Tính cấp thiết của đề tài
Huyện Sa Thầy, một trong những huyện nghèo của tỉnh, có 7 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn theo Chương trình 135 của Chính phủ Dù đã thực hiện nhiều đề án và chương trình phát triển kinh tế nhằm nâng cao tỷ lệ thoát nghèo, nhưng tỷ lệ này vẫn chưa cao, đặc biệt là ở xã Ya Tăng, nơi nguy cơ tái nghèo vẫn còn lớn.
Xã Ya Tăng, nằm ở phía Tây nam huyện Sa Thầy và cách trung tâm huyện 10km, đã có những bước tiến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội nhờ vào sự đầu tư cơ sở hạ tầng và nỗ lực của lãnh đạo địa phương Tuy nhiên, xã vẫn còn là một trong những nơi nghèo nhất với tỷ lệ hộ nghèo cao nhất, chiếm 6,47% vào năm 2020, và thu nhập trung bình thấp nhất so với các xã và thị trấn khác Đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào nông nghiệp và chăn nuôi nhỏ lẻ, trong khi đất đai bạc màu và giá vật tư nông nghiệp tăng cao đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh kế của họ.
Nghèo đói cản trở sự nâng cao dân trí và phát triển xã hội, vì vậy, trong quá trình xây dựng và đổi mới Đảng và nhà nước, mục tiêu xóa đói giảm nghèo luôn được đặt lên hàng đầu Điều này nhằm mang lại hiệu quả thiết thực cho người nghèo, ổn định thu nhập, nâng cao đời sống và tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu của họ Qua đó, đất nước tiến vào kỷ nguyên mới với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.
UBND huyện Sa Thầy và UBND xã Ya Tăng đã triển khai các chính sách hỗ trợ từ Đảng và Nhà nước nhằm giảm nghèo cho người dân, bao gồm Chương trình 135 và Giảm nghèo Tây Nguyên (GNTN) Họ cung cấp cây giống, con vật nuôi, và các vật tư như phân bón, vôi, và bồn nước Đồng thời, các lớp tập huấn về mô hình trồng cây và chăn nuôi, như trồng cà phê và nuôi bò, được tổ chức để giúp người dân cải thiện đời sống Những nỗ lực này không chỉ giảm tỷ lệ hộ nghèo mà còn tạo điều kiện cho các hộ gia đình vươn lên thoát nghèo và ngăn ngừa tái nghèo.
Tỷ lệ hộ nghèo tại xã vẫn còn cao, do đó, công tác xóa đói giảm nghèo là một vấn đề cấp thiết và nan giải Nhằm đáp ứng những khó khăn và nhu cầu bức thiết của người dân, tôi đã chọn đề tài này để tăng cường công tác xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống của cộng đồng.
“Thực trạng và giải pháp giảm nghèo tại Xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum” để làm chuyên đề báo cáo thực tập.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
+ Đánh giá thực trạng nghèo đói ở xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum
Nguyên nhân nghèo đói tại xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum chủ yếu do thiếu hụt nguồn lực, cơ sở hạ tầng kém phát triển và trình độ học vấn thấp Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo tại đây gặp nhiều khó khăn, với nhiều hộ gia đình vẫn sống dưới mức nghèo khổ và thiếu cơ hội tiếp cận các dịch vụ thiết yếu Để đạt được mục tiêu xóa đói giảm nghèo hiệu quả, cần đề xuất các biện pháp phù hợp như nâng cao trình độ giáo dục, phát triển nông nghiệp bền vững và cải thiện cơ sở hạ tầng, từ đó tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người dân.
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp như: Thu thập số liệu, tổng hợp, thống kê mô tả, phân tích, so sánh, đánh giá.
Kết cấu đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo
Chương 2 trình bày thực trạng giảm nghèo tại xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, nêu rõ các vấn đề và thách thức mà cộng đồng địa phương đang đối mặt Chương 3 đề xuất các giải pháp nhằm giảm nghèo hiệu quả trên địa bàn xã Ya Tăng, tập trung vào việc nâng cao nhận thức, cải thiện điều kiện sống và phát triển kinh tế bền vững cho người dân.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC
KHÁI NIỆM VỀ NGHÈO, CHUẨN NGHÈO VÀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN
1.1.1 Theo quan niệm của Quốc tế
Theo Ủy ban Kinh tế Xã hội khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP), nghèo đói là tình trạng mà một bộ phận dân cư không được đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người Những nhu cầu này được xã hội công nhận và phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong tục tập quán của từng địa phương.
Khái niệm nghèo đói có thể chia theo hai cách khác nhau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối
Nghèo tương đối là tình trạng không đáp ứng đầy đủ nhu cầu cuộc sống của con người, thể hiện qua việc ăn uống không ngon, quần áo không đẹp và nhà ở không khang trang Điều này cho thấy sự so sánh mức độ thỏa mãn nhu cầu sống giữa các cá nhân và các vùng miền khác nhau.
Trong các xã hội thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa trên hoàn cảnh xã hội của từng cá nhân Nghèo tương đối phản ánh sự thiếu hụt tiềm lực vật chất và phi vật chất của những người thuộc các tầng lớp xã hội nhất định so với mức độ sung túc chung của xã hội.
Nghèo tương đối có thể được hiểu theo hai cách: khách quan, khi sự nghèo đó không phụ thuộc vào cảm nhận cá nhân, và chủ quan, khi người trong cuộc cảm thấy nghèo dù có thể không có sự xác định khách quan Ngoài việc thiếu thốn vật chất, sự thiếu hụt tài nguyên phi vật chất, như văn hóa và sự tham gia vào đời sống xã hội, ngày càng trở nên quan trọng Các nhà xã hội học coi nghèo đó về văn hóa-xã hội, do thiếu hụt tài chính, là một thách thức nghiêm trọng đối với xã hội.
Nghèo tuyệt đối là tình trạng không đáp ứng được các nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người, như thiếu thức ăn đủ no, áo quần không đủ ấm, và nhà ở không an toàn trước thiên tai Những người sống trong nghèo tuyệt đối không chỉ so sánh với người khác mà còn không có đủ lượng calo cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày.
Hộ nghèo tuyệt đối là đối tượng chính của chương trình giảm nghèo, với mục tiêu tác động trực tiếp đến nhóm này Để đánh giá mức độ nghèo đói, chúng ta cần sử dụng chuẩn nghèo Ngân hàng Thế giới đã đưa ra khái niệm nghèo tuyệt đối, định nghĩa là "sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại" Những người nghèo tuyệt đối phải vật lộn để sinh tồn trong điều kiện thiếu thốn nghiêm trọng, thường xuyên đối mặt với sự bỏ bê và mất phẩm giá, điều này vượt xa sự tưởng tượng của những người may mắn trong xã hội.
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối phụ thuộc vào nhiều số liệu thống kê trong xã hội, thường được xác định là 50% hoặc 60% thu nhập trung bình Từ năm 2001, tại các nước EU, người ta coi là nghèo khi có thu nhập dưới 60% mức trung bình Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình cho rằng con số này không phản ánh đúng chuẩn mực sống Những người có thu nhập dưới 50% vẫn có thể bị coi là nghèo tương đối ngay cả khi thu nhập trung bình tăng gấp 10 lần Hơn nữa, sự thay đổi trong thu nhập của người giàu có thể làm giảm tỷ lệ nghèo tương đối, trong khi nghèo tương đối có thể gia tăng khi những người không nghèo tăng thu nhập mà không có sự thay đổi từ những người khác Các nhà phê bình cũng cho rằng ranh giới nghèo thường trộn lẫn với vấn đề phân bố thu nhập, vì thực tế không có sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu, dẫn đến việc khái niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng được sử dụng cho nghèo tương đối.
Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương pháp xác định ranh giới nghèo tuyệt đối đã được thiết lập vững chắc Ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán phức tạp thông qua việc xác định những giỏ hàng thiết yếu cần thiết để tham gia vào đời sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối không thể xác định nếu thiếu trị số tiêu chuẩn Việc lựa chọn con số phần trăm từ thu nhập trung bình và xác định giỏ hàng không thể giải thích bằng giá trị tự do, mà phụ thuộc vào các quá trình chính trị.
1.1.2 Quan niệm đói nghèo của Việt Nam
Nghèo là tình trạng mà một bộ phận dân cư chỉ đáp ứng được một phần các nhu cầu cơ bản của con người, dẫn đến mức sống chỉ đạt mức tối thiểu trong cộng đồng.
