Độ ẩm không khí bình quân 81 - 86%, mùa mưa ẩm có thể lên 91% nhưng vào mùa hanh khô hoặc ảnh hưởng của gió Lào, độ ẩm có ngày xuống dưới 30%.[9,10,11]

Hình ảnh chụp từ ảnh vệ tinh địa bàn xã Môn Sơn

Tại địa bàn có 2 con suối chảy qua, Khe Khặng bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, Khe Mọi bắt nguồn từ thác Kèm.[11]

2.1.2 Các dữ liệu về kinh tế - xã hội của xã Môn Sơn

2.1.2.1 Dân số a Đặc điểm về dân số và thành phần dân tộc thiểu số

Bảng 2.1: Dân số và thành phần dân tộc

Tên các dân tộc thiểu số

1 Thái Sơn 1.158 7,50 92,50 Thái, Đan lai

4 Làng Cằng 728 4,80 95,20 Thái, Đan Lai

8 Làng Yên 661 1,51 98,49 Thái, Đan lai, Mường

9 Cửa Rào 496 71,60 28,40 Thái, Đan Lai

10 Tân Sơn 728 4,80 95,20 Thái, Đan Lai

12 Cò Phạt 417 0,00 100,00 Thái, Đan Lai

Nguồn : UBND xã Môn Sơn cấp

Bảng 2.2: Những đặc trưng dân số của xã Môn Sơn

Nguồn: UBND xã Môn Sơn 2013 b Mật độ dân số

Xã Môn Sơn có mật độ dân số tương đối thấp, chỉ khoảng 20,18 người/km² Trong đó, bản Thái Sơn có mật độ dân số cao nhất với 47,90 người/km², trong khi bản Cò Phạt và bản Búng có mật độ thấp nhất, với tổng số hộ chỉ khoảng 80.

Trong những năm gần đây, công tác giáo dục đã có những thay đổi tích cực nhờ vào sự hỗ trợ từ các chương trình đầu tư cơ bản như Chương trình 134, 135, cùng với các dự án xây dựng trường học tại huyện và xã, nâng cao cơ sở hạ tầng giáo dục Hầu hết trẻ em ở các bản đều được đến trường, ngoại trừ hai bản Cò Phạt và Búng do điều kiện giao thông khó khăn và đời sống nghèo đói, khiến trẻ chỉ học hết cấp 1 Trong khi đó, nhiều trẻ em ở các bản khác hoàn thành cấp 2, cấp 3 và đậu vào các trường đại học, cao đẳng, với bản Thái Sơn có tỷ lệ học sinh đậu thấp nhất (18 người) Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ em mù chữ vẫn còn cao, chiếm khoảng 10%, điều này đòi hỏi sự quan tâm từ Đảng và Nhà nước.

Bảng 2.3: Cơ sở giáo dục xã Môn Sơn

Bản Búng Tổng số học sinh Em 151 138 170 325 173 110 232 179 225 142 88 96 Mầm non Em 24 26 25 68 23 16 46 33 37 25 30 24 Tiểu học Em 43 41 46 102 62 46 71 55 80 57 58 72 THCS Em 54 39 70 90 51 40 75 74 77 47

2.1.2.3 Cơ sở hạ tầng a Cơ sơ vật chất:

Xã có nhiều cơ sở hạ tầng quan trọng, bao gồm nhà làm việc của Uỷ ban nhân dân xã, trường Trung học cơ sở và trường tiểu học Môn Sơn Đặc biệt, xã được hưởng lợi từ dự án "Hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng (CBRIP)" với 8 nhà cộng đồng, bao gồm nhà văn hóa cộng đồng xã và các nhà văn hóa bản như Cằng, Thái Sơn, Cửa Rào, Bắc Sơn, Nam Sơn, Thái Hoà và nhà học mẫu giáo bản Xiềng Ngoài ra, xã còn có 2 trạm vô tuyến viễn thông của VinaPhone và Viettel, cùng với 1 trạm bưu điện văn hóa xã, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và kết nối cho người dân.

Trung tâm xã có một chợ phục vụ cho việc giao dịch và trao đổi hàng hóa, với khoảng 50 hộ kinh doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như hàng tạp hóa, giải khát, may mặc, lương thực thực phẩm và mộc dân dụng.

Trên địa bàn xã hiện có 04 cơ sở đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ và xây dựng, bao gồm Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, Hợp tác xã dịch vụ điện năng, Hợp tác xã xây dựng Nguyệt Nhàn và Công ty cổ phần Đức Dương.

