1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

Tranh chấp quyền nuôi con chung sau khi ly hôn thực tiễn xét xử tại TAND huyện chư sê tỉnh gia lai

38 89 4

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 38
Dung lượng 596,99 KB

Cấu trúc

  • 1. Tình thế cấp thiết của đề tài (7)
  • 2. Mục tiêu của đề tài (7)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (8)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (8)
  • 5. Bố cục đề tài (8)
  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ (9)
    • 1.1. KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI (9)
    • 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ (10)
      • 1.2.1 Giới thiệu chung về cơ quan Tòa án nhân dân huyện Chư Sê (10)
      • 1.2.2. Khái quát về chức năng và nhiệm vụ (10)
    • 1.3. MỘT SỐ CÔNG VIỆC ĐƯỢC PHÂN CÔNG KHI THỰC TẬP TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ (10)
  • CHƯƠNG 2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ (12)
    • 2.1. KHÁI QUÁT VỀ LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN (12)
      • 2.1.1 Khái niệm ly hôn (12)
      • 2.1.2. Căn cứ ly hôn (12)
      • 2.1.3 Hệ quả của viêc ly hôn (14)
      • 2.1.4. Quyền nuôi con sau khi ly hôn (17)
    • 2.2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN (18)
      • 2.2.1. Các tranh chấp phát sinh về quyền nuôi con khi ly hôn (18)
      • 2.2.2. Phương thức giải quyết tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn (20)
  • CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ – TỈNH GIA LAI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN (22)
    • 3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ . 16 3.2. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYÊN NUÔI (22)
    • 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ25 KẾT CHƯƠNG 3 (31)
  • KẾT LUẬN (34)

Nội dung

Tình thế cấp thiết của đề tài

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, nhu cầu của con người ngày càng cao, dẫn đến nhiều vấn đề trong các mối quan hệ gia đình Nếu không giải quyết tốt những vấn đề này, việc duy trì các mối quan hệ sẽ trở nên khó khăn Để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, kinh tế cá nhân cần phải được cải thiện và phát triển.

Theo tác giả, tan vỡ trong các mối quan hệ gia đình thường xuất phát từ nhiều lý do, trong đó kinh tế là một yếu tố quan trọng Cuộc sống đòi hỏi gia đình phải lo toan, suy nghĩ và chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu Nếu không đảm bảo được những điều này, mâu thuẫn trong gia đình sẽ ngày càng tăng cao, dẫn đến nguy cơ ly hôn.

Gia đình là tế bào quan trọng của xã hội, và để xã hội phát triển bền vững, cần xây dựng những gia đình hạnh phúc Trong những năm gần đây, tình trạng ly hôn tại tỉnh Gia Lai, đặc biệt là huyện Chư Sê, ngày càng gia tăng, gây ra nhiều hệ lụy cho con cái Những đứa trẻ là nạn nhân chính, thiếu thốn tình yêu thương và sự che chở từ cả cha lẫn mẹ, dễ bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội Hơn nữa, ly hôn còn đặt ra nhiều vấn đề phức tạp cần giải quyết, như quyền nuôi con và cấp dưỡng Việc quy định rõ ràng về quyền nuôi con sau ly hôn là cần thiết để đảm bảo trẻ em được chăm sóc và phát triển tốt nhất, đồng thời giải quyết mâu thuẫn giữa cha mẹ trong việc nuôi dưỡng con cái.

Mục tiêu của đề tài

Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ các khái niệm liên quan đến ly hôn, quyền nuôi con, và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con sau ly hôn Bài viết sẽ phân tích sự tương đồng và khác biệt giữa Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 và năm 2014 Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ xem xét thực trạng, đối tượng và nguyên nhân của các vấn đề này.

Tình trạng áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê đang gặp phải nhiều thách thức Việc thực hiện các lý luận về ly hôn và quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong bối cảnh ly hôn cần được xem xét kỹ lưỡng để đảm bảo quyền lợi cho các bên Nghiên cứu này sẽ đánh giá ưu và nhược điểm trong thực tiễn áp dụng, đồng thời phân tích các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng, nhằm đưa ra giải pháp phù hợp với tình hình thực tế của từng gia đình Cuối cùng, việc áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp quyền nuôi con chung khi ly hôn cũng cần được đánh giá một cách toàn diện.

Để nâng cao hiệu quả công tác tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, cần đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả các quy định hiện hành Những kiến nghị này sẽ góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và thúc đẩy pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài này, tác giả đã áp dụng phương pháp phân tích và so sánh các tài liệu liên quan, cùng với việc tổng hợp và khảo sát thực tế Mục tiêu là đánh giá sự phù hợp của pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con cái sau khi ly hôn.

Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 chương

Chương 1: Tổng quan về Toà án nhân dân huyện Chư Sê

Chương 2: Khái quát chung về ly hôn và quy định pháp luật về tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn

Chương 3: Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn tại Toà án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, đồng thời đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện quy trình và nâng cao hiệu quả xét xử trong lĩnh vực này.