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuộc sống
XĐGN là chiến lược của Chính phủ Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề đói nghèo và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững Đói nghèo không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững mà còn là vấn đề xã hội nhạy cảm, đặc biệt đối với nhóm cộng đồng yếu thế Chính phủ cam kết cải cách và sửa đổi những khiếm khuyết trong thể chế kinh tế để giúp nhóm nghèo có cơ hội tự vươn lên, xoá bỏ đói nghèo.
Có hai quan niệm về nghèo đói, nhưng nhìn chung đều liên quan đến việc thỏa mãn nhu cầu của con người Bài viết này sẽ tập trung vào quan niệm nghèo đói của Việt Nam để đánh giá thực trạng nghèo đói tại địa phương.
1.1.3 Một số khái niệm liên quan
- Hộ Nghèo: Là những hộ có thu nhập bình quân đầu người trong hộ dưới ngưỡng đói nghèo
Theo quyết định số 1143/2005/QĐ-LĐTBXH ngày 01/11/2005 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, chuẩn nghèo giai đoạn 2005-2010 được xác định dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ gia đình, được quy định khác nhau cho từng vùng.
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 200.000 đồng/người/tháng
+ Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng
Những hộ có mức thu nhập bình quân đầu người dưới mức quy định nêu trên được xác nhận là hộ nghèo
Chuẩn nghèo không cố định mà thay đổi theo thời gian, dựa vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội Các địa phương có đủ điều kiện có thể nâng chuẩn nghèo để phù hợp với thực tế của mình.
+ Thu nhập bình quân đầu người cao hơn thu nhập bình quân của cả nước
+ Có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo trung bình của cả nước
+ Tự cân đối được ngân sách và tự giải quyết được các chính sách đói nghèo theo chuẩn nâng lên
Theo Quyết định số 587/2005/QĐ-LĐTBXH ngày 22/05/2002 của Bộ trưởng Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, xã nghèo được xác định dựa trên các tiêu chí cụ thể trong giai đoạn 2005-2010.
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên
+ Chua đủ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (Bao gồm đường giao thông, trường học, trạm y tế, điện sinh hoạt, nước sạch, chợ) Cụ thể là:
Dưới 30% số hộ sử dụng nước sạch
Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt
Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả năm
CÁCH XÁC ĐỊNH CHUẨN NGHÈO
1.2.1 Cách xác định chuẩn nghèo quốc tế
- Ngân hàng thế giới WB đưa ra cách xác định mức chuẩn nghèo đói như sau:
Nghèo lương thực thực phẩm đề cập đến tổng chi tiêu dành riêng cho lương thực thực phẩm, với mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng tối thiểu cho mỗi người, đạt khoảng 2100 kcal/ngày.
Nghèo chung được xác định dựa trên tổng chi tiêu cho giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, trong đó 70% chi phí dành cho lương thực thực phẩm và 30% cho các khoản chi tiêu khác.
Chuẩn nghèo toàn cầu hiện nay được xác định là thu nhập bình quân 1,25 USD/người/ngày (tương đương 600.000 đồng/người/tháng), trong khi chuẩn nghèo tại châu Á là 1,35 USD/người/ngày (650.000 đồng/người/tháng) Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện có khoảng 1,4 tỷ người, chiếm hơn 20% dân số toàn cầu, đang sống trong tình trạng nghèo khổ với mức thu nhập này.
1.2.2 Cách xác định chuẩn nghèo đói của việt nam
Có 3 căn cứ quan trọng để xác định chuẩn nghèo đói:
Nhu cầu tối thiểu của con người được xác định dựa trên mức chi tiêu cho lương thực và thực phẩm thiết yếu, nhằm duy trì cuộc sống với lượng calo tiêu thụ từ 2.100 đến 2.300 Kcal mỗi người mỗi ngày.
Dựa trên mức thu nhập bình quân đầu người mỗi tháng, bài viết sẽ tập trung đặc biệt vào thu nhập của nhóm 20% hộ gia đình có thu nhập thấp.
Dựa trên nguồn lực thực tế của quốc gia và từng địa phương, các mục tiêu của chương trình quốc gia xoá đói giảm nghèo cùng với chương trình cụ thể của từng địa phương được xác định nhằm thực hiện hiệu quả công tác xoá đói giảm nghèo.
Từ 3 căn cứ trên có thể cho thấy:
Chuẩn nghèo đói được xác định dựa vào điều kiện kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của từng quốc gia, địa phương, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng từ yếu tố chủ quan của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách.
+ Chuẩn nghèo phụ thuộc vào yếu tố khách quan và có một phần yếu tố chủ quan
Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp dụng cho giai đoạn 2016-2020
Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống
Khu vực nông thôn được định nghĩa là những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng mỗi tháng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Khu vực thành thị được xác định là những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 900.000 đồng đến 1.300.000 đồng mỗi tháng, đồng thời thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hộ có mức sống trung bình
- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng
- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng
Người dân có thu nhập bình quân từ 700.000 đồng đến 1.000.000 đồng mỗi tháng thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, với ít nhất 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt.
- Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
Có thu nhập bình quân đầu người từ 900.000 đến 1.300.000 đồng, nhưng vẫn thiếu hụt ít nhất ba chỉ số đo lường mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Để đánh giá tình trạng nghèo, cần hai quyết định quan trọng: (a) phương pháp đo lường phúc lợi qua thu nhập hoặc chi tiêu, và (b) xác định ngưỡng hoặc chuẩn nghèo phù hợp.
Hai vấn đề này đã trở thành chủ đề tranh cãi tại Việt Nam, thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu trong nước, nhà hoạch định chính sách và cộng đồng quốc tế.
Tổng cục Thống kê và Ngân hàng Thế giới áp dụng chi tiêu bình quân đầu người từ Khảo sát mức sống để xây dựng chuẩn nghèo theo phương pháp Chi phí cho Các Nhu cầu Cơ bản (CBN) Chuẩn nghèo này dựa trên hành vi tiêu dùng của người nghèo, bao gồm chi tiêu cho lương thực, thực phẩm và phi lương thực, thực phẩm Khoản chi tiêu cho lương thực được xác định dựa trên một rổ hàng hóa tham chiếu, điều chỉnh để đáp ứng nhu cầu calo cần thiết và được tính toán theo giá lương thực quốc gia Ngoài ra, một khoản bổ sung cho chi tiêu phi lương thực, thực phẩm như nhiên liệu, nhà ở, học hành, chăm sóc sức khỏe và quần áo cũng được tính dựa trên chi tiêu của các hộ gia đình có mức chi tiêu lương thực tương đương với chuẩn nghèo.
Việt Nam đã tiến hành hai cuộc Khảo sát mức sống vào những năm 90, cụ thể là Khảo sát Mức sống 1992-1993 và 1997-1998, nhờ vào sự hỗ trợ kỹ thuật đáng kể từ các đối tác quốc tế Sau đó, Việt Nam tiếp tục thực hiện một loạt các cuộc Khảo sát Mức sống Hộ Gia đình nhằm thu thập dữ liệu về điều kiện sống của người dân.
Các cuộc Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam được thực hiện vào các năm 2002, 2004, 2006 và 2008, sử dụng phương pháp tiếp cận tương tự như các khảo sát trước đó Thiết kế mô-đun về chi tiêu và thu nhập trong bảng câu hỏi được đảm bảo nhất quán, nhằm duy trì khả năng so sánh theo thời gian Điều này giúp tăng cường giá trị của dữ liệu nghèo ở Việt Nam, một trong những điểm mạnh lớn của nghiên cứu này.
NGUYÊN NHÂN DẤN ĐẾN ĐÓI NGHÈO
Đói nghèo là hệ quả của nhiều nguyên nhân khác nhau, và có nhiều yếu tố tác động đến tình trạng này Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến đói nghèo trong xã hội bao gồm: giáo dục, cơ hội việc làm, và chính sách phát triển kinh tế.
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp của huyện, với nhiều năm liên tiếp gặp phải tình trạng mất mùa, đặc biệt là vào năm 2005 khi một số xã mất trắng lúa nước Nguyên nhân không chỉ do biến đổi khí hậu phức tạp mà còn do con người, đặc biệt là việc thiếu ý thức trong bảo vệ rừng, dẫn đến lũ quét và lốc xoáy Sự tàn phá rừng làm cho môi trường tự nhiên không còn ổn định, gây giảm năng suất nông nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người nông dân Khi mất mùa, người nghèo càng rơi vào cảnh khốn khó, trong khi việc chuyển đổi canh tác gặp nhiều trở ngại do địa hình phức tạp và khí hậu khắc nghiệt Điều này góp phần duy trì tình trạng nghèo đói, một phần do điều kiện tự nhiên gây ra.