Xã hiện có hệ thống đường liên thôn và liên xã dài tổng cộng 32,6 km, bao gồm 14,7 km đường liên thôn với 3,5 km đường nhựa, 4 km đường đất cấp phối và 7,2 km đường đất rải cát sỏi Đường nội thôn dài 17,9 km, trong đó có 6,6 km đường bê tông và 11,1 km đường đất rải cát sỏi Bốn đơn vị trong xã đã hoàn thành việc bê tông hóa đường nội thôn, bao gồm Bản Thái Sơn, Bản Cửa Rào, Bản Bắc Sơn và Bản Nam Sơn.

Toàn xã có 13 đập thủy lợi, trong đó có 6 đập kiên cố như Đập Khe Ló con, Đập Phà Lài, Đập Khe Sán, Đập Khe Bòn, Đập Khe Lý và Đập Khe Vôi Ngoài ra, còn có các đập do người dân tự đắp thủ công.

Khe Ló lớn, đập Khe Hỉa, đập Khe Xảo, đập Khe Quyên, đập Khe Tá, đập

Khe Chố, đập Khe Thùng có tổng chiều dài các tuyến mương nội đồng trên 17 km, trong đó 7 km đã được bê tông hoá Hệ thống điện bao gồm đường tải điện 35 Kv dài hơn 9 km và đường hạ thế dài trên 35 km Toàn xã có 08 trạm hạ thế, bao gồm các trạm: làng Xiềng, Thái Sơn, Cửa Rào, Bắc Sơn, Nam Sơn, Thái Hoà, Làng Yên, với tổng công suất 960 Kw Ngoài ra, xã còn có 10 bản vùng ngoài và 7 trường học.

10 cơ quan đơn vị sử dụng điện thắp sáng.[11]

Xã Môn Sơn chủ yếu phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản Trong nông nghiệp, cây trồng chính gồm lúa, ngô, sắn, đậu và lạc, nhưng năng suất thấp do diện tích đất hạn chế và kỹ thuật thâm canh kém, với năng suất lúa chỉ đạt từ 2 đến 6 tạ/1 sào Chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, lợn, gà và vịt, nhưng thường nhỏ lẻ và không mang lại thu nhập đáng kể cho gia đình Sản xuất lâm nghiệp chưa phát triển, mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ, người dân vẫn chưa tích cực trồng rừng Các sản phẩm từ rừng chủ yếu phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày Bên cạnh nông-lâm nghiệp, một số hộ gia đình ở bản Thái Sơn đã thành công trong nuôi ếch, thu nhập từ 1-2 triệu đồng mỗi tháng Ngoài ra, nhiều người còn làm các công việc phụ như làm thuê với thu nhập từ 20.000 đến 100.000 đồng/ngày Ngành công nghiệp tại xã chưa phát triển, chỉ có một số cơ sở sản xuất nhỏ và thủ công, cùng với bốn hợp tác xã dịch vụ và xây dựng hoạt động trong khu vực.

2.1.2.5 Nguồn thu nhập và tình trạng nghèo

Thực trạng lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đêm Vườn quốc gia Pù Mát

2.2.1 Tiềm năng của lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn -Vườn quốc gia Pù Mát

Môn Sơn, một xã nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới, sở hữu hệ tài nguyên rừng phong phú và đa dạng Nghiên cứu về thực vật tại VQG Pù Mát cho thấy nhiều loài cây cho sản phẩm ngoài gỗ được người dân sử dụng trong gia đình và làm hàng hóa Đặc biệt, trong số các loài khai thác, có nhiều loài quý hiếm thuộc 3 ngành (Thông, Dương xỉ, Mộc lan) được ghi trong sách đỏ Việt Nam, trong đó có 145 loài rất phổ biến ở các vùng rừng núi Tây Nam.

Tại Nghệ An, 17% số loài lâm sản ngoài gỗ (LSPG) ở xã đã tham gia vào thị trường hàng hóa, với 24 trong tổng số 145 loài Tuy nhiên, nguồn thu chính của người dân địa phương vẫn chủ yếu đến từ các sản phẩm như nứa, mét, mây và một số loại cây thuốc, bao gồm hoàng đằng, bách bộ, hà thủ ô, lá khôi và vỏ mai.

Tại vùng nghiên cứu, 30% - 50% thuốc chữa bệnh được chiết xuất từ các loài cây LSPG, trong khi 50% - 70% ca bệnh được điều trị bằng thuốc nam Người dân địa phương đánh giá 21 loài cây là quan trọng và thường xuyên sử dụng, trong đó có 9 loài có giá trị thương mại cao như thạch xương bồ, riềng rừng, hoàng chi, và bách bộ Một số loài như riềng gió, thạch xương bồ, hoàng chi và riềng rừng có thể được trồng tại địa phương Các loài cây thuốc chủ yếu thuộc nhóm cây thảo, cây bụi và dây leo, phát triển dưới tán rừng hoặc bìa rừng, điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc tái sinh và phục hồi rừng Do đó, việc bảo tồn các loài cây thuốc này cần ưu tiên bảo vệ hệ sinh thái rừng và các quần xã cây bụi, dây leo.