TỔNG QUAN VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ

KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ HUYỆN CHƯ SÊ, TỈNH GIA LAI

Huyện Chư Sê, nằm ở phía nam tỉnh Gia Lai, cách thành phố Pleiku 26 km về phía Bắc, có diện tích tự nhiên 643 km² và dân số khoảng 110.300 người vào năm 2019 Huyện được kết nối bởi Quốc lộ 14, nối liền các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước và thành phố Hồ Chí Minh Huyện Chư Sê bao gồm 15 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có thị trấn Chư Sê và 14 xã.

Lịch sử: Ngày 17 tháng 8 năm 1981, huyện Chư Sê được thành lập trên cơ sở: Tách

Huyện Chư Sê ban đầu được thành lập với 12 xã, bao gồm Al Bá, Bờ Ngoong, Dun, HBông, Ia Blang, Ia Glai, Ia HLốp, Ia Hrú, Ia Ko, Ia Le, Ia Tiêm, và Nhơn Hòa Sau đó, huyện Mang Yang tách ra 5 xã: Ia Tiêm, Bờ Ngoong, Al Bá, HBông, và Dun Đồng thời, huyện Chư Prông cũng tách 7 xã: Ia Glai, Ia HLốp, Ia Blang, Ia Hrú, Ia Ko, Ia Le, và Nhơn Hòa Vào ngày 30 tháng 5 năm 1988, các làng Tiền Phong 1, Tiền Phong 2, Tiền Phong 3, Glan, Kê, Ngo, và Ser thuộc xã Ia Blang đã được tách ra.

Mỹ Thạch 1, Mỹ Thạch 2, Quốc lộ 25, Tốt Hangring, và Tốt Dun Pêu thuộc xã Dun đã được sử dụng để thành lập thị trấn Chư Sê, huyện lỵ của huyện Vào năm 1994, xã Ayun được thành lập từ một phần diện tích và dân số của xã Al Bá Ngày 9 tháng 11 năm 2000, xã Ia Phang ra đời với 12.710,5 ha diện tích tự nhiên và 5.214 nhân khẩu từ xã Nhơn Hòa Cùng ngày, xã Ia Dreng cũng được thành lập với 2.351,7 ha và 2.486 nhân khẩu từ xã Ia Hrú Tiếp theo, vào ngày 16 tháng 2 năm 2005, xã Ia Hla được thành lập với 12.447 ha và 2.283 nhân khẩu từ xã Ia Ko Xã Bar Măih được thành lập với 4.761 ha và 3.866 nhân khẩu từ xã Bờ Ngoong, trong khi xã Chư Pơng ra đời với 3.937,50 ha và 2.872 nhân khẩu từ xã Ia Tiêm vào ngày 21 tháng 4 năm 2006.

Ia Blứ trên cơ sở 19.114,50 ha diện tích tự nhiên và 4.688 nhân khẩu của xã Ia Le Ngày

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2008, xã Nhơn Hòa được chia thành thị trấn Nhơn Hòa và xã Chư Don, với thị trấn Nhơn Hòa có diện tích tự nhiên 2.100,00 ha và dân số 10.500 người Xã Nhơn Hòa còn lại có diện tích 3.889,50 ha và 1.840 nhân khẩu, sau đó được đổi tên thành xã Chư Don Đến cuối năm 2008, huyện Chư Sê có 2 thị trấn là Chư Sê và Nhơn Hòa, cùng với 19 xã khác bao gồm Al Bá, Ayun, Bar Măih, Bờ Ngoong, Chư Don, Chư Pơng, Dun, HBông, Ia Blang, Ia Blứ, Ia Dreng, và Ia Glai.

Ngày 27 tháng 8 năm 2009, xã Ia Rong được thành lập từ việc điều chỉnh 2.311,18 ha diện tích tự nhiên và 4.518 nhân khẩu của xã Ia Hrú Đồng thời, xã Ia Pal được thành lập với 2.273,28 ha diện tích tự nhiên và 4.755 nhân khẩu từ xã Dun Xã Kông HTok cũng được thành lập, điều chỉnh từ 1.107,9 ha diện tích tự nhiên và 908 nhân khẩu của xã Dun, cùng với 1.721,84 ha và 3.404 nhân khẩu từ xã Al Bá Sau khi điều chỉnh, xã Kông HTok có tổng diện tích 2.829,64 ha và 4.312 người, trong khi xã Ia Hrú còn lại 3.951,31 ha và 7.199 nhân khẩu.

1 https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0_S%C3%AA

Xã Dun hiện có diện tích tự nhiên 1.993,64 ha và dân số 3.462 người Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Al Bá còn lại 2.969 ha diện tích tự nhiên và 5.011 nhân khẩu Đồng thời, thị trấn Nhơn Hòa cũng được chia tách cùng với 8 xã: Ia Le, Ia Blứ, Ia Phang, Chư Don, và Ia Dreng.

