1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa.

245 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đánh Giá Hiệu Quả Điều Trị Rối Loạn Trầm Cảm Bằng Liệu Pháp Kích Hoạt Hành Vi Kết Hợp Với Amitriptyline Tại 4 Xã/Phường, Tỉnh Khánh Hòa
Tác giả Đặng Duy Thanh
Người hướng dẫn PGS. TS. Trần Hữu Bỡnh
Trường học Trường Đại Học Y Hà Nội
Chuyên ngành Tâm thần
Thể loại luận án tiến sĩ y học
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 245
Dung lượng 5,95 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN (16)
    • 1.1. Tổng quan về trầm cảm (16)
      • 1.1.1. Khái niệm về trầm cảm (16)
      • 1.1.2. Bệnh nguyên của rối loạn trầm cảm (16)
      • 1.1.3. Bệnh sinh của trầm cảm (18)
      • 1.1.4. Chẩn đoán và phân loại trầm cảm theo ICD-10 (30)
    • 1.2. Tính thường gặp của rối loạn trầm cảm trong cộng đồng (35)
      • 1.2.1. Tỉ lệ trầm cảm trong cộng đồng (35)
      • 1.2.2. Giới tính và trầm cảm (36)
      • 1.2.3. Tuổi và trầm cảm (37)
      • 1.2.4. Trình độ học vấn và trầm cảm (38)
      • 1.2.5. Hôn nhân, gia đình và trầm cảm (38)
      • 1.2.6. Các yếu tố kinh tế xã hội và văn hóa và trầm cảm (0)
    • 1.3. Liệu pháp kích hoạt hành vi trong điều trị trầm cảm (39)
      • 1.3.1. Các phương pháp điều trị trầm cảm (39)
      • 1.3.2. Liệu pháp kích hoạt hành vi trong điều trị trầm cảm (44)
  • CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (62)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (62)
      • 2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn (62)
      • 2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ (62)
    • 2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu (62)
      • 2.2.1. Địa điểm nghiên cứu (62)
      • 2.2.2. Thời gian nghiên cứu (62)
    • 2.3. Phương pháp nghiên cứu (63)
      • 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu (63)
      • 2.3.2. mẫu Cỡ (0)
      • 2.3.3. Cách chọn mẫu xã/phường nghiên cứu (64)
      • 2.3.4. Cách chọn đối tượng nghiên cứu (65)
      • 2.3.5. Các bước tiến hành nghiên cứu (66)
      • 2.3.6. Kế hoạch theo dõi bệnh nhân (70)
      • 2.3.7. Các công cụ được sử dụng trong nghiên cứu (72)
      • 2.3.8. Quy trình thu thập số liệu (73)
    • 2.4. Quản lý và phân tích số liệu (73)
      • 2.4.1. Quản lý số liệu (73)
      • 2.4.2. Phân tích số liệu (73)
    • 2.5. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu (76)
      • 2.5.1. Tính tự nguyện (76)
      • 2.5.2. Tính bảo mật (76)
      • 2.5.3. Tính minh bạch (76)
      • 2.5.4. Đạo đức của nhà nghiên cứu (76)
    • 2.6. Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục (76)
      • 2.6.1. Hạn chế của nghiên cứu (76)
      • 2.6.1. Sai số (77)
      • 2.6.3. Biện pháp khắc phục (77)
  • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (78)
    • 3.1. Các đặc trưng cá nhân của đối tượng nghiên cứu (78)
    • 3.2. Thực trạng rối loạn trầm cảm (80)
      • 3.2.1. Tỉ lệ bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm (80)
      • 3.2.2. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm (81)
      • 3.2.3. Thời gian mắc bệnh trung bình trước nghiên cứu (84)
      • 3.2.4. Mức độ trầm cảm của nhóm nghiên cứu trước can thiệp theo ICD-10 71 3.3. Hiệu quả của liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline (84)
      • 3.3.1. Tỉ lệ bệnh nhân bỏ điều trị trong nhóm nghiên cứu (85)
      • 3.3.3. Hiệu quả lên các triệu chứng trầm cảm (88)
      • 3.3.4. Hiệu quả can thiệp đến trầm cảm của hai nhóm qua các thời điểm (104)
      • 3.3.5. Hiệu quả đối với mức độ trầm cảm (107)
      • 3.3.6. Tỉ lệ thuyên giảm của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị 98 (111)
      • 3.3.7. lệ Tỉ hồi phục của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị 99 (0)
      • 3.3.8. Tỉ lệ tái phát qua từng thời điểm ở 2 nhóm (113)
      • 3.3.9. Tỉ lệ tái diễn của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị . 101 (114)
      • 3.3.10. Hiệu quả của các phương pháp điều trị trên việc làm tăng các hành vi kích hoạt trong trầm cảm (114)
      • 3.3.11. Hiệu quả của các phương pháp điều trị trên việc làm giảm các hành vi né tránh trong trầm cảm (118)
      • 3.3.12. Ảnh hưởng của các phương pháp điều trị trên sử dụng liều lượng (122)
  • CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN (123)
    • 4.1. Các đặc trưng cá nhân của đối tượng nghiên cứu (123)
    • 4.2. Thực trạng rối loạn trầm cảm (127)
      • 4.2.1. Tỉ lệ bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm (127)
      • 4.2.2. Các triệu chứng nhận thức và các yếu tố liên quan (129)
      • 4.2.3. Các triệu chứng cảm xúc và các yếu tố liên quan (130)
      • 4.2.4. Các triệu chứng cơ thể và các yếu tố liên quan (131)
      • 4.2.5. Thời gian mắc bệnh trung bình trước nghiên cứu (132)
      • 4.2.6. Mức độ trầm cảm của nhóm nghiên cứu trước can thiệp theo ICD-10 120 (133)
    • 4.3. Hiệu quả của amitriptyline kết hợp với liệu pháp kích hoạt hành vi (134)
      • 4.3.1. Tỉ lệ bệnh nhân bỏ điều trị trong nhóm nghiên cứu (134)
      • 4.3.2. Hiệu quả lên các triệu chứng trầm cảm (136)
      • 4.3.3. Hiệu quả can thiệp đến trầm cảm của hai nhóm qua các thời điểm 128 (141)
      • 4.3.4. Hiệu quả đối với mức độ trầm cảm (141)
      • 4.3.5. Tỉ lệ thuyên giảm của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị 133 (146)
      • 4.3.6. Tỉ lệ hồi phục của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị 134 (147)
      • 4.3.7. Tỉ lệ tái phát qua từng thời điểm ở 2 nhóm (148)
      • 4.3.8. lệ Tỉ tái diễn của từng nhóm nghiên cứu qua các thời điểm điều trị 137 (0)
      • 4.3.9. Hiệu quả của các phương pháp điều trị trên việc làm tăng các hành (150)
      • 4.3.10. Hiệu quả của các phương pháp điều trị trên việc làm giảm các hành vi né tránh trong trầm cảm (151)
      • 4.3.11. Ảnh hưởng của các phương pháp điều trị trên sử dụng liều lượng (152)
  • KẾT LUẬN (155)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (159)
  • PHỤ LỤC (176)