Một số loài thực vật có giá trị sinh thái (LSPG) đóng góp đáng kể vào bữa ăn hàng ngày của đồng bào dân tộc ở vùng nghiên cứu Mặc dù hầu hết các thực phẩm này không có giá trị thương mại, chúng thường xuyên được thu hái và cung cấp rau xanh, gia vị cho các bữa ăn Theo thống kê, có khoảng 25 loài được sử dụng làm rau, gia vị hoặc củ, quả, trong đó một số loài như trám, dẻ Bắc Giang, dẻ gai ấn, măng luồng và măng đắng thường xuyên được khai thác và tiêu thụ.

Vùng nghiên cứu phát hiện nhiều loài cây có khả năng sản xuất tinh dầu, tạo ra nguồn tài nguyên LSPG quý giá nhưng vẫn chưa được khai thác Một số loài như tinh dầu Vông vang, hương lâu, bạc hà, và ba chạc đã được thị trường trong nước và quốc tế công nhận giá trị cao Hương lâu và bạc hà dễ trồng, thích hợp cho các hộ gia đình, trong khi vông vang và ba chạc là cây mọc tự nhiên, ưa sáng và có khả năng tái sinh mạnh mẽ.

Nhiều loài thực vật được xác định có khả năng cung cấp chất nhuộm, trong đó củ nâu, chàm nhuộm và chàm bụi là những loại phổ biến trong ngành dệt Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này vẫn chưa được khai thác hiệu quả do nghề dệt chưa phát triển mạnh mẽ Các loài LSPG thường dễ dàng tìm thấy tại các khu rừng thứ sinh gần các bản làng.

Nhiều loài cây trong vùng nghiên cứu có khả năng sản sinh tanin, nhựa và dầu béo, nhưng hầu hết vẫn chỉ là tài nguyên tiềm năng chưa được khai thác Hiện tại, cây trẩu (Vernicia montana) là loài duy nhất đã được trồng để thu hoạch dầu, với hạt trẩu chứa tới 35% dầu, có thể được chế biến thành dầu ăn.

Nhiều loài lâm sản ngoài gỗ (LSPG) như tre, nứa, mét, mây và giang đóng góp quan trọng vào vật liệu xây dựng nhà cửa, mang lại giá trị thiết thực cho đời sống hàng ngày của người dân Trong số đó, nứa và mét không chỉ có giá trị sử dụng mà còn tạo ra nguồn thu nhập ổn định cho các hộ dân trong khu vực nghiên cứu Tuy nhiên, việc khai thác quá mức đã khiến nguồn tài nguyên song mây cạn kiệt và chưa kịp tái sinh, ảnh hưởng đến khả năng sinh kế của người dân.

2.2.2 Vai trò của lâm sản Phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn -Vườn quốc gia Pù Mát

Nghiên cứu về khai thác và quản lý tài nguyên động thực vật tại xã Môn Sơn cho thấy hầu hết các hộ dân đều tham gia vào việc khai thác và sử dụng lâm sản phụ gia.

Theo kết quả phỏng vấn 70 hộ gia đình trong xã, LSPG đóng góp khoảng 20-40% thu nhập hàng năm của các hộ trong khu vực nghiên cứu Đối với các hộ nghèo, tỷ lệ này cao hơn, chiếm 40-60% thu nhập, đặc biệt trong những năm hạn hán, khi họ hoàn toàn phụ thuộc vào LSPG Trong khi đó, nhóm hộ trung bình chỉ nhận được 15-35% từ LSPG, không có sự chênh lệch đáng kể giữa các năm bình thường và năm hạn hán, nhờ vào việc họ biết kết hợp với các hoạt động khác như chăn nuôi và buôn bán nhỏ để tăng thu nhập Điều này không chỉ giúp ổn định kinh tế gia đình mà còn giảm áp lực và thúc đẩy sự phát triển bền vững cho LSPG và hệ sinh thái.

Lâm sản phi gỗ cung cấp cho người dân nguồn thu nhập ổn định, yêu cầu ít hoặc không cần đầu tư, tạo cơ hội cho các vùng miền núi và kinh tế khó khăn phát triển Đây là một hình thức kinh tế hiệu quả, giúp người dân địa phương "lấy ngắn nuôi dài" khi đầu tư vào trồng rừng hoặc cây lâu năm.