Huyện Chư Pưh được thành lập từ các xã Ia Hla, Ia Hrú và Ia Rong, với tổng diện tích tự nhiên là 71.695,02 ha và dân số khoảng 54.890 người Huyện bao gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã Ia Le, Ia Blứ, Ia Phang, Chư Don, Ia Dreng, Ia Hla, Ia Hrú, Ia Rong và thị trấn Nhơn Hòa Đặc biệt, vào ngày 12 tháng 2 năm 2015, Bộ Xây dựng đã công nhận thị trấn Chư Sê là đô thị loại IV.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ

1.2.1 Giới thiệu chung về cơ quan Tòa án nhân dân huyện Chư Sê

Năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Chư Sê được phân bổ 07 Thẩm phán, 05 Thư ký,

Đơn vị hiện có 07 Thẩm phán, 05 thư ký, 01 chức danh khác và 02 hợp đồng lao động, nhưng đang thiếu 01 hợp đồng lao động so với chỉ tiêu biên chế được giao Tất cả 14 cán bộ, công chức, người lao động đều là đảng viên, trong đó có 08 cán bộ, công chức nữ Về chức danh lãnh đạo, đơn vị có 01 Chánh án và 02 Phó Chánh án, được bổ nhiệm vào tháng 11/2019.

Công đoàn Tòa án nhân dân huyện gồm 15 Đoàn viên, Ban chấp hành Công đoàn có

1.2.2 Khái quát về chức năng và nhiệm vụ

Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, theo quy định tại Điều 102 của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014, có thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, và giải quyết các vấn đề khác theo quy định của pháp luật Tòa án thực hiện quyền tư pháp nhằm bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, và lợi ích của Nhà nước, đồng thời góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, chấp hành pháp luật và tôn trọng các quy tắc xã hội, cũng như nâng cao ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật.

MỘT SỐ CÔNG VIỆC ĐƯỢC PHÂN CÔNG KHI THỰC TẬP TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ

Tại Toà án nhân dân huyện Chư Sê, tôi đã được hướng dẫn tham quan Phòng Truyền thống, nơi cung cấp thông tin về đặc điểm, chức năng và nhiệm vụ của ngành Toà án Bên cạnh đó, tôi cũng tìm hiểu về lịch sử thành lập Toà án nhân dân huyện Chư Sê, cũng như hệ thống các phòng, ban và quy trình chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan này.

- Học tập quy chế, giờ làm việc của Toà án nhân dân huyện Chư Sê

- Tìm hiểu tổng quan về tổ chức, bộ máy và hoạt động của Toà án nhân dân huyện Chư Sê

- Tiếp cận và nghiên cứu các tài liệu, hồ sơ liên quan

- Tham gia tìm hiểu công tác tiếp dân của Toà án nhân dân huyện Chư Sê

Môi trường làm việc thực tế thường khác biệt so với lý thuyết đã học, tạo ra nhiều thách thức cho người lao động Công việc hiện nay không chỉ yêu cầu kiến thức chuyên môn mà còn cần nhiều kỹ năng mềm, điều này cho thấy sự quan trọng của việc phát triển các kỹ năng này trong quá trình làm việc.

5 chưa từng va chạm Điều này đòi hỏi sự kiên nhẫn, học hỏi những cái mới thay vì chăm chăm áp dụng những điều đã biết

Công việc được giao không chỉ liên quan đến chuyên môn mà còn bao gồm các nhiệm vụ hành chính và nghĩa vụ của nhân viên Mặc dù những công việc này không phải là nhiệm vụ chính, nhưng chúng vẫn chiếm một phần đáng kể thời gian của tôi để hoàn thành.

Toà án nhân dân huyện Chư Sê đã tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên tiếp xúc với môi trường làm việc thực tế, giúp họ trải nghiệm và phát triển kỹ năng cần thiết cho công việc tương lai Với cơ sở vật chất hiện đại và môi trường làm việc chuyên nghiệp, sinh viên được cọ sát từ những bước căn bản nhất, chuẩn bị tốt cho sự nghiệp sau này.

Kỳ thực tập này mang lại nhiều bài học quý giá, giúp tôi khắc phục những vấn đề cũ kỹ và không còn phù hợp, đồng thời tiếp thu kiến thức mới để hoàn thiện bản thân một cách tốt hơn.

Trong chương này, tôi đã tóm tắt các đặc điểm, chức năng và nhiệm vụ của ngành Tòa án, đồng thời nêu rõ lịch sử thành lập Tòa án nhân dân huyện Chư Sê Bên cạnh đó, tôi cũng trình bày hệ thống các phòng, ban và quy trình chuyên môn, nghiệp vụ, cùng với những công việc được giao tại đơn vị Qua đó, tôi nhận thức được những hạn chế của bản thân và có hướng khắc phục để ngày càng hoàn thiện hơn.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LY HÔN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ

KHÁI QUÁT VỀ LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN

Hôn nhân bao gồm hai khái niệm đối lập: kết hôn và ly hôn Kết hôn xác lập quan hệ vợ chồng qua đăng ký, trong khi ly hôn chấm dứt mối liên kết này Việc giải quyết ly hôn là kết quả của ý chí của một hoặc cả hai bên vợ chồng và phải được thực hiện qua quyết định của tòa án, nơi duy nhất có thẩm quyền trong việc này Điều này cho thấy ly hôn, mặc dù mang tính chất riêng tư, vẫn cần sự giám sát của cơ quan nhà nước để bảo vệ lợi ích của từng thành viên trong gia đình, cũng như lợi ích xã hội và quốc gia.