Yếu tố kinh tế- xã hội
Nền kinh tế non trẻ của huyện mới thành lập đang trong giai đoạn đầu ổn định, dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế và thu nhập so với các địa phương khác Để tạo ra nhiều cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho người dân, cần thời gian để phát triển từ nông nghiệp thuần tuý Khi kinh tế chưa ổn định, đời sống người dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, gây ra tình trạng thiếu việc làm và cơ sở vật chất, từ đó kìm hãm sự phát triển của con người và dẫn đến nghèo đói Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở xã Ya Tăng mà còn phổ biến ở huyện, tỉnh, và toàn quốc Đây là tác động của nền kinh tế-xã hội đối với tình hình đói nghèo, và tương lai sẽ phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế để xóa bỏ tình trạng này.
Công tác Xoá đói giảm nghèo tại huyện nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ nhân dân và các địa phương khác, thể hiện sự thống nhất trong nỗ lực này Tuy nhiên, với dân cư đa dạng, việc đạt được sự đồng thuận trong quan điểm không thể diễn ra nhanh chóng Hơn nữa, chính trị huyện còn non trẻ và bộ máy lãnh đạo chưa hoạt động hiệu quả, dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác Xoá đói giảm nghèo, khiến tình trạng nghèo đói vẫn còn tồn tại.
Do cơ chế, chính sách các cấp
Việc xây dựng chính sách dựa trên chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương để giải quyết vấn đề đói nghèo là một thách thức không hề đơn giản Mỗi chính sách đều có hai mặt, và trong quá trình thực hiện chương trình Xoá đói giảm nghèo, một số chính sách có thể gây ra tác động ngược, làm gia tăng tình trạng nghèo đói và gây hoang mang cho người dân Tuy nhiên, những tác động tiêu cực này thường không kéo dài Trong nhiều năm qua, xã đã nỗ lực thực hiện chương trình Quốc gia Xoá đói giảm nghèo và đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể Thực tế cho thấy tình trạng đói nghèo đang giảm dần và được kiểm soát tốt hơn.
Mặc dù đã có nhiều dự án và chương trình lớn nhằm giảm thiểu nạn nghèo đói, nhưng việc xóa bỏ hoàn toàn tình trạng này không chỉ phụ thuộc vào những nỗ lực bên ngoài Người nghèo cần tự quyết định cuộc sống của mình, nhưng thực tế cho thấy nhiều người vẫn có tâm lý chủ quan và trông chờ vào sự hỗ trợ từ bên ngoài, dẫn đến tình trạng ỷ lại Thiếu quyết tâm thoát nghèo là một trong những nguyên nhân chính khiến đói nghèo vẫn tồn tại Chỉ khi người nghèo nỗ lực và chủ động cải thiện cuộc sống của mình, họ mới có thể thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Nghèo đói là một vấn đề phức tạp không thể giải quyết nhanh chóng, và các yếu tố ảnh hưởng đến nó sẽ thay đổi tùy theo tình hình cụ thể của từng khu vực.
SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.4.1 Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo
Tăng trưởng kinh tế là yếu tố then chốt cho sự phát triển của mỗi quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc xóa bỏ nghèo đói và lạc hậu Nó không chỉ giúp cải thiện chất lượng cuộc sống mà còn nâng cao đời sống cho người dân.
Xoá đói giảm nghèo cần gắn liền với tăng trưởng kinh tế, vì chỉ có tăng trưởng mới tạo ra nguồn lực cần thiết cho công tác này Để đạt được mục tiêu này, các quốc gia phải đảm bảo sự công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp và vùng miền Nếu tăng trưởng kinh tế không chú trọng đến người nghèo, khoảng cách giàu nghèo sẽ gia tăng, trái với định hướng xã hội chủ nghĩa Cần phân bổ ngân sách hợp lý, tránh thiên lệch giữa tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo Tăng trưởng nhanh mà không hỗ trợ người nghèo sẽ khiến họ tụt lại phía sau, trong khi chỉ tập trung vào xoá đói giảm nghèo mà không phát triển kinh tế sẽ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn Do đó, việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo là vô cùng quan trọng.
Xoá đói giảm nghèo là yếu tố then chốt đảm bảo công bằng xã hội và thúc đẩy tăng trưởng bền vững Việc này không chỉ là trách nhiệm của chính phủ mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội và chính những người nghèo.
1.4.2 Ảnh hưởng của đói nghèo nghèo đến phát triển kinh tế-xã hội
Ảnh hưởng của đói nghèo đến phát triển kinh tế
Báo cáo tổng kết chương trình giảm nghèo ở Châu Á-Thái Bình Dương chỉ ra rằng cuộc sống nghèo khổ gây ra nhiều thất vọng, dẫn đến các hành động phá phách và phiền hà cho xã hội Nghèo đói buộc con người phải khai thác môi trường một cách bừa bãi, làm giảm khả năng sản xuất và gia tăng xung đột chính trị xã hội Những tác động này không chỉ phá hoại giá trị cơ bản của con người mà còn xói mòn hạnh phúc gia đình, tạo nên bi kịch cho nhiều gia đình và cộng đồng.
Nghèo đói gây ra nhiều tác động tiêu cực đến sự phát triển xã hội và con người, thể hiện qua những hệ lụy rõ ràng trong đời sống hàng ngày.
Thu nhập thấp ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống của con người, dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ em và giảm tuổi thọ ở người lớn Khi thu nhập hạn chế, chi tiêu cho giáo dục, y tế và các nhu cầu thiết yếu khác thường bị cắt giảm để ưu tiên cho lương thực và quần áo Thiếu chăm sóc y tế và giáo dục, cùng với việc thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em, sẽ làm gia tăng tỷ lệ sinh và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, cũng như ở các bà mẹ.
Tỷ lệ phát triển dân số cao tạo ra áp lực lớn về việc làm, trong khi lực lượng lao động mới gia nhập lại thiếu kiến thức và kỹ năng do hệ thống giáo dục và đào tạo kém Hệ quả là tình trạng thất nghiệp gia tăng và năng suất lao động thấp, dẫn đến thu nhập giảm và kéo theo vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Báo cáo Phát triển Thế giới năm 1992 chỉ ra rằng hơn 1 tỷ người đang sống trong nghèo đói, dẫn đến tình trạng này không chỉ duy trì mà còn gia tăng và ảnh hưởng đến môi trường và đạo đức xã hội Mức sống thấp và lối sống du canh của người dân miền núi đã góp phần vào việc tàn phá rừng Ở những khu vực không còn rừng, nghèo đói và thiếu việc làm khiến người dân di cư vào thành phố, khu công nghiệp và cửa khẩu biên giới để kiếm sống Sự di chuyển này ngày càng gia tăng, gây ra mất an ninh trật tự và lan rộng các tệ nạn xã hội, trong đó 70% tệ nạn ma túy và mại dâm tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh xuất phát từ nông thôn, với 79,2% do thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định.
Nghèo khổ không chỉ ảnh hưởng đến đời sống vật chất mà còn tác động tiêu cực đến tinh thần, làm suy yếu hệ thống giá trị của con người Tình trạng này giảm khả năng tham gia vào các hoạt động cộng đồng, dẫn đến thiếu niềm tin và hoài bão trong cuộc sống, đồng thời dễ bị chi phối bởi những ảnh hưởng tiêu cực.
Trách nhiệm toàn cầu là giảm thiểu nạn nghèo khổ, điều này không chỉ là mệnh lệnh đạo lý mà còn là yếu tố cần thiết để đảm bảo sự bền vững cho môi trường.
Ảnh hưởng của đói nghèo đến đời sống xã hội
Nghèo đói không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người nghèo mà còn tác động tiêu cực đến sự phát triển chung của xã hội Những hệ lụy từ nghèo đói có thể được thể hiện rõ qua sơ đồ mô tả tác động của nó đối với cá nhân và cộng đồng.
Sơ đồ 1.1: Ảnh hưởng của nghèo đói đến đời sống xã hội
Bệnh tật Gia tăng dân số
Môi trường sống Suy dinh dưỡng
Tệ nạn xã hội Thất học
Cản trở sự tăng trưởng kinh tế Kìm hãm sự phát triển con người
Bất bình đẳng xã hội Phá huỷ môi trường
(Nguồn: Tài liệu tập huấn Cán bộ Xoá đói giảm nghèo cấp huyện và xã- 2006)
Như vậy, muốn kinh tế phát triển được thì phải giải quyết được vấn đề nghèo đói
Xoá đói giảm nghèo là chính sách xã hội quan trọng nhằm phát triển con người, đặc biệt là người nghèo Chính sách này tạo cơ hội cho họ tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, giúp họ tiếp cận các dịch vụ xã hội và phát triển sản xuất, từ đó tự cải thiện cuộc sống và thoát khỏi nghèo đói.