LSPG đóng vai trò quan trọng trong các chương trình bảo tồn, cung cấp nguồn thu nhập chính cho người dân địa phương, giúp họ duy trì cuộc sống và giảm nghèo Nó đáp ứng những nhu cầu thiết yếu như lương thực, dược liệu và nguyên liệu cho phát triển Hơn nữa, LSPG góp phần hạn chế việc khai thác rừng bừa bãi Trước đây, khi áp lực lên nguồn tài nguyên rừng chưa lớn, LSPG đã gắn bó mật thiết với người dân bản địa, đặc biệt là những người nghèo, trở thành nguồn thu ổn định cho họ.

Rừng, đặc biệt là rừng nhiệt đới, đóng vai trò quan trọng trong an ninh môi trường và đời sống con người trên toàn cầu Chúng giúp điều hòa khí hậu, giảm thiểu thiên tai và bảo vệ đất cũng như nguồn nước.

LSPG và gỗ đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái rừng, nơi chứa đựng sự đa dạng sinh học và nguồn tài nguyên di truyền Các loài cây gỗ lớn tự nhiên khi trưởng thành tạo nên tầng tán và tầng vượt tán, quyết định tính chất và vai trò phòng hộ của rừng Chu kỳ sống của chúng kéo dài hàng trăm năm, và việc khai thác kiệt tầng cây này sẽ dẫn đến sự phá hủy hệ sinh thái, khiến rừng mất nhiều thời gian để phục hồi, nhưng chắc chắn sẽ không trở lại như ban đầu.

Đa phần các loài cho LSPG phân bố chủ yếu ở tầng dưới của cây gỗ, nơi mà tác động của con người ít ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ sinh thái rừng nhiệt đới Các sinh vật trong nhóm này có chu kỳ sống ngắn, cho phép chúng nhanh chóng tái sinh và phục hồi mật độ quần thể sau khi bị khai thác hợp lý Tuy nhiên, việc khai thác sản phẩm gỗ thường dẫn đến sự phá hủy LSPG nghiêm trọng.

Thực trạng quản lý sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đêm Vườn quốc gia Pù Mát

2.3.1 Các hoạt động khai thác lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát

2.3.1.1 Vấn đề chung trong khai thác và sử dụng lâm sản phi gỗ

Theo nghiên cứu, LSPG đóng vai trò quan trọng tại xã Môn Sơn, nơi mà nguồn tài nguyên này rất đa dạng và đang được khai thác sử dụng với quy mô lớn.

Bảng 2.8 đánh giá tầm quan trọng của các loại LSPG đã trở thành hàng hóa đối với người dân địa phương tại các điểm nghiên cứu thuộc xã Môn Sơn, sử dụng thang điểm 5.

Bảng được thiết lập dựa trên phương pháp cho điểm trong số, sử dụng các công thức để tính toán các thành phần và tiêu chí tổng hợp thông qua phép cộng tuyến tính Nghiên cứu này sẽ áp dụng các phương pháp tính trọng số để thực hiện các phép tính cần thiết.

Thang điểm từ 1 đến 5: 1 – rất thấp; 2 – thấp

3 – trung bình; 4- tốt 5 – rất tốt

Bảng 2.4: Đánh giá các loài LSPG là sản phẩm hàng hoá trên địa bàn

TT Tên gọi Giá trị kinh tế

Nguồn: Hoàng Văn Sơn và điều tra phỏng vấn

Sản phẩm LSPG rất đa dạng, nhưng nguồn thu chủ yếu đến từ một số loại như nứa và mét, với 100% hộ khai thác vừa sử dụng vừa bán Ngoài ra, mây và một số cây thuốc như hoàng đằng, bách bộ, hà thủ ô, sa nhân, dây nhớt, quả trám, quả sú cũng được khai thác theo đơn đặt hàng của tư thương Trong mỗi đợt thu mua, hoàng đằng có thể được khai thác hàng tấn/bản, tuy nhiên, theo ý kiến người dân địa phương, việc khai thác này có thể dẫn đến cạn kiệt chỉ sau 2 năm và cần hàng chục năm để phục hồi.

Theo đánh giá, có hai loại LSPG mang lại giá trị kinh tế cao và dễ dàng thâm nhập thị trường tiêu thụ, đó là cây Mét (trồng ở vườn đồi) và cây Mây tắt (khoanh nuôi), đạt từ 13-15 điểm Tiếp theo là cây trầm hương, hoàng đằng, hương bài và lá khôi, với điểm số 12 Các loại cây khác được đánh giá thấp hơn.