Căn cứ ly hôn là các quy định pháp luật xác định điều kiện mà Tòa án phải xem xét trong quá trình giải quyết ly hôn của vợ chồng Những quy định này cần phù hợp với bản chất sự việc và tình trạng thực tế của hôn nhân, xác định rõ khi nào cuộc hôn nhân không còn tồn tại Tòa án chỉ công nhận một thực tế khách quan rằng hôn nhân đã chấm dứt Do đó, việc xác định căn cứ ly hôn là rất khó khăn, đòi hỏi tính khoa học, phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa và ý chí của đông đảo quần chúng nhân dân lao động.

Căn cứ ly hôn là những điều kiện pháp lý mà pháp luật quy định, và Tòa án chỉ chấp thuận việc ly hôn khi có đủ các điều kiện này Đây là những yếu tố cần thiết và đủ để Tòa án đưa ra quyết định cho vợ chồng ly hôn, đảm bảo quy trình pháp lý được thực hiện thống nhất.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đặc biệt là trong các quy định liên quan đến căn cứ ly hôn.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rằng việc không đạt được thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo vệ quyền lợi hợp pháp của vợ và con trong việc chia tài sản là không hợp lệ.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bổ sung quy định mới về ly hôn thuận tình, cho phép cả hai bên vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn và tự nguyện thỏa thuận về việc chia tài sản, cũng như việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con cái Nếu các bên đạt được thỏa thuận đảm bảo quyền lợi chính đáng cho vợ và con, Tòa án sẽ công nhận ly hôn Tuy nhiên, nếu không đạt được thỏa thuận hoặc thỏa thuận không đảm bảo quyền lợi cho vợ và con, đây sẽ là căn cứ để Tòa án giải quyết việc ly hôn Điều này khác với quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, trong đó không có trường hợp ly hôn thuận tình như vậy.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã xác định nguyên nhân dẫn đến tình trạng hôn nhân trầm trọng, khi đời sống chung không thể duy trì và mục đích hôn nhân không đạt được Cụ thể, luật quy định rằng ly hôn có thể được xem xét khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ ràng về "bạo lực gia đình" và "vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng" như là căn cứ cho ly hôn khi hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, không thể kéo dài Đây là điểm mới so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, phản ánh thực trạng gia tăng bạo lực gia đình, đặc biệt là đối với phụ nữ Luật cũng yêu cầu các mâu thuẫn, xung đột trong đời sống vợ chồng phải có cơ sở nhận định rằng tình trạng hôn nhân không đạt được mục đích mới được giải quyết cho ly hôn Việc xác định các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trầm trọng đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa án trong việc giải quyết ly hôn, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung căn cứ ly hôn, cho phép Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn nếu có chứng cứ về hành vi bạo lực gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, và tinh thần của người kia Đây là điểm mới so với Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Luật mới cũng quy định cha, mẹ và người thân có quyền yêu cầu ly hôn và chỉ rõ lý do, trong đó bạo lực gia đình là một lý do hợp lệ Quy định này giúp giải quyết vấn đề khi người thân muốn xin ly hôn thay cho người bị mất năng lực hành vi, điều mà trước đây không thể thực hiện do yêu cầu ly hôn phải do chính đương sự thực hiện.

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định về căn cứ ly hôn đã được cải thiện, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu ly hôn, thể hiện sự tiến bộ trong kỹ thuật lập pháp so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

Việc chuyển căn cứ ly hôn từ Điều luật riêng trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 vào Điều 55 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nhằm làm rõ quy định về thuận tình ly hôn và ly hôn theo yêu cầu của một bên Đồng thời, việc xác định các nguyên nhân dẫn đến tình trạng hôn nhân trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được giúp cụ thể hóa căn cứ cho việc ly hôn.

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã xác định rõ ràng hành vi bạo lực gia đình và vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng, tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án trong việc giải quyết ly hôn theo yêu cầu của một bên Sự thay đổi này góp phần thống nhất việc áp dụng pháp luật về ly hôn trên toàn quốc, đồng thời thể hiện kỹ thuật lập pháp chặt chẽ hơn so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

Theo quy định tại Điều 2000, Tòa án có quyền xem xét yêu cầu ly hôn và quyết định cho ly hôn dựa trên ý chí chủ quan của mình Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 lại quy định rõ ràng rằng Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn khi có căn cứ cụ thể từ vợ hoặc chồng Sự khác biệt này cho thấy sự cần thiết phải làm rõ tiêu chí và quy trình giải quyết ly hôn trong pháp luật hiện hành.