1.4.3 Ý nghĩa của vấn đề xoá đói giảm nghèo
Đói nghèo có tác động tiêu cực lớn đến phát triển kinh tế xã hội và con người, do đó, việc xoá đói giảm nghèo là cần thiết và phải được duy trì lâu dài Thực hiện tốt công tác này không chỉ giúp người nghèo nâng cao thu nhập từ sức lao động của mình mà còn góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường Khi thu nhập tăng, người nghèo có thể chú trọng hơn đến sức khoẻ, đời sống văn hoá và giáo dục cho con cái.
Dân giàu thì nước mạnh, đây là chân lý lâu đời Việc nâng cao đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân, tạo sự công bằng và xoá bỏ khoảng cách giàu - nghèo là rất cần thiết Những nỗ lực này sẽ tạo ra hình ảnh mới cho đất nước và thực hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một xã hội mà ai cũng có cơm ăn áo mặc và được học hành.
KINH NGHIỆM GIẢM NGHÈO CỦA CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC
1.5.1 Kinh nghiệm giảm nghèo của một số nước trên thế giới
Kinh nghiệm giảm nghèo hiệu quả từ nhiều quốc gia cho thấy vai trò quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế-xã hội Những can thiệp vĩ mô cần thiết giúp xóa đói và giảm nghèo một cách bền vững Để đạt được điều này, Nhà nước cần có các giải pháp và chính sách kịp thời, đồng bộ, đồng thời đảm bảo các điều kiện cần thiết để thực thi.
Nhà nước cùng với các đoàn thể, tổ chức, hiệp hội doanh nghiệp và tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc xã hội hóa chương trình xóa đói giảm nghèo Sự phối hợp này tạo nên lực lượng tích cực tham gia vào quá trình cải thiện đời sống cộng đồng.
Thành công của Trung Quốc trong việc xóa đói giảm nghèo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với các biện pháp tạo việc làm ở nông thôn, mở rộng hệ thống dạy nghề, áp dụng công nghệ mới, cải thiện điều kiện làm việc và sống Phát triển công nghiệp nông thôn nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế thuần nông theo phương châm "Ly nông bất ly hương" Nhờ đó, mặc dù là quốc gia đông dân nhất thế giới, Trung Quốc lại có tỷ lệ người sống trong nghèo khổ thấp nhất, với 87 triệu người vào năm 1991 đã thoát khỏi đói nghèo, trong khi chỉ còn 27 triệu người sống ở mức bần cùng.
Inđônêxia, Malaysia và Thái Lan đang triển khai các chính sách phát triển nhằm loại trừ đói nghèo tại các vùng trọng điểm Kể từ những năm 70, Chính phủ Inđônêxia đã sử dụng phần lớn doanh thu từ khai thác dầu để thúc đẩy kinh tế và tập trung vào việc giảm nghèo ở khu vực Java.
Hiện nay, đất nước này đang nỗ lực giải quyết vấn đề đói nghèo ở các vùng khác nhau Kết quả đạt được rất khả quan, khi số lượng người nghèo đã giảm từ 70 triệu người (60% dân số) trong thập niên 70 xuống còn 27 triệu người (15% dân số) vào đầu thập niên 90.
Thái Lan đã kết hợp chính sách phát triển quốc gia với phát triển nông thôn thông qua việc hình thành các xí nghiệp ở vùng quê nghèo, phát triển doanh nghiệp nhỏ và mở rộng các trung tâm dạy nghề nhằm giảm nghèo Nhờ sự hoạt động hiệu quả của Ban phát triển nông thôn (IBIRD) và tổ chức hiệp hội dân số và phát triển cộng đồng (PDA), tỷ lệ người nghèo ở Thái Lan đã giảm từ 30% trong thập niên 80 xuống còn 23% vào năm 1990, tương đương với 13 triệu người.
Mỗi quốc gia đều có chiến lược riêng để xoá đói giảm nghèo, và việc xác định đúng những thuận lợi, khó khăn cũng như nguyên nhân chính là rất quan trọng Điều này sẽ giúp xây dựng các giải pháp phù hợp nhằm đạt được mục tiêu xoá đói giảm nghèo hiệu quả.
1.5.2 Kinh nghiệm giảm nghèo của một số địa phương trong nước
Đồng Nai là một trong những tỉnh thành công nhất trong chương trình xóa đói giảm nghèo, với nhiều bài học kinh nghiệm quý giá Theo Ban chỉ đạo giảm nghèo Chính phủ, các chính sách nổi bật của tỉnh bao gồm việc "đem cái chữ đến cho người nghèo", "gắn chế biến nông sản với vùng nguyên liệu" và "đưa ngân hàng về cơ sở", nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của người dân nông thôn và giảm thiểu tình trạng nghèo đói.
+ Dạy chữ, dạy nghề cho người nghèo
Trước khi triển khai giải pháp nâng cao dân trí cho người nghèo, tỉnh đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ thị nhằm xây dựng và kiên cố hóa trường lớp ở nông thôn và các vùng khó khăn Nhờ có nền tảng vững chắc và phong trào xã hội hóa giáo dục mạnh mẽ, ý thức của người dân, đặc biệt là nông dân, đã được nâng cao trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo Kết quả là, hiện nay hầu hết các em trong độ tuổi đi học đều được đến trường.
18 trở xuống đều có trình độ tốt nghiệp trung học cơ sở
Tỉnh chú trọng không chỉ vào việc dạy chữ mà còn vào dạy nghề để giúp người dân có việc làm và thu nhập ổn định, góp phần thoát nghèo bền vững Sở Lao động, Thương binh và Xã hội phối hợp với ngành giáo dục đã tổ chức nhiều khóa đào tạo nghề tại các doanh nghiệp và các xã vùng sâu, vùng xa, nhằm giúp người dân nghèo, có trình độ văn hóa chưa cao, học các ngành nghề phù hợp Hiện nay, tất cả các huyện, thị xã trong tỉnh đều có nhiều trường, lớp dạy nghề trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp Tỉnh cũng triển khai nhiều chương trình tài trợ và hỗ trợ dạy nghề cũng như giới thiệu việc làm cho con em đồng bào dân tộc, gia đình chính sách và bộ đội xuất ngũ Ước tính mỗi năm có hơn 1.000 học viên được đào tạo nghề miễn phí và tìm được việc làm với thu nhập ổn định.
+ Đưa ngân hàng, nhà máy về với nông thôn
Chương trình cung ứng vốn cho người nghèo tại Đồng Nai đã được triển khai từ năm 1994, và từ năm 2003, sự ra đời của ngân hàng chính sách xã hội đã mở rộng mạng lưới giao dịch không chỉ ở tỉnh và huyện mà còn đến các xã, giúp tiếp cận người dân dễ dàng hơn Ngân hàng đã liên kết với các tổ chức đoàn thể như Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, và Hội cựu chiến binh để tạo ra những kênh chuyển tải vốn nhanh chóng và kịp thời đến tay người vay, góp phần giải quyết một phần nhu cầu vốn cho người nghèo.
"ngân hàng thừa tiền, nông dân thiếu vốn"
Những bài học kinh nghiệm trong công tác xóa đói giảm nghèo tại Đồng Nai là rất quan trọng, góp phần vào thành công trong nỗ lực giảm nghèo của tỉnh.
- Kinh nghiệm giảm nghèo của xã Ya Tăng, huyện Sa Thầy
Từ khi thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia về Xoá đói giảm nghèo, huyện đã hỗ trợ trên 15.000 hộ nghèo vay vốn sản xuất với tổng số tiền hơn 60 tỷ đồng mỗi năm Các dự án vay vốn được tổ chức hiệu quả, góp phần tạo việc làm và hỗ trợ lẫn nhau giữa các tổ chức hội Nhờ vào việc sử dụng vốn hiệu quả, hầu hết các hộ đã hoàn trả nợ vay, với số hộ nợ quá hạn không nhiều.
Để hỗ trợ hộ nghèo thiếu đất sản xuất, nhiều biện pháp đã được triển khai, bao gồm tập huấn kiến thức sản xuất cho hơn 20.000 lượt người nghèo thông qua các mô hình tiên tiến và chuyển giao khoa học kỹ thuật Hơn 10.000 hộ đã áp dụng giống mới và kỹ thuật canh tác hiện đại trong chăn nuôi và trồng trọt Chính sách trợ giá cho giống mới như lúa, ngô đã giúp cải thiện sản xuất, trong khi trợ giá cho các sản phẩm thiết yếu như muối, dầu hoả, phân bón lên tới 3 tỷ đồng trong 5 năm Huyện cũng đã cấp 30.000 thẻ KCB cho người nghèo, với trên 15.000 lượt được khám chữa bệnh miễn phí hàng năm Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đạt 95,4% Huyện đã tiếp nhận hỗ trợ cho 535 hộ di dân và tổ chức 12 lớp tập huấn nâng cao năng lực cho trưởng thôn cùng hàng năm tập huấn cho cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo tại 34 xã, thị trấn.