Theo đánh giá của người dân địa phương, nhiều loài cây như mét, lá dong, riềng, gừng, rễ hương, hà thủ ô, cam thảo, sa nhân, nứa, đót, cọ có tiềm năng phát triển tốt tại khu vực này Những loài cây này không chỉ phù hợp với điều kiện địa chất, địa hình và khí hậu địa phương mà còn mang lại giá trị kinh tế cao nếu tìm được thị trường ổn định Trong số đó, cây mét thường được trồng ở vườn đồi, trong khi mây tắt, nứa, lá dong, hoàng đằng, trầm hương, hương bài và lá khôi có khả năng tự phát triển trong các khu rừng khoanh nuôi, tái sinh hoặc vườn đồi, vườn rừng.

Trước đây, việc khai thác lâm sản phi gỗ (LSPG) chủ yếu phục vụ nhu cầu gia đình như xây dựng, nấu ăn và làm thuốc Tuy nhiên, trong những năm gần đây, sự thương mại hóa LSPG đã khiến nhiều sản phẩm này trở thành hàng hóa được mua bán tại các bản, làng, huyện, thị trấn, từ đó kích thích người dân khai thác tích cực hơn Mặc dù vậy, tài nguyên rừng vẫn được coi là "tài nguyên chung" và thiếu chính sách quản lý bền vững, dẫn đến tình trạng cạn kiệt nhiều loại LSPG quý giá như song, mây, và trầm hương Hệ quả là thu nhập và đời sống của người dân địa phương bị ảnh hưởng nghiêm trọng, với sự giảm sút cả về số lượng và trữ lượng LSPG, khiến họ lo lắng về tương lai và khả năng kiếm sống khi tài nguyên cạn kiệt.

Củi, một nguồn tài nguyên phi gỗ quan trọng, đã gắn bó với đời sống của người dân vùng đệm từ lâu nhưng chưa được đánh giá đúng mức Trong các cuộc phỏng vấn, hầu hết mọi người không biết chính xác gia đình họ sử dụng bao nhiêu củi mỗi năm hay mỗi tháng Nhiều người chỉ cười và cho biết rằng họ lấy củi từ rừng mà không tính toán số lượng, trong khi một số khác ước lượng rằng một đống củi dưới sàn có thể sử dụng trong 4 ngày, và vào mùa đông thì gấp đôi.

So với miền xuôi, người dân vùng miền núi không phải chi tiền cho chất đốt, mà họ tận dụng củi từ rừng, đây là một quyền lợi quan trọng Tất cả các hộ dân trong nghiên cứu đều sử dụng củi tự khai thác từ rừng đã được giao khoán Nhiều hộ còn xin khai thác từ rừng chung của bản Trước đây, việc khai thác củi diễn ra tràn lan, không có kiểm soát, dẫn đến việc hạ cây không phân biệt Hiện nay, tình trạng khai thác củi để bán đã giảm, mặc dù vẫn còn một số người chuyên khai thác củi từ đá mang ra chợ, nhưng số lượng rất ít.

Củi không phải là nguồn tài nguyên có hạn, vì vậy người dân vẫn có thể sử dụng mà không cần tiết kiệm Tuy nhiên, việc khai thác rau, măng, củ, quả và thức ăn gia súc cũng là những lựa chọn quan trọng để đảm bảo nguồn thực phẩm và chất đốt bền vững.

Người dân tộc thiểu số từ xưa sống du canh, du cư, phụ thuộc vào rừng và đất rừng để tìm thực phẩm, không nghĩ đến việc trồng rau Họ thường hái rau, đào củ, và săn bắn để chống đói Tuy nhiên, nhờ nỗ lực của các dự án và tổ chức, nhiều gia đình đã bắt đầu trồng rau tại vườn để cải thiện bữa ăn Dù vậy, vẫn còn nhiều hộ vẫn quen vào rừng lấy rau để tránh công sức trồng trọt, đặc biệt là phụ nữ các dân tộc như Thái, Đan Lai, họ thường mang theo "bế" nhỏ để tiện hái măng, rau, nấm và củ khi thấy.

Theo đánh giá của người dân địa phương, nứa và mét là hai loại LSPG mang lại thu nhập cao nhất từ trước tới nay Nứa được sử dụng phổ biến trong xây dựng như làm sàn nhà, hàng rào, và các dụng cụ gia dụng, đồng thời cũng được bán cho các bè chở về xuôi Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nứa trở thành mặt hàng đắt khách do nhu cầu tăng cao, nhưng việc khai thác ồ ạt đã làm nguồn tài nguyên này thu hẹp Nhiều người dân địa phương lo ngại rằng "sang năm chúng tôi sẽ không còn măng nứa để lấy nữa." Rõ ràng, trữ lượng nứa đã giảm nhiều so với trước đây do cách khai thác không hợp lý Hiện tại, để có được khối lượng nứa lớn, người dân phải khai thác xa, tốn công sức, trong khi giá nứa lại thấp và không ổn định, khiến ít hộ dân muốn tiếp tục khai thác.