2.1.3 Hệ quả của viêc ly hôn

Khi Tòa án quyết định cho vợ chồng ly hôn, điều này chính thức công nhận sự chấm dứt của một gia đình Sự tan vỡ này không chỉ ảnh hưởng đến vợ chồng mà còn gây ra những hệ lụy cho những người có liên quan trực tiếp đến quan hệ hôn nhân Ly hôn không chỉ là sự kết thúc của một mối quan hệ, mà còn kéo theo hàng loạt hậu quả pháp lý cần được xem xét.

- Hậu quả của ly hôn dưới góc độ xã hội

Ly hôn đồng nghĩa với việc hai người không còn duy trì quan hệ vợ chồng, cho phép họ tự do lựa chọn cuộc sống mới Quyết định này mang lại cơ hội cho mỗi cá nhân tìm kiếm hạnh phúc và sự phát triển cá nhân trong tương lai.

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN

2.2.1 Các tranh chấp phát sinh về quyền nuôi con khi ly hôn

Ly hôn thường là giải pháp cuối cùng khi mâu thuẫn giữa vợ chồng trở nên nghiêm trọng, dẫn đến việc không thể duy trì cuộc sống chung và không đạt được mục đích hôn nhân Một trong những vấn đề quan trọng cần được giải quyết trong quá trình ly hôn là quyền nuôi con Do đó, việc xác định quyền nuôi con của cha mẹ sau ly hôn là một vấn đề cần được chú trọng và làm rõ.

Theo Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái sau khi ly hôn, cha mẹ có trách nhiệm đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện của trẻ Việc phân chia quyền nuôi con sẽ dựa trên lợi ích tốt nhất của trẻ, đồng thời cần xem xét đến khả năng của mỗi bên trong việc chăm sóc và giáo dục con.

Sau khi ly hôn, vợ chồng cần thỏa thuận về việc ai sẽ trực tiếp nuôi con, cũng như quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với con Nếu không đạt được thỏa thuận, tòa án sẽ quyết định ai sẽ là người nuôi con dựa trên lợi ích tốt nhất cho trẻ Đặc biệt, nếu trẻ từ 7 tuổi trở lên, tòa án sẽ xem xét nguyện vọng của trẻ trong quá trình ra quyết định.

Trẻ dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng Trong trường hợp mẹ không đủ khả năng chăm sóc, hoặc nếu cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con, việc nuôi dưỡng có thể được điều chỉnh.

Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ bình đẳng trong việc nuôi dưỡng và giáo dục con cái Khi ly hôn, việc giao con chưa thành niên cho một bên phụ huynh sẽ dựa vào thỏa thuận giữa cha mẹ Nếu không đạt được thỏa thuận, họ có quyền yêu cầu tòa án can thiệp để quyết định ai sẽ là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con.

Khi ly hôn, việc nuôi con chủ yếu dựa trên thỏa thuận giữa các bên; nếu không đạt được thỏa thuận, Tòa án sẽ can thiệp Tòa án sẽ xem xét nhiều yếu tố để quyết định quyền nuôi con, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất cho trẻ.

Cơ sở để giao con cho một bên cha hoặc mẹ nuôi phải dựa trên quyền lợi của trẻ Tòa án sẽ xem xét điều kiện thực tế của cả vợ và chồng, bao gồm tư cách đạo đức, hoàn cảnh công tác, tình hình kinh tế và thời gian có thể dành cho con Dựa trên những yếu tố này, Tòa án sẽ đưa ra quyết định phù hợp nhất.

3 Khoản 2,3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

13 bên vợ chồng có điều kiện thực tế trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con tốt hơn thì giao con cho người đó trực tiếp nuôi

Thứ hai: Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên phải xem xét nguyện vong của con

Khi Tòa án quyết định việc giao con cho cha hoặc mẹ nuôi, nếu trẻ từ 07 tuổi trở lên, Tòa án phải tham khảo ý kiến của trẻ về việc sống với ai trong hai bên Đây là quy định pháp luật bắt buộc Tòa án tuân thủ Tuy nhiên, ý kiến của trẻ chỉ mang tính chất tham khảo và không có giá trị quyết định trong việc Tòa án đưa ra quyết định cuối cùng về việc nuôi dưỡng trẻ.

Trẻ dưới 36 tháng tuổi cần được nuôi dưỡng và chăm sóc bởi người mẹ, vì mẹ là người có khả năng tốt nhất để thực hiện vai trò này Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt như mẹ đang thi hành án phạt tù, bị nghiện ma túy hoặc có lối sống không lành mạnh, Tòa án có thể giao quyền nuôi con cho cha để đảm bảo quyền lợi cho trẻ Ngoài ra, cần phải đảm bảo không có sự phân biệt đối xử dựa trên giới tính hay tình trạng xã hội, và không được phép lạm dụng sức lao động hay ép buộc trẻ làm việc trái pháp luật và đạo đức xã hội.