Thực hiện cuộc vận động toàn dân hỗ trợ giúp đỡ hộ nghèo về nhà ở, trong 2 năm
Từ năm 2004 đến 2005, chương trình đã xây dựng 1.290 ngôi nhà cho hộ nghèo, giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 18,08%, tương đương 2.775 hộ thoát nghèo, trong khi 156 hộ vẫn còn nghèo Đến cuối năm 2005, còn 15% hộ nghèo, tức 2.630 hộ, đạt 100% kế hoạch đề ra Thành công này có được nhờ sự lãnh đạo và chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, HĐND, UBND, MTTQ và các đoàn thể, cùng với nỗ lực của các ban chỉ đạo, tập thể và cá nhân trong các phòng ban ngành Các xã như Minh Thọ, thị trấn Chuối, xã Vạn Hòa, xã Thăng Long đã góp phần quan trọng vào việc giảm tỷ lệ hộ nghèo, trong đó Hội Nông dân, Phòng Nông nghiệp và Phòng Nội vụ - LĐTB&XH là những đơn vị tiêu biểu xuất sắc.
TỔNG QUAN VỀ XÃ YA TĂNG
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ya Tăng
Xã Ya Tăng, thuộc huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, được thành lập vào năm 2003 theo Nghị định 80/2003/NĐ-CP của chính phủ Xã có tổng diện tích tự nhiên là 18.563,14 ha, được hình thành từ việc chia tách hai xã của thị xã Sa Thầy Ya Tăng gồm ba thôn làng, với tổng dân số là 402 hộ và 397 khẩu, trong đó có 9,20% dân số theo hai tôn giáo chính là Thiên Chúa giáo và Tin Lành, với 159 hộ và 557 nhân khẩu.
Trên địa bàn xã hiện này có 01 trạm y tế, 02 trường Mầm non Vàng Anh, 02 trường Tiểu học và THCS Trần Hưng Đạo
Gần 100% người dân trong khu vực tham gia sản xuất nông nghiệp thủ công, với các loại cây trồng chủ yếu như bắp nếp, bắp lai, mỳ cao sản, mỳ địa phương, lúa nước, lúa rẩy và một số hoa màu khác Hiện tại, người dân đang chuyển đổi cơ cấu cây trồng và đầu tư vào trồng rừng (như keo, bạch đàn) nhằm tăng thu nhập Thu nhập bình quân đầu người hiện đạt khoảng 25,59 triệu đồng mỗi năm.
Khi mới thành lập, xã gặp nhiều khó khăn trong giao thông, ảnh hưởng đến hoạt động giao thương và kinh tế của người dân Tuy nhiên, nhờ sự đầu tư của Đảng và Nhà nước, hệ thống đường giao thông đã được bê tông hóa đến tận các thôn, làng, giúp việc mua bán trở nên thuận lợi hơn Điều này đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong xã.
Tọa độ địa lý: - Kinh độ Đông: 170 0 45’58”
- Vĩ độ Bắc: 14 0 16’33’’ a Vị trí địa lý
- Phía Bắc giáp xã Ya Xiêr
- Phía Nam giáp xã Ya Kreng (Tỉnh Gia Lai)
- Phía Đông giáp xã Ya Ly
- Phía Tây giáp xã Mô Rai b Địa hình
- Xã Ya Tăng có 3 dạng địa hình chính: Địa hình núi dốc, địa hình gò đồi trung bình và địa hình thấp thung lũng hẹp
- Địa hình của xã chủ yếu là địa hình núi cao, chiếm hơn 91% tổng diện tích tự nhiên Đỉnh cao nhất là đỉnh Cư Pu, cao 1100m ở phía Tây bắc
Xã có khoảng 9% diện tích địa hình bằng phẳng ở phía Đông giáp lòng hồ trữ nước YaLy, với hướng Đông dốc đứng đến suối Ya Xiêr Khu vực này tạo thành một vùng bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất lúa và rau màu, góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp địa phương.
Khí hậu xã mang những đặc điểm của tiểu khí hậu núi cao và cao nguyên, có mùa đông ít mưa, mùa hè nắng nóng mưa nhiều
- Nhiệt độ: Trung bình năm từ 20,00-23,00 0 C, tổng nhiệt độ trung bình năm trên
Tháng 4 là tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất, đạt 32,5°C Trong khi đó, tháng 1 và tháng 2 là thời gian lạnh nhất trong mùa đông, với nhiệt độ trung bình chỉ khoảng 15°C Sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm trong thời gian này cũng rất lớn.
- Chế độ mưa: Tổng lượng mưa trung bình năm đạt khoảng 2.000 đến 2.100 mm, phân bố không đồng đều Mưa được chia thành 2 mùa rõ rệt
+ Mùa mưa: bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào tháng 10, chiếm 90% tổng lượng mưa cả năm Mưa cực đại vào các tháng 7-9
Mùa khô tại khu vực bắt đầu từ tháng 11 và kéo dài đến tháng 4 năm sau, với lượng mưa chỉ chiếm khoảng 10% tổng lượng mưa cả năm Thời gian này, gió mùa Đông Bắc thổi mạnh, làm gia tăng tình trạng khô hạn và dẫn đến thiếu nước, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp.
Chế độ ẩm ở khu vực này rất cao, với độ ẩm trung bình hàng năm đạt 85% Độ ẩm không chênh lệch nhiều giữa các tháng, với tháng 8 có độ ẩm cao nhất lên đến 90% và tháng 3 là tháng có độ ẩm thấp nhất, chỉ đạt 73%.
Lượng bốc hơi trung bình hàng năm đạt khoảng 1000 mm, với cao điểm vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, tổng lượng bốc hơi trong giai đoạn này khoảng 500 mm, tương ứng với mức trung bình từ 90-100 mm/tháng Dựa trên các số liệu này, có thể nhận thấy rằng khu vực này có mức độ khô hạn nhẹ hơn so với các khu vực khác trong huyện.
- Gió: Hướng gió thịnh hành thay đổi theo mùa theo 2 hướng chính:
+ Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 xuất hiện gió đông Bắc, tốc độ gió trung bình từ 3,5 - 5,4 m/s
+ Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 xuất hiện gió Tây và Tây Nam tốc độ gió trung bình từ 1,2 - 2,5 m/s d Thuỷ văn
Khu vực này có lượng mưa hàng năm cao từ 2.200 đến 2.600 mm và địa hình đa dạng với hệ thống sông suối phân bố đều Trong xã, suối Đăk Mun và suối Đăk Del chảy dọc theo phía tây, cung cấp nguồn nước quý giá Hồ trữ nước thủy điện Ya Ly, nằm ở cao trình 515m, là nguồn nước chính phục vụ nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Trên địa bàn xã Ya Tăng có những loại đất chình như là:
- Đất phù sa suối (Py): Tập trung ở phía Đông Bắc của xã Loại đất này có tầng dày
Đất có độ sâu 100cm, với hàm lượng mùn giàu 2,5%, carbon 1,45%, P2O5 0,07%, và độ pH từ 4-5% Thành phần cơ giới là 40,5% đất sét và 82,3% thịt đất, tạo điều kiện lý tưởng cho việc trồng cây lương thực và cây hàng năm.
- Đất đỏ vàng trên đá Gơ nai (Fs): Phân bố ở các độ cao và triền dốc, đất có tầng dày
>100cm, hàm lượng dinh dưỡng cao, mùn 2,735; C 1,6%; P2O5 0,05%, mùn tổng số 0,8% Nhìn chung loại đất này ít có khả năng trồng trọt
Đất đỏ vàng trên đá Mác ma axít (Fa) phân bố đồng đều trên các cấp địa hình, có tầng dày trên 100 cm và chứa hàm lượng dinh dưỡng cao với mùn 2,73%, carbon 1,75%, P2O5 0,19% Thành phần cơ giới của đất này nhẹ, bao gồm 56,42% cát, 10,78% thịt và 32,54% sét Loại đất này rất thích hợp cho việc trồng cây hàng năm và cây ăn quả, đặc biệt là ở những khu vực có đủ nước để trồng lúa.
- Đất đỏ vàng trên đá cát (Fg): Phân bố hầu hết trên các cấp địa hình, đất có tầng dày
> 100cm, hàm lượng C: 1,82%, P2O5:0,24%, thành phần cơ giới nhẹ, cát: 62,41%, thịt: 9,78%, sét: 27,81% Loại đất này thích hợp cho trồng cây ăn quả và trồng màu
Nguồn nước mặt tại xã rất phong phú với suối Đăk Mun và suối Đăk Del chảy dọc theo phía tây, cùng với hồ trữ nước thủy điện Ya Ly ở cao trình 515m Sự đa dạng này tạo lợi thế lớn cho sản xuất nông nghiệp trong khu vực.