Trong vùng nghiên cứu, có hai loại song chính là song cát và song bột Việc khai thác song đã diễn ra mạnh mẽ từ đầu thập kỷ trước, như anh Truyền ở làng Cằng chia sẻ: "trước đây, chúng tôi làm thuê cho dân ngoài Bắc, khai thác những sợi song dài hàng trăm mét, to bằng cổ tay, nhưng giờ thì không còn nữa." Đến năm 2013 và 2014, người dân vẫn thu hái được mây, chủ yếu là mây tắt, nhưng sau mỗi đợt thu hái, nguồn tài nguyên này nhanh chóng cạn kiệt, kể cả những đoạn ngắn Hiện tại, một số địa phương đã thấy tái sinh những đoạn mây ngắn, nhưng số lượng rất ít do một phần bị hái làm rau ăn.

Lá cọ trước đây được người dân địa phương khai thác từ rừng tự nhiên để lợp nhà và làm chuồng, bếp Tuy nhiên, với nhận thức về vai trò của lá cọ, nhiều nơi đã thuần hoá và trồng chúng trong vườn nhà, nhưng do diện tích hạn chế, mỗi hộ chỉ trồng từ 3 đến 7 gốc Khi cần, họ huy động lá cọ từ tất cả các nhà trong bản và các bản lân cận, tạo nên một hình thức hợp tác gọi là "chơi Hội lá cọ" Đây là cách khai thác và sử dụng tài nguyên hiệu quả, thể hiện sự đoàn kết và kế hoạch trong việc quản lý tài nguyên của cộng đồng.

Theo thống kê, 90,35% LSPG thực vật trên địa bàn là cây thuốc Trước năm 1998, chỉ có các thầy thuốc Nam với kiến thức gia truyền mới thu hái cây thuốc trong rừng và trồng tại nhà Tuy nhiên, từ năm 2001 đến nay, nhu cầu sản xuất và tiêu thụ thuốc tăng cao đã dẫn đến việc buôn bán nguyên liệu thuốc qua biên giới Các con buôn từ Hà Nội, Thanh Hóa, Nam Hà đã tìm đến các vùng miền núi để đặt hàng, bắt đầu với các loại như sa nhân, thiên niên kiện, thạch xương bồ, và sau đó mở rộng sang nhiều loại khác như tuyết nhung, hoàng đằng, bách bộ, quả bo bo, củ ba mươi, lá chè cỏ.

Đánh giá quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát

(1) Rừng tự nhiên địa bàn rất phong phú và đa dạng về loài LSPG

Hoạt động thu hái LSPG là một truyền thống lâu đời của các cộng đồng địa phương, nơi có nhiều kinh nghiệm phong phú Hiện nay, thành phần kinh tế tư nhân trong lĩnh vực chế biến LSPG đang phát triển mạnh mẽ.

(3) Môn Sơn đã có thị trường truyền thống về sản phẩm LSPG

Xu hướng hội nhập quốc tế gia tăng và chính sách mở cửa đã tạo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài, góp phần vào việc gây trồng, tái tạo và chế biến lâm sản ngoài gỗ (LSPG) Điều này giúp mở rộng vùng nguyên liệu và hiện đại hóa các cơ sở chế biến LSPG, từ đó tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao.

(5) Hệ thống chính sách, thể chế đang được hoàn thiện, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho việc bảo tồn và phát triển rừng, trong đó có LSPG.[8]

(1) Thiếu thông tin về LSPG

Chưa có thông tin đầy đủ về nguồn tài nguyên LSPG tại từng thôn, bản, bao gồm thành phần, chủng loại, phân bố, trữ lượng, tình trạng suy thoái, điều kiện sinh thái, khả năng tái sinh và phục hồi.

- Thiếu thông tin về giá trị kinh tế và giá trị sử dụng về LSPG

- Thiếu thông tin kỹ thuật về một số LSPG chính

- Thiếu thông tin về sản xuất kinh doanh, thị trường của LSPG

- Chưa dự báo được nhu cầu LSPG

(2) Thiếu chiến lược, quy hoạch và kế hoạch bảo tồn và phát triển LSPG

Nguồn tài nguyên LSPG của Môn Sơn đang suy giảm nghiêm trọng, với nhiều loài động thực vật có giá trị kinh tế và khoa học cao trở nên hiếm hoặc đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng Tình trạng khai thác LSPG trái phép vẫn chưa được kiểm soát, gây ra mối đe dọa lớn cho sự đa dạng sinh học trong khu vực.