Khi cha hoặc mẹ không thực hiện đúng nghĩa vụ nuôi dưỡng con cái sau ly hôn, không đảm bảo quyền lợi và sự chăm sóc cần thiết cho con, bên còn lại có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Cấp dưỡng là nghĩa vụ tài chính mà một người phải thực hiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người khác, bao gồm cả những người không sống chung nhưng có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng Điều này áp dụng cho trẻ em chưa thành niên, người trưởng thành không có khả năng lao động, hoặc những người gặp khó khăn, túng thiếu, theo quy định tại khoản 24, Điều 3 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Nghĩa vụ cấp dưỡng có hai đặc điểm chính là tính không thể chuyển giao và tính không thể thay thế Theo khoản 1 Điều 107 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, nghĩa vụ này được thực hiện giữa các thành viên trong gia đình như cha mẹ và con cái, anh chị em, ông bà và cháu, cũng như giữa vợ và chồng Điều quan trọng là nghĩa vụ cấp dưỡng không thể được thay thế bằng nghĩa vụ khác và không thể chuyển giao cho người khác.

Quan hệ cấp dưỡng là một dạng quan hệ pháp luật về tài sản, liên quan chặt chẽ đến nhân thân của các bên tham gia Điều này được thể hiện qua trách nhiệm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng trong việc hỗ trợ tài chính cho người được cấp dưỡng.

Nghĩa vụ cấp dưỡng là trách nhiệm tài chính mà một bên phải cung cấp một khoản tiền hoặc tài sản nhất định để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của bên được cấp dưỡng Quan hệ này mang tính chất nhân thân và tài sản, không thể chuyển giao cho người khác, mà phải do chính người có nghĩa vụ thực hiện Cấp dưỡng thường phát sinh giữa các thành viên trong gia đình, dựa trên hôn nhân, huyết thống hoặc mối quan hệ nuôi dưỡng.

Quan hệ cấp dưỡng là mối quan hệ tài sản không mang tính chất đền bù ngang giá, mà dựa vào sự gắn bó tình cảm giữa các bên Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện một cách tự nguyện, không dựa trên giá trị tài sản đã cấp dưỡng và không yêu cầu người nhận hoàn trả số tiền tương ứng Hơn nữa, nghĩa vụ cấp dưỡng không chỉ phát sinh trong những trường hợp và điều kiện nhất định.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ – TỈNH GIA LAI VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ 16 3.2 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ QUYÊN NUÔI

Huyện Chư Sê có dân số đông và kinh tế phát triển, nhưng nhận thức của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, còn hạn chế Họ chưa nhận thức được hậu quả nghiêm trọng của ly hôn, dẫn đến tình trạng ly hôn gia tăng trong những năm gần đây Cụ thể, năm 2019, huyện đã thụ lý 239 vụ ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con, tăng 5 vụ so với năm trước, nhưng số vụ giải quyết lại giảm 6 vụ, tỷ lệ giải quyết giảm 0,45%.

Bảng 3.1 trình bày số liệu thống kê về các vụ án dân sự liên quan đến ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con tại huyện Chư Sê, so sánh với các địa bàn lân cận trong năm 2019 Các số liệu này giúp đánh giá tình hình ly hôn và quyền nuôi con trong khu vực, cung cấp cái nhìn tổng quan về xu hướng và đặc điểm của các vụ án dân sự này.

Thụ lý (Vụ) Giải quyết

Trong năm 2019, huyện Chư Sê tại tỉnh Gia Lai ghi nhận số vụ ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung cao hơn so với các khu vực lân cận, cụ thể là 215 vụ tại Chư Pưh, 232 vụ tại Chư Prông và 183 vụ tại Phú Thiện Điều này cho thấy Chư Sê là địa bàn có tỷ lệ ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung đáng chú ý trong toàn tỉnh.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng ly hôn là do nhận thức của người dân còn hạn chế, khiến họ chưa nhận ra tầm quan trọng của gia đình và những hậu quả nghiêm trọng sau khi chia tay Nhiều cặp vợ chồng kết hôn vì cảm xúc nhất thời, bị ép buộc hoặc chịu ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài, thay vì xây dựng mối quan hệ dựa trên tình yêu và tình cảm chân thành.

4 Số liệu thực tế tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

Mối quan hệ trong gia đình, nếu không được xây dựng trên nền tảng tình yêu, rất dễ bị rạn nứt và không bền vững Ngoài ra, các yếu tố xã hội bên ngoài cũng có thể làm tan vỡ sự gắn kết giữa vợ chồng Huyện Chư Sê, trong giai đoạn 2010 – 2015, đã phát triển mạnh mẽ về kinh tế, kéo theo sự gia tăng đời sống nhân dân và các loại hình giải trí Tuy nhiên, sự phát triển này cũng dẫn đến sự gia tăng tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến tâm lý và hành vi của người dân, từ đó tác động đến mối quan hệ gia đình.