Nội dung

Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa. Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa. Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa. Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa. Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa. Đánh giá hiệu quả điều trị rối loạn trầm cảm bằng liệu pháp kích hoạt hành vi kết hợp với amitriptyline tại 4 xãphường, tỉnh Khánh Hòa.

TỔNG QUAN

Tổng quan về trầm cảm

1.1.1 Khái niệm về trầm cảm

Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý cảm xúc, đặc trưng bởi sự ức chế các hoạt động tâm thần, bao gồm cảm xúc, tư duy và vận động Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10, trầm cảm điển hình thường thể hiện qua khí sắc trầm, mất hứng thú và giảm năng lượng, dẫn đến mệt mỏi và giảm hoạt động Ngoài ra, người bệnh có thể gặp phải các triệu chứng như giảm khả năng tập trung, thiếu tự tin, cảm giác tội lỗi và không xứng đáng, cùng với cái nhìn bi quan về tương lai, ý tưởng tự hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ và ăn uống kém.

… Các triệu chứng tồn tại trong khoảng thời gian ít nhất là 2 tuần [6].

1.1.2 Bệnh nguyên của rối loạn trầm cảm [6 ]

Trầm cảm do nhiều nguyên nhân gây ra, nhưng nói chung là có 3 nguyên nhân chính: tâm lý, thực tổn, và nội sinh.