(4) Sản xuất, kinh doanh, chế biến LSPG còn manh mún, tự phát, các cơ sở chế biến lâm sản lạc hậu, nên sản phẩm có tính cạnh tranh thấp

(5) Thiếu vốn đầu tư để thực thi công tác bảo tồn, phát triển vùng nguyên liệu và hiện đại hoá cơ sở chế biến lâm sản

Thị trường LSPG hiện đang gặp nhiều khó khăn và bấp bênh do quy mô nhỏ bé trong nước, phụ thuộc nhiều vào thị trường quốc tế Sự biến động giá cả mạnh mẽ đã tác động tiêu cực đến lợi ích của những người buôn bán, sản xuất và chế biến LSPG.

(7) Việc tăng dân số quá nhanh đã ảnh hưởng lớn đến công tác bảo tồn và phát triển LSPG

(8) Địa hình đất đai ở các địa phương không đồng đều, địa hình bị chia cắt, cách trở chiếm tỷ lệ lớn

Đội ngũ cán bộ xã, thôn, bản vừa được tăng cường, tuy nhiên, một số đồng chí còn trẻ tuổi nên kinh nghiệm trong công tác quản lý LSPG còn hạn chế.

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG LÂM SẢN PHI GỖ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ MÔN SƠN THUỘC VÙNG ĐỆM VƯỜN QUỐC GIA PÙ MÁT