Công tác thụ lý giải quyết án hôn nhân và gia đình tại TAND huyện Chư Sê

Bảng 3.2 Thống kê số liệu các vụ án dân sự trong hôn nhân gia đình so với các vụ án dân sự khác trong năm 2020

Dân sự Hôn nhân gia đình

Ta thấy được số án thụ lý của hôn nhân và gia đình so với án thụ lý dân sự là 243/257 chiếm 94,55%

Số vụ giải quyết của án hôn nhân và gia đình so với số vụ giải quyết của án dân sự là 293/243 vụ chiếm 98,35%

Trong năm, đơn vị đã thụ lý, giải quyết 239/243 vụ, việc, đạt tỉ lệ 98,35%

So với năm 2019, số vụ án thụ lý đã giảm 05 vụ và số vụ được giải quyết cũng giảm 06 vụ, dẫn đến tỷ lệ giải quyết giảm 0,45% Hiện tại, đơn vị không có án quá hạn cũng như án bị hủy hoặc cải sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán Thủ tục tạm đình chỉ được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật.

Tố tụng dân sự Quan hệ tranh chấp chiếm tỉ lệ cao là tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung và chia tài sản chung khi ly hôn

Nghiên cứu cho thấy pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản quy định liên quan đến ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con Tuy nhiên, việc áp dụng các quy định này tại huyện Chư Sê đòi hỏi phải lựa chọn và sàng lọc các căn cứ pháp lý một cách phù hợp để đạt hiệu quả tối đa Người vận dụng cần có khả năng nhận định tốt các vấn đề, linh hoạt áp dụng theo từng trường hợp cụ thể Đặc biệt, trong các vụ tranh chấp quyền nuôi con tại vùng dân tộc thiểu số như Jarai, Bana, cần chú ý đến phong tục tập quán để đảm bảo sự công bằng và hợp lý trong quyết định.

5 Số liệu thực tế tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia lai

18 quán của người dân địa phương, để làm sao cho việc xét xử và đưa ra kết luận của tòa án phù hợp, đạt hiểu quả cao nhất

Cần phối hợp với chính quyền địa phương ở các vùng có trình độ dân trí thấp để tuyên truyền cho người dân về quy định pháp luật trong hôn nhân và gia đình Việc này giúp nâng cao nhận thức, từ đó áp dụng các quy định pháp luật hiệu quả hơn trong thực tiễn.

Tác giả đã nghiên cứu và phân tích một số bản án tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, nhằm chỉ ra cách giải quyết các vụ ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung Kết quả giải quyết của Tòa án trong những vụ án này sẽ được trình bày dưới đây.

Vụ việc tại tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai liên quan đến việc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp quyền nuôi con chung khi ly hôn Trường hợp này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em và các quy định pháp lý liên quan đến quyền nuôi dưỡng sau khi hôn nhân chấm dứt.

Tóm tắt nội dung bản án:

Ngày 19/7/2019, Tòa án nhân dân huyện H tiếp nhận đơn khởi kiện của chị A, SN:

1989, trú tại 815/18 Trường Chinh, tổ dân phố 1, phường T, thành phố H, Tỉnh Gia Lai về vệc ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung khi ly hôn

Chị A và anh B đã thiết lập mối quan hệ tình cảm và chính thức trở thành vợ chồng vào ngày 14/5/2014 Trong thời gian sống chung, họ đã trải qua nhiều kỷ niệm và gắn bó với nhau.

01 con chung, cháu tên là: E, sinh ngày 25/3/20xx Hiện tại cháu E đang ở với gia đình chị

A Nhưng vì sự mâu thuẫn giữa chị A và anh B nên ngày 19/8/2019 chị A đã khởi kiện ra Tòa án nhân dân huyện Chư Sê để yêu cầu ly hôn và giành quyền nuôi con khi ly hôn Cụ thể, sau khi kết hôn anh B có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, sau nhiều lần khuyên ngăn nhưng anh B không chịu chấm dứt mối quan hệ tình cảm đó lại Do đó, chị A đã khởi kiện ra tòa án nhân dân huyện Chư Sê và yêu cầu ly hôn với anh B

Kết quả giải quyết của tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị A được ly hôn với anh B

Sau khi ly hôn, cháu E, sinh ngày 25/3/2015, sẽ được giao cho chị A chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom nhưng không được cản trở việc chăm sóc của người nuôi Nếu việc thăm nom bị lạm dụng, người nuôi có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom Tòa án cũng có thể quyết định thay đổi người nuôi hoặc mức cấp dưỡng theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức liên quan.

Anh B có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là cháu E, sinh ngày 25/3/20xx, với mức hỗ trợ 1.500.000 đồng mỗi tháng Nghĩa vụ này bắt đầu từ ngày bản án có hiệu lực và sẽ kéo dài cho đến khi cháu E đủ 18 tuổi.

6 Bản án số 01/2019/HNGĐ-ST ngày 13/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai

Chị A nhận hỗ trợ tài chính để nuôi con, trong bối cảnh con chị 19 tuổi, có khả năng lao động hoặc chưa thành niên nhưng không thể tự nuôi sống bản thân do không có tài sản.