Nguồn nước ngầm tại địa phương được khai thác từ các giếng khơi của hộ nông dân, với độ sâu từ 7-10 m Trong mùa khô, lưu lượng nước đạt từ 3-4m/h, chất lượng nước tốt, có thể sử dụng trực tiếp cho nhu cầu ăn uống và đáp ứng đủ nước sinh hoạt cho cư dân trong xã.
Xã đã được đầu tư xây dựng hệ thống nước tự chảy, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho phần lớn hộ dân trong làng.
Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2020 tổng diện tích đất lâm nghiệp toàn xã hơn 5 nghìn ha, chiếm 30,4 % tổng diện tích đất tự nhiên
Để bảo vệ tài nguyên đất lâm nghiệp, cần tuyên truyền cho người dân về việc khai thác rừng hợp lý Đồng thời, cần đẩy mạnh cải tạo và trồng mới rừng, kết hợp với các biện pháp hỗ trợ như bảo vệ rừng và ưu tiên các dự án cải thiện điều kiện sản xuất, nhằm nâng cao đời sống của cộng đồng.
* Tài nguyên về khoáng sản:
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO TẠI XÃ YA TĂNG HUYỆN SA THẦY TỈNH
2.2.1 Tổng số hộ nghèo và cận nghèo của xã Ya Tăng giai đoạn 2018 – 2020 Đến nay toàn xã không còn hộ đói, tuy nhiên, trên thực tế số hộ nghèo của xã Ya Tăng chiếm tỷ lệ vẫn còn cao so với mặt bằng chung của toàn huyện, cụ thể:
Bảng 2.6 Số hộ nghèo, cận nghèo tại xã so với tỉnh Kon Tum giai đoạn 2018 – 2020 Năm
Hộ nghèo Hộ cận nghèo
Báo cáo số 300/BC-UBND ngày 18/11/2020 cung cấp thông tin về các chỉ tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn 2018 – 2020 của UBND xã Ya Tăng Nội dung báo cáo được xây dựng dựa trên số liệu từ Tổng cục Thống kê và kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo do Uỷ ban nhân dân tỉnh Kon Tum phê duyệt.
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ thể hiện biến động số hộ nghèo, cận nghèo xã Ya Tăng giai đoạn 2018 – 2020
Nguồn: Báo cáo số 300/BC-UBND, ngày 18/11/2019 về một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội giai đoạn năm 2018 – 2020 của UBND xã Ya Tăng
Kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo, cận nghèo cuối năm 2019 trên địa bàn xã như sau:
Tổng số hộ nghèo trong xã là 77 hộ, chiếm 16,45% tổng số hộ dân Trong đó, 77 hộ nghèo thuộc dân tộc thiểu số chiếm 17,1% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số trong xã.
Trong xã, có 29 hộ cận nghèo, chiếm 6,19% tổng số hộ dân Trong số đó, tất cả 29 hộ đều là hộ nghèo dân tộc thiểu số, chiếm 6,46% tổng số hộ dân tộc thiểu số trong xã.
Hộ nghèo đa chiều theo các chỉ số thiếu hụt dịch vụ xã hội cơ bản chiếm 64% tổng số hộ dân trong xã, với 50 hộ thuộc diện này.
Hộ nghèo và hộ cận nghèo thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là trong cộng đồng dân tộc thiểu số, nơi mà tỷ lệ này lên tới 80% so với tổng số hộ dân tộc thiểu số trong xã.
Bảng 2.7: Tình hình hộ nghèo tại xã Ya Tăng giai đoạn 2018 – 2020
Nguồn: phiếu điều tra, rà soát hộ nghèo qua các năm của UBND xã
Theo bảng số liệu, tỷ lệ hộ nghèo của xã Ya Tăng đã giảm hàng năm, tuy mức giảm không cao Nguyên nhân chủ yếu là do người dân chưa theo kịp nền kinh tế thị trường, dẫn đến tình trạng tụt hậu Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo có xu hướng giảm, nhưng tỷ lệ hộ tái nghèo hàng năm vẫn ở mức cao.
Để thực hiện thành công Nghị Quyết Đại hội Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015-2020, xã Ya Tăng cần giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5% vào năm 2020, điều này đặt ra nhiều thách thức Xã cần triển khai các chính sách mạnh mẽ và đầu tư hợp lý, đồng thời tận dụng sự hỗ trợ từ các cấp, các ngành, đặc biệt là trong công tác giảm nghèo cho đồng bào dân tộc Ban XĐGN của xã cần kịp thời tham mưu cho Đảng ủy và UBND xã xây dựng kế hoạch và giải pháp cụ thể, tập trung vào những vấn đề trọng tâm để đạt hiệu quả cao trong công tác giảm nghèo bền vững.
2.2.2 Số hộ nghèo và cận nghèo của xã Ya Tăng phân theo thôn – làng
Xã Ya Tăng, thuộc huyện Sa Thầy, là một địa phương nghèo với hơn 80% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số Điều kiện sống và cơ sở hạ tầng tại đây còn nhiều thiếu thốn, khiến giao thông trở nên khó khăn Người dân chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp và làm thuê, dẫn đến cuộc sống bấp bênh Sự phát triển kinh tế hạn chế khiến người giàu không có cơ hội để gia tăng tài sản, trong khi người nghèo lại rơi vào cảnh khốn cùng.
Theo kết quả điều tra tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo chung trên địa bàn toàn xã giai đoạn
2018 - 2020 được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.8 Hộ nghèo, cận nghèo của các thôn làng qua 3 năm
Số hộ nghèo, cận nghèo qua các năm
Nguồn: Tổng hợp số liệu phiếu điều tra, rà soát hộ nghèo qua các năm của UBND xã
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ thể hiện biến động số hộ nghèo giữa các thôn giai đoạn
Nguồn: Tổng hợp số liệu phiếu điều tra, rà soát hộ nghèo qua các năm của UBND xã Ya Tăng
Trong giai đoạn 2018 - 2020, số hộ nghèo tại các thôn của xã có xu hướng giảm nhưng không đồng đều Tỷ lệ phân bố hộ nghèo và cận nghèo giữa các thôn cũng cho thấy sự không đồng đều Mặc dù tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm, nhưng mức giảm vẫn còn chậm.
Làng Trấp hiện đang có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất so với các thôn khác, với 62 hộ nghèo vào năm 2018, chiếm 55,3% Đến năm 2020, con số này đã giảm xuống còn 49 hộ, nhưng tỷ lệ lại tăng lên 63,6%.
Làng Điệp Lốk có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với Làng Lút, với 31 hộ nghèo vào năm 2018, chiếm 27,6% tổng số hộ Đến năm 2020, số hộ nghèo giảm xuống còn 20 hộ, tương ứng với tỷ lệ 25,9%, cho thấy sự cải thiện đáng kể trong điều kiện sống của người dân nơi đây.
- Làng Lút có số hộ nghèo thấp nhất so với làng Trấp và làng Điệp Lốk, năm 2018 có
19 hộ nghèo chiếm 16,9% tỷ lệ hộ nghèo của xã, năm 2020 giảm còn 8 hộ nghèo chiếm 10,3% (giảm 11 hộ)
Làng Lút Làng Điệp Lốk Làng Trấp
Bảng 2.9: Kết quả thoát hộ nghèo, hộ cận nghèo giữa các thôn giai đoạn 2018 – 2020
Nguồn: Báo cáo số 114/BC-UBND kết quả thực hiện đề án giảm nghèo giai đoạn 2018 –
Năm 2020, có 30 hộ gia đình thoát nghèo, đạt tỷ lệ giảm 6,41% Bên cạnh đó, 8 hộ gia đình cận nghèo cũng đã thoát khỏi tình trạng này, tương ứng với tỷ lệ giảm 1,23%.