1.1.2.1 Trầm cảm do căn nguyên tâm lý

Các sang chấn tâm lý trong thời thơ ấu có thể khiến cá nhân trở nên dễ bị tổn thương trong suốt cuộc đời, đồng thời làm tăng nguy cơ mắc trầm cảm Những sang chấn này ảnh hưởng đến sự nhạy cảm của con người đối với stress và các kích thích tiêu cực.

Các yếu tố căng thẳng trong cuộc sống hiện nay, như sự cô lập, thiếu hỗ trợ xã hội, chỉ trích từ gia đình, và trầm cảm của bạn bè, có thể gây ra hoặc duy trì tình trạng trầm cảm Những người cảm thấy thiếu hỗ trợ xã hội có nguy cơ cao hơn trong việc khởi phát trầm cảm Các yếu tố căng thẳng này dẫn đến những thay đổi trong trục vỏ não, dưới đồi và tuyến thượng thận, sẽ được phân tích chi tiết hơn trong phần bệnh sinh.

Nghiên cứu của Kendler (2016) trên các cặp sinh đôi cho thấy rằng tính dễ mắc trầm cảm sau các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống chỉ kéo dài khoảng một tháng Hơn nữa, mối liên hệ giữa các sự kiện gây stress và trầm cảm ngày càng trở nên yếu hơn, với sự khởi phát của các giai đoạn trầm cảm thường diễn ra độc lập với những sự kiện căng thẳng.

Tâm lý học nhận thức cho thấy rằng những suy nghĩ méo mó hoặc tiêu cực thường gặp ở những người dễ mắc trầm cảm có thể làm trầm trọng thêm nhận thức của họ trong trạng thái trầm cảm.

Tâm lý học hành vi nhấn mạnh vai trò của các hành vi học được, trong đó phản ứng từ gia đình và môi trường xung quanh (thường không cố ý) có thể củng cố nhận thức và hành vi liên quan đến trầm cảm.

- Thường hay gặp ở các rối loạn ở chương F4: các rối loạn dạng cơ thể và liên quan đến stress

1.1.2.2 Trầm cảm thực tổn: trầm cảm do các bệnh thực tổn ở não hoặc các bệnh toàn thân khác, trầm cảm do nhiễm độc ma túy, rượu…[6]

Trầm cảm có thể do nhiều bệnh lý tại não gây ra, bao gồm các khối u hệ thần kinh trung ương, bệnh Parkinson, bệnh đa xơ cứng, và bệnh Alzheimer Ngoài ra, các bệnh lý mạch máu não, chấn thương não, cũng như các bệnh nhiễm trùng như giang mai thần kinh và HIV/AIDS cũng là những nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến tình trạng trầm cảm.

- Các bệnh lý toàn thân liên quan với trầm cảm bao gồm [20]:

+ Bệnh lý tim mạch: bệnh tim thiếu máu, suy tim, bệnh cơ tim.

+ Các rối loạn nội tiết và chuyển hóa: nhược giáp, tiểu đường [21], thiếu vitamin, các rối loạn cận giáp [22].

+ Các rối loạn do viêm: bệnh lý collagen-mạch máu, hội chứng ruột kích thích, các bệnh lý gan mãn tính.

Một số loại thuốc như glucocorticoids và interferons có thể gây ra các biểu hiện liên quan đến trầm cảm Các triệu chứng như chán ăn, mệt mỏi, khó ngủ và cảm giác yên dịu do thuốc có thể dễ dàng bị nhầm lẫn với triệu chứng trầm cảm Ngoài ra, trầm cảm có thể đã tồn tại trước đó và bị hiểu nhầm là do tác dụng của thuốc, hoặc các triệu chứng trầm cảm có thể phát sinh từ bệnh lý mà thuốc được chỉ định để điều trị.

- Các chất tác động tâm thần gây ra các biểu hiện trầm cảm: Rượu, cần sa, ma túy tổng hợp…

- Bệnh cơ thể có tác động như một yếu tố stress: chẳng hạn ung thư phổi, hoặc các bệnh nan y

- Bao gồm: Trầm cảm trong rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn trầm cảm tái diễn, trầm cảm thoái triển.