Ngày đăng: 25/08/2021, 15:30

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. ThS. Đào Thị Minh Châu, ThS. Nguyễn Anh Dũng, hội các ngành sinh học Nghệ An. Báo cáo tài nguyên lâm sản phi gỗ - tình hình khai thác buôn bán, quản lý và tiềm năng phát triển tại vùng dự án SFNC, năm 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tài nguyên lâm sản phi gỗ - tình hình khai thác buôn bán, quản lý và tiềm năng phát triển tại vùng dự án SFNC
4. Võ Văn Chí. Từ điển cây thuốc Việt Nam, Nhà xuất bản y học 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển cây thuốc Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản y học 1997
5. Nguyễn Duy Chuyên. Các giải pháp xây dựng hệ sinh thái rừng bền vững. Tạp chí nông nghiệp và PTNT, Số 2/2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các giải pháp xây dựng hệ sinh thái rừng bền vững. "Tạp chí nông nghiệp và PTNT
6. Hà Chu Chử. “Một Vài ý kiến hướng tới một chiến lược phát triển lâm sản ngoài gỗ”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Số 6/2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Một Vài ý kiến hướng tới một chiến lược phát triển lâm sản ngoài gỗ”
8. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Chiến. Tạp chí khoa học - công nghệ kinh tế lâm nghiệp. Nhà xuất bản Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản Sách, tạp chí
Tiêu đề: ạp chí khoa học - công nghệ kinh tế lâm nghiệp
Nhà XB: Nhà xuất bản Trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản
10. UBND huyện Con Cuông. Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người Đan Lai hiện đang sinh sống tại vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, huyện Con Cuông tỉnh Nghệ An”, Con Cuông 2012 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện đề án “Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người Đan Lai hiện đang sinh sống tại vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát, huyện Con Cuông tỉnh Nghệ An”
11. UBND huyện Con Cuông. Báo cáo tình hình hình cơ bản huyện Con Cuông 2014, Con Cuông năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tình hình hình cơ bản huyện Con Cuông 2014
12. UBND xã Môn Sơn. Báo cáo tình hình hình cơ bản xã Con Môn Sơn 2014, Con Cuông năm 2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tình hình hình cơ bản xã Con Môn Sơn 2014
13. Vườn quốc gia Pù Mát. Báo cáo mười lăm năm xây dựng và phát triển Vườn quốc gia Pù Mát, Con Cuông, tháng 12 năm 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo mười lăm năm xây dựng và phát triển Vườn quốc gia Pù Mát
1. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đề án quốc gia về bảo tồn và phát triển lâm sản ngoài gỗ giai đoạn 2006-2020. Hà nội 9/2005 Khác
2. ThS. Đào Thị Minh Châu. Tài liệu tập huấn. Tài nguyên rừng và giá trị của nguồn tài nguyên lâm sản phi gỗ - khả năng quản lý và phát triển bền vững, 3/ 2006 Khác
7. Jeenn De Beer. Gs Hà Chu Chử, kỹ sư, Trần Quốc Túy: Phân tích nghành lâm sản ngoài gỗ Việt Nam, Báo cáo soạn thảo cho IUCN và trung trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản Khác
9. Dương Văn Thành. Bài giảng lâm sản ngoài gỗ. Trường đại học nông lâm Huế- 2006 Khác
14. Chương trình hỗ trợ ngành lâm nghiệp và đối tác. Cẩm nang ngành lâm nghiệp. Chương lâm sản ngoài gỗ, Hà Nội – 2006Website Khác
15. Viện khoa học lâm nghiệp Việt Nam: http:/vafs.gov.vn/ Khác
16. Tổng cục lâm nghiệp Việt Nam: http:/dof.mard.gov.vn/ Khác
17. Trang thông tin điện tử Nghệ An: http:/nghean.gov.vn/ Khác
18. Dự án sử dụng bền vững lâm sản ngoài gỗ: http:/14.160.53.160/LSPG/ Khác
19. Ban quản lý dự án lâm nghiệp: http:/duanlamnghiep.gov.vn/ Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình ảnh chụp từ ảnh vệ tinh địa bàn xã Môn Sơn. - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
nh ảnh chụp từ ảnh vệ tinh địa bàn xã Môn Sơn (Trang 25)
Bảng 2.1: Dân số và thành phần dân tộc. TT Tên thôn  bản  - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.1 Dân số và thành phần dân tộc. TT Tên thôn bản (Trang 26)
Bảng 2.2: Những đặc trưng dân số của xã Môn Sơn. - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.2 Những đặc trưng dân số của xã Môn Sơn (Trang 26)
Bảng 2.3: Cơ sở giáo dục xã Môn Sơn - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.3 Cơ sở giáo dục xã Môn Sơn (Trang 27)
Bảng 2.4: Đánh giá các loài LSPG là sản phẩm hàng hoá trên địa bàn - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.4 Đánh giá các loài LSPG là sản phẩm hàng hoá trên địa bàn (Trang 36)
Bảng 2.5: Lịch khai thác một số loài LSPG của người dân trên địa bàn Xã Môn Sơn thuốc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.5 Lịch khai thác một số loài LSPG của người dân trên địa bàn Xã Môn Sơn thuốc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (Trang 43)
Bảng 2.6: So sánh mùa thu hái các loại LSPG bán phổ biến trên thị trường Tháng (âl)  - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2.6 So sánh mùa thu hái các loại LSPG bán phổ biến trên thị trường Tháng (âl) (Trang 45)
Loại hình chi trả Bản Cò Phạt  - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
o ại hình chi trả Bản Cò Phạt (Trang 48)
2.3.3. Tình hình quản lý lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát  - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
2.3.3. Tình hình quản lý lâm sản phi gỗ trên địa bàn xã Môn Sơn thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Pù Mát (Trang 51)
- Không dùng các phương thức săn bắt theo các hình thức mang tích chất hủy diệt : điện, nỏ mìn,. - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
h ông dùng các phương thức săn bắt theo các hình thức mang tích chất hủy diệt : điện, nỏ mìn, (Trang 58)
phần diện tích đất đầm lầy… Xây dựng một số mô hình kết hợp trồng cây lâm nghiệp. Nên nghiên cứu lựa chọn những cây có đầu ra, dễ trồng và có giá trị  kinh tế cao, ưu tiên trồng những cây có khả năng tái tạo đất. - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
ph ần diện tích đất đầm lầy… Xây dựng một số mô hình kết hợp trồng cây lâm nghiệp. Nên nghiên cứu lựa chọn những cây có đầu ra, dễ trồng và có giá trị kinh tế cao, ưu tiên trồng những cây có khả năng tái tạo đất (Trang 60)
Bảng 1: Thống kê thành phần loài thực vật LSPG tại địa bàn xã Môn Sơn - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 1 Thống kê thành phần loài thực vật LSPG tại địa bàn xã Môn Sơn (Trang 68)
Bảng 2: Thống kê thành phần động vật LSPG tại địa bàn xã Môn Sơn. - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
Bảng 2 Thống kê thành phần động vật LSPG tại địa bàn xã Môn Sơn (Trang 72)
khai thác từ rừng theo bảng dưới: Tên sản  phẩm Nơi khai thác  * Khối lương/ số  lượng  khai  thác  hàng  năm  Mục đích khai thác  (Bán/sử dụng)  Người  trược tiếp khai thác  Mùa khai thác (Những  tháng nào?)  Cách chế biến  Nơi  bán sản phẩm  Thu nhập  - Quản lý và sử dụng lâm sản phi gỗ trên địa bàn  xã môn sơn thuộc vùng đệm vườn quốc gia pù mát
khai thác từ rừng theo bảng dưới: Tên sản phẩm Nơi khai thác * Khối lương/ số lượng khai thác hàng năm Mục đích khai thác (Bán/sử dụng) Người trược tiếp khai thác Mùa khai thác (Những tháng nào?) Cách chế biến Nơi bán sản phẩm Thu nhập (Trang 80)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w