Biểu đồ 2.3: Biểu đồ thể hiện biến động số hộ thoát nghèo giữa các thôn giai đoạn 2018 – 2020
Nguồn: Báo cáo số 114/BC-UBND kết quả thực hiện đề án giảm nghèo giai đoạn 2018 –
Làng Lút Làng Điệp Lốk Làng Trấp
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ hể hiện biến động số hộ thoát cận nghèo giữa các thôn giai đoạn 2018 – 2020
Nguồn: Báo cáo số 114/BC-UBND kết quả thực hiện đề án giảm nghèo giai đoạn
Nhìn bảng số liệu kết hợp 2 biểu đồ trên, ta thấy số hộ thoát nghèo, cận nghèo giữa các thôn trên địa bàn xã được cải thiện rõ rệt
- Năm 2017 kết quả thoát nghèo, cận nghèo cao nhất cụ thể là 15 hộ thoát nghèo, 10 hộ thoát cận nghèo Năm 2020 có 30 hộ thoát nghèo, 8 hộ thoát cận nghèo
- Tính đến năm 2020, thôn làng Trấp có số hộ thoát nghèo cao nhất (14 hộ)
- Năm 2020 thôn làng Trấp có số hộ thoát cận nghèo cao nhất (4 hộ), thấp nhất là thôn làng Lút (1 hộ)
Trong những năm qua, hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội đã được cải thiện đáng kể, giúp người nghèo tiếp cận đầy đủ các hỗ trợ từ Nhà nước Nhiều chính sách như hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở và cho vay tín dụng ưu đãi đã phát huy hiệu quả và nhận được sự đồng tình của người dân Các chính sách dành cho dân tộc thiểu số được triển khai đồng bộ, góp phần nâng cao dân trí, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần, đồng thời bảo tồn văn hóa truyền thống của các dân tộc, đảm bảo người nghèo được tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe cơ bản.
NGUYÊN NHÂN ĐÓI NGHÈO
Điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, với đất đai canh tác hạn chế và mùa khô thiếu nước, đã gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt hàng ngày, khiến nhiều hộ chỉ sản xuất một vụ lúa Bên cạnh đó, dịch bệnh trên cây trồng và vật nuôi diễn biến phức tạp, cùng với phong tục sản xuất lạc hậu, đã ảnh hưởng tiêu cực đến thu nhập của các hộ gia đình Đa số đồng bào dân tộc thiểu số cư trú ở vùng núi và cao nguyên với địa hình phức tạp, đất đai canh tác và đất ở ít ỏi Tập quán du canh du cư vẫn tồn tại trong một bộ phận người dân tộc thiểu số, dẫn đến sự thiếu quan tâm đến việc kiên cố hóa nhà ở.
Làng Lút, Làng Điệp Lốk và Làng Trấp đang hướng tới việc ổn định cuộc sống lâu dài Tuy nhiên, sự thiếu hiểu biết về chính sách đất đai khiến người dân tộc thiểu số, đặc biệt là những người nghèo, dễ gặp bất lợi trong các tranh chấp đất đai.
Tỷ lệ giảm nghèo chậm do số nhân khẩu trong hộ nghèo cao hơn hộ không nghèo Phần lớn hộ nghèo là người dân tộc thiểu số, dẫn đến sự chênh lệch về trình độ giáo dục, chi tiêu, mức sống và thu nhập so với người Kinh trong xã.
Hộ nghèo thường có từ 1 đến 2 thành viên, trong đó trẻ em, người cao tuổi và các đối tượng bảo trợ xã hội chiếm tỷ lệ lớn Người trong độ tuổi lao động thường có việc làm không ổn định, thiếu kỹ năng nghề nghiệp, chủ yếu làm thuê trong lĩnh vực nông nghiệp.
Chất lượng lao động của các hộ nghèo tại xã Ya Tăng còn hạn chế so với hộ không nghèo, theo báo cáo số 203/BC-UBND năm 2020 Cụ thể, chỉ có 11% lao động được đào tạo, trong khi 68% chủ hộ vẫn mù chữ hoặc chưa hoàn thành cấp 2.
Hầu hết các hộ nghèo thường có nhiều thành viên nhưng lại thiếu lao động chính, dẫn đến tình trạng phụ thuộc và chi tiêu cao Thu nhập không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày, khiến cho con cái không có tiền để đi học, từ đó tỷ lệ học hành của người nghèo rất thấp.
Sự chênh lệch về nguồn lực đất đai giữa hộ nghèo và hộ không nghèo trong xã ĐBDTTS là khá lớn, với hộ nghèo thường phải thuê thêm đất sản xuất do không đủ vốn mua đất Tình trạng này exacerbated bởi phong tục chia đất khi con cháu lập gia đình, dẫn đến diện tích đất ngày càng giảm Nhóm ĐBDTTS có tỷ lệ nghèo cao và giảm nghèo chậm do tỷ lệ hôn nhân cận huyết, tỷ lệ tảo hôn cao và số năm đi học thấp Điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn cùng với cơ sở hạ tầng chưa phát triển và việc tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều bất cập cũng góp phần vào tình trạng này.
Hộ gia đình nghèo thường thiếu kiến thức và kinh nghiệm sản xuất, có nhiều con cái, thiếu sức lao động và tư liệu sản xuất, đồng thời sử dụng vốn không hiệu quả Ngoài ra, một số hộ còn có người mắc bệnh hiểm nghèo và tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng.
Nhiều chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo và cận nghèo có thể dẫn đến việc mất động lực phát triển kinh tế, gây ra tâm lý trông chờ và phụ thuộc, khiến một bộ phận hộ nghèo không muốn thoát nghèo.
Công tác tuyên truyền vận động, tư vấn nghề nghiệp cho người lao động, hộ gia đình nghèo chưa hiệu quả
Việc huy động nguồn lực để phát triển kinh tế và giảm nghèo còn gặp nhiều khó khăn, với sự lồng ghép giữa các chương trình chưa đạt yêu cầu Ngoài ra, kinh phí đầu tư cho các mục tiêu giảm nghèo vẫn còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thoát nghèo chưa được thực hiện thường xuyên Nhiều người nghèo vẫn chưa nhận thức đúng đắn và còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ Nhà nước, chưa phát huy tính chủ động trong việc cải thiện cuộc sống của mình.
2.4 NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG VIỆC NÂNG CAO THU NHẬP CỦA NGƯỜI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ YA TĂNG
Hộ dân tộc thiểu số thường sinh sống ở những vùng địa hình phức tạp, với nhiều núi cao và diện tích đất nông nghiệp hạn chế Sự phân bố đất đai không đồng đều gây khó khăn cho việc tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên canh, dẫn đến sản phẩm sản xuất ra không đạt quy mô lớn và khó tiêu thụ Kết quả là lợi nhuận thấp và thu nhập không đủ bù đắp chi phí sản xuất.
Tỷ lệ di cư khỏi nơi sinh sống của người đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn thấp, chủ yếu do thói quen sống tập trung theo thôn, làng Cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp hạn chế, phần lớn là do chất lượng nguồn nhân lực chưa cao và điều kiện cơ sở vật chất khó khăn Ngoài ra, địa bàn cư trú xa xôi, chia cách và hệ thống giao thông kém phát triển cũng làm giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Hầu hết các hộ nghèo thiếu trình độ chuyên môn và kỹ thuật, dẫn đến việc chậm tiếp cận với khoa học công nghệ Nhiều đồng bào dân tộc thiểu số vẫn duy trì các phong tục tập quán lạc hậu, ảnh hưởng đến trình độ canh tác Các hộ nghèo thường gặp khó khăn về lao động, thiếu vốn và đất sản xuất, bên cạnh đó còn có tình trạng lười lao động, không có tay nghề, hoặc không biết cách làm ăn Thêm vào đó, nhiều người trong hộ còn phải đối mặt với bệnh tật nặng hoặc mắc phải các tệ nạn xã hội.
Hiện nay, nhiều người nghèo đang được hưởng các chính sách hỗ trợ trực tiếp như bảo hiểm y tế, giáo dục và nhà ở, tuy nhiên, điều này dẫn đến tâm lý ỷ lại và trông chờ vào sự hỗ trợ từ nhà nước Đặc biệt, có nhiều hộ gia đình không có khả năng thoát nghèo do hoàn cảnh khó khăn như người già yếu, cô đơn, không có con cháu, người tàn tật nặng và người tâm thần.
CÁC DỰ ÁN, CHÍNH SÁCH, CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ GIẢM NGHÈO TẠI XÃ YA TĂNG
Theo Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020, UBND xã Ya Tăng đã triển khai nhiều dự án, chính sách và chương trình hỗ trợ nhằm giảm nghèo hiệu quả.
2.5.1 Chính sách hỗ trợ vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất
UBND xã phối hợp với các Hội đoàn thể để rà soát và lập danh sách hộ nghèo, cận nghèo, và hộ mới thoát nghèo có nhu cầu vay vốn Họ đã đề nghị NHCSXH huyện cho vay nhằm phát triển sản xuất Từ năm 2016 đến nay, hoạt động này đã được triển khai một cách cụ thể và hiệu quả.