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ SÊ25 KẾT CHƯƠNG 3

Ly hôn không chỉ tác động đến các cặp vợ chồng mà còn gây ra hệ lụy lớn cho gia đình và xã hội Do đó, cần có sự quan tâm từ chính quyền và các đoàn thể cơ sở để cùng nhau giảm thiểu tình trạng này.

Khoản 2, Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định rằng vợ chồng cần thỏa thuận về người nuôi con và nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi bên sau ly hôn Nếu không đạt được thỏa thuận, tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên nuôi dựa trên quyền lợi của trẻ Đối với trẻ từ 7 tuổi trở lên, nguyện vọng của trẻ cũng cần được xem xét Trong các vụ tranh chấp quyền nuôi con, việc thẩm phán lắng nghe ý kiến của trẻ chưa thành niên là rất quan trọng để đảm bảo tính khách quan của vụ án, và phương pháp lấy ý kiến cần phải thân thiện với trẻ em.

Các bản tự khai hiện tại chưa đảm bảo tính khách quan do có thể bị ảnh hưởng bởi cha mẹ và người thân, điều này có thể làm sai lệch ý chí và nguyện vọng chính đáng của trẻ Hệ quả là, việc quyết định giao quyền nuôi dưỡng cho một bên có thể dẫn đến những sai sót không mong muốn.

Theo Khoản 3, Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, trong các vụ án tranh chấp nuôi con khi ly hôn, thẩm phán cần lấy ý kiến của trẻ em từ 7 tuổi trở lên Tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 3 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 do Bộ Tư pháp tổ chức năm 2019, đại diện Tòa án nhân dân tối cao nhấn mạnh rằng, khi vợ chồng đồng thuận ly hôn và tự thỏa thuận về việc nuôi con, cần xem xét nguyện vọng của trẻ.

Theo công văn số 01/GĐ-TANDTC ngày 5-1-2018 của Tòa án nhân dân tối cao, việc xem xét nguyện vọng của con chưa thành niên là một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án Tuy nhiên, điều này không phải là căn cứ quyết định để tòa án giao con chung cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng.

Trong các vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rằng việc thu thập tài liệu và chứng cứ để xác định nguyên nhân tranh chấp phải được thực hiện thông qua việc tham khảo ý kiến từ cơ quan quản lý nhà nước về công tác gia đình tại địa phương, cũng như UBND cấp xã nơi vợ chồng sinh sống và nơi cư trú của con chưa thành niên.

Việc áp dụng hình thức này gặp khó khăn do các cơ quan không thể nắm bắt thông tin cụ thể của từng gia đình, dẫn đến việc thiếu tính xác thực trong giải quyết vụ án Do đó, cần có quy định cụ thể hơn để nâng cao tính khả thi trong việc thực hiện pháp luật về dân sự và hôn nhân, gia đình trong tương lai.

Ngành Tòa án đề nghị tỉnh tăng cường lãnh đạo trong việc xóa bỏ hủ tục và tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình, đồng thời đấu tranh chống lối sống ích kỷ và thực dụng Cần có kế hoạch cụ thể để phòng, chống tệ nạn xã hội và bạo lực gia đình, đồng thời nâng cao công tác tuyên truyền, giáo dục kiến thức và kỹ năng cho từng cá nhân trong gia đình Các gia đình nên tích cực tham gia xây dựng quy ước thôn, xóm và quy chế dân chủ cơ sở Chính quyền cơ sở cần phát triển tổ hòa giải để kịp thời giải quyết mâu thuẫn nhỏ trong gia đình, giữ gìn truyền thống tốt đẹp và phát huy giá trị văn hóa gia đình Việt Việc triển khai thực hiện nghiêm túc các luật liên quan đến gia đình như Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Bình đẳng giới, và Luật Phòng chống bạo lực gia đình là cần thiết để giảm thiểu tình trạng ly hôn.

Trong những năm gần đây, huyện Chư Sê đối mặt với tình trạng suy giảm kinh tế do biến động thị trường trong nước và quốc tế, dẫn đến mật độ dân số giảm và đời sống người dân gặp khó khăn Điều này lý giải cho sự gia tăng tình trạng ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung, diễn biến ngày càng phức tạp trong khu vực.

Chương này trình bày thực tiễn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, đồng thời đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan.

Ngày đăng: 24/08/2021, 14:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[5] Bản án số 01/2019/HNGĐ-ST, ngày 13-02-2019 “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn
[6] Bản án số 03/2019/HNGĐ-ST, ngày 26-03-2019 “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn
[7] Bản án số 32/2019/HNGĐ-ST, ngày 14-08-2019 “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con khi ly hôn
[1] Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh [2] Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Khác
[4] Luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Tuyết Nhung khoa Luật trường đại học quốc gia Hà Nội Khác
[11] Bản báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2019 và triển khai phương hướng nhiệm vụ năm 2020 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w