- Chương trình cho vay hộ nghèo: với 73 lượt hộ nghèo được vay vốn; với tổng dư nợ đến 10/12/2020 đạt 8.654.666.000 đồng
- Chương trình cho vay hộ cận nghèo: với tổng dư nợ đến 10/12/2020 đạt 2.651.100.000đồng, với 32 hộ còn dư nợ
- Chương trình cho vay hộ mới thoát nghèo: Tổng dư nợ đến 10/12/2020 đạt 810.171.000 đồng, với 25 hộ còn dư nợ
- Chương trình cho vay giải quyết việc làm: Tổng dư nợ đến 10/12/2020 đạt 1.500.000 đồng, với 40 hộ còn dư nợ
Năm 2018, UBND xã đã tiếp nhận 19 con bò từ Đề án 580 của UBND huyện, nhằm hỗ trợ các hộ nghèo, hộ khuyết tật và trẻ mồ côi trên địa bàn.
- Hiện tại trên địa bàn còn có 01 mô hình tổ liên kết phụ nữ dân tộc thiểu số nghèo cùng nhau phát triển kinh tế vươn lên thoát nghèo
Nguồn vốn hiện tại chỉ đáp ứng một phần nhu cầu vay, khiến cho nhiều người nghèo khó khăn trong việc tiếp cận tài chính, dẫn đến hiệu quả công tác xóa đói giảm nghèo chưa được tối ưu Tuy nhiên, những hộ gia đình được tiếp cận nguồn vốn vay đã có sự cải thiện rõ rệt trong đời sống, với khả năng đầu tư cho sản xuất và nâng cao thu nhập, từ đó giúp họ thoát nghèo và cải thiện chất lượng cuộc sống.
Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận nguồn vốn vay hiện nay còn thấp, vì vậy cần có các chính sách hỗ trợ từ chính quyền để giúp họ dễ dàng tiếp cận vốn phục vụ sản xuất và cải thiện đời sống Ngoài ra, việc tăng số tiền vay và kéo dài thời gian vay sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hộ nghèo yên tâm sản xuất.
2.5.2 Chính sách hỗ trợ về giáo dục
Chính quyền đã thực hiện chính sách miễn học phí và hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh, đồng thời cung cấp hỗ trợ ăn trưa cho học sinh mầm non, với tổng số tiền hỗ trợ lên đến 340.244.500 đồng.
Chính sách miễn, giảm học phí cho học sinh đã được triển khai, với tổng số tiền lên tới 57.005.000 đồng Bên cạnh đó, hỗ trợ chi phí học tập cho học sinh đạt 174.130.000 đồng, và khoản tiền ăn trưa cho học sinh mầm non cùng học sinh bán trú tại xã là 370.266.000 đồng.
- Chính sách cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: Tổng dư nợ đến 31/3/2020 đạt 60.000.000 đồng, với 6 hộ vay vốn
Trong những năm qua, Chính phủ đã triển khai chính sách miễn, giảm học phí và các hỗ trợ khác nhằm giúp học sinh, sinh viên từ hộ nghèo có điều kiện học tập tốt hơn Chính sách này không chỉ giảm bớt khó khăn cho các gia đình mà còn nâng cao tỷ lệ đi học chuyên cần ở các thôn, làng khó khăn, từ đó góp phần cải thiện chất lượng giáo dục tại địa phương.
2.5.3 Các chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
- Tình hình cấp, phát thẻ BHYT (tháng 1/2020): Thực hiện cấp phát Thẻ hộ nghèo:
Trên địa bàn xã, công tác lập danh sách và cấp phát thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) đã được triển khai hiệu quả, với tổng số 58 thẻ, trong đó có 200 thẻ cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số, 10 thẻ cho hộ người Kinh, và 40 thẻ cho trẻ em dưới 6 tuổi Việc cấp phát thẻ BHYT kịp thời đã hỗ trợ công tác khám chữa bệnh cho các đối tượng thụ hưởng.
- Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo được hỗ trợ 100% từ ngân sách TW và địa phương
Trạm y tế xã được chỉ đạo tăng cường công tác khám chữa bệnh, đặc biệt chú trọng đến hộ nghèo và hộ cận nghèo Đồng thời, thực hiện chính sách miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho các đối tượng này theo quy định hiện hành.
Công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người nghèo đã có nhiều chuyển biến tích cực, với chất lượng dịch vụ từng bước được nâng cao Tuy nhiên, việc cung cấp dịch vụ y tế tại cơ sở vẫn còn hạn chế, và chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng đủ nhu cầu khám chữa bệnh Bên cạnh đó, nhận thức của người nghèo về việc chăm sóc sức khỏe cho bản thân vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
2.5.4 Hỗ trợ về nhà ở, tiền điện, trợ cấp khó khăn cho hộ nghèo
Từ năm 2016 đến đầu năm 2020, chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và hộ gia đình chính sách đã chi tổng cộng 250.360.852.000 đồng Chính sách này không chỉ giúp cải thiện đời sống sinh hoạt của hộ nghèo mà còn tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời đảm bảo các mục tiêu về giáo dục và y tế.
Trong năm qua, đã có 77 hộ nghèo được hỗ trợ, với 100% người nghèo nhận tiền trợ cấp khó khăn theo quyết định 471/2011/QĐ-TTg, tổng số tiền hỗ trợ lên đến 67.500.000 đồng.
Theo Quyết định số 167/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, trong giai đoạn 2011 - 2015, đã xây dựng 19 căn nhà cho hộ nghèo với tổng kinh phí 950.300.000 đồng (50 triệu đồng mỗi căn) thông qua chương trình nhà Đại đoàn kết và Đền ơn đáp nghĩa.
- Năm 2018 huyện Sa Thầy hỗ trợ 01 căn nhà từ nguồn “quỹ vì người nghèo” của thành phố tổng số tiền là 50 triệu đồng
Năm 2019, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã đã phối hợp với nguồn vốn từ huyện để xây dựng nhà đại đoàn kết, giúp xóa nhà tranh tre tạm bợ cho 5 hộ gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và neo đơn Tổng số tiền hỗ trợ là 106.200.000 đồng, trong đó 57.200.000 đồng được cấp từ trên, còn lại 49.000.000 đồng do cộng đồng dân cư và gia đình đóng góp.
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ CÁC DỰ ÁN, CHÍNH SÁCH, CHƯƠNG TRÌNH GIẢM NGHÈO TẠI XÃ
2.6.1 Kết quả thực hiện đến năm 2016
- Năm 2016, toàn xã có 116 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 5,83%; 72 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 3,62%
- Xã có 03 thôn, với 1.050 hộ là ĐBDTTS
2.6.2 Kết quả thực hiện giai đoạn 2018 – 2020
- Năm 2018, toàn xã có 112 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 10,16%
- Năm 2019 toàn xã có 92 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 8,14%
- Năm 2020 toàn xã có 77 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 6,47%
Năm 2018, xã đã triển khai chương trình hỗ trợ 02 con bò sinh sản cho 02 hộ nghèo, bao gồm 01 con bò lai và 01 con bò cỏ, đúng theo kế hoạch đã đề ra Dự án được tài trợ từ ngân sách Trung ương với số tiền 21 triệu đồng và 5 triệu đồng từ Quỹ vì Người nghèo của xã Hiện tại, tình hình phát triển của bò rất tốt, góp phần nâng cao đời sống cho các hộ nghèo.
- Năm 2019 xã thực hiện hỗ trợ 02 sinh sản cho 02 hộ nghèo theo đúng kế hoạch đề ra (Ngân sách Trung ương 21 triệu đồng, hộ dân là 6 triệu đồng)
Vào năm 2020, xã đã triển khai hỗ trợ 2 con bò sinh sản cho 02 hộ nghèo, thực hiện đúng kế hoạch đã đề ra Ngân sách Trung ương đóng góp 21 triệu đồng, trong khi đó, mỗi hộ dân tham gia hỗ trợ 6 triệu đồng.
Công tác chỉ đạo điều hành cần được thực hiện một cách hợp lý nhằm bảo vệ quyền lợi và chính sách cho người dân, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ cận nghèo, phụ nữ và các hộ dân tộc thiểu số.
- Cơ chế tổ chức thực hiện: phù hợp, đồng bộ và có hệ thống từ huyện đến xã và khu dân cư
Tại xã, dự án Hỗ trợ phương thức sản xuất đang được triển khai nhằm đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng mô hình giảm nghèo, bên cạnh Chương trình 30a và các chương trình khác.
135 từ được sử dụng nhằm thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững và hạn chế tái nghèo Những nỗ lực này không chỉ góp phần vào tăng trưởng kinh tế mà còn đảm bảo an sinh xã hội và cải thiện đời sống cho phụ nữ và người đồng bào dân tộc thiểu số Đồng thời, các hộ nghèo và hộ cận nghèo sẽ được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo trong giai đoạn tới.
2016 – 2020 theo Nghị quyết các cấp đề ra.