- Trầm cảm nội sinh hiện nay chưa rõ nguyên nhân, và là loại trầm cảm mà đề tài tập trung nghiên cứu.

1.1.3 Bệnh sinh của trầm cảm

Trầm cảm, bất kể nguyên nhân nào, đều liên quan đến rối loạn dẫn truyền thần kinh, ảnh hưởng đến hình thái và chức năng của não Sự thay đổi về tính mềm dẻo, linh hoạt và đàn hồi của hệ thần kinh (neuroplasticity) đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

1.1.3.1 Vai trò của các chất dẫn truyền thần kinh và và các thụ thể [24],[25],[26]

Các chất dẫn truyền thần kinh trung ương bao gồm amine như serotonin (5HT), epinephrine, norepinephrine (NE), dopamine (DA), acetylcholine, histamine, cùng với các amino acid như glutamate và gama aminobutiric acid (GABA), và các peptide Trầm cảm thường liên quan đến sự bất thường trong chức năng của các chất dẫn truyền thần kinh, đặc biệt là ba chất chính 5HT, NE, và DA cùng với các thụ thể liên quan Hiện tại, đã có nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích mối liên hệ giữa các chất dẫn truyền thần kinh và trầm cảm.

Lý thuyết cổ điển cho rằng trầm cảm là do sự thiếu hụt các chất dẫn truyền thần kinh, nhưng không xác định rõ sự thiếu hụt nào giữa norepinephrine (NE) và serotonin (5HT) là quan trọng hơn Hơn nữa, lý thuyết này cũng không đề cập đến vai trò của dopamine (DA) trong tình trạng trầm cảm.

Giả thuyết monoamine về trầm cảm cho rằng sự rối loạn chức năng của hệ thống chất dẫn truyền thần kinh NE, 5HT và DA ở các vòng não khác nhau dẫn đến các triệu chứng của bệnh Tuy nhiên, một vấn đề mà giả thuyết này không thể giải thích là mặc dù mức độ các chất dẫn truyền thần kinh tăng nhanh chóng trong một số vùng não dưới tác động của thuốc chống trầm cảm, nhưng hiệu quả lâm sàng lại xuất hiện chậm hơn.

Giả thuyết thụ thể của monoamine cho rằng sự bất thường trong các thụ thể monoamine dẫn đến trầm cảm, với sự suy yếu của các chất dẫn truyền thần kinh gây ra điều hòa ngược bù trừ ở thụ thể hậu synapse Nghiên cứu mổ tử thi cho thấy gia tăng số lượng thụ thể 5HT2 ở vỏ não vùng trán của bệnh nhân tự sát, và các nghiên cứu hình ảnh thần kinh phát hiện bất thường ở thụ thể 5HT trong bệnh nhân trầm cảm Các nhà nghiên cứu giả thuyết rằng có thể có sự thiếu hụt trong dẫn truyền tín hiệu đi xuống của các chất dẫn truyền monoamine, mặc dù số lượng chất dẫn truyền và thụ thể vẫn bình thường Sự gia tăng nhanh chóng của chất dẫn truyền thần kinh trong synapse đi kèm với sự thay đổi độ nhạy cảm của thụ thể diễn ra chậm, tương ứng với hiệu quả chống trầm cảm chậm thấy Các thuốc chống trầm cảm có khả năng đảo ngược sự điều hòa ngược này theo thời gian, và diễn tiến thời gian của sự thích ứng thụ thể cũng liên quan đến tác dụng liệu pháp và sự dung nạp với tác dụng phụ Những thay đổi về số lượng và nhạy cảm của thụ thể có thể liên quan đến sự thay đổi trong biểu hiện gen, bao gồm cả việc tắt tổng hợp thụ thể và tăng cường tổng hợp các yếu tố dinh dưỡng thần kinh như BDNF.

Vòng thần kinh não đóng vai trò quan trọng trong trầm cảm, khi tốc độ truyền tín hiệu thần kinh bị rối loạn dẫn đến sự bất thường trong xử lý thông tin ở một số vùng não Các triệu chứng trầm cảm xuất hiện tương ứng với những vùng não cụ thể, cho thấy mối liên hệ giữa quá trình xử lý thông tin không hiệu suất và các triệu chứng này Nhờ vào nghiên cứu này, chúng ta có thể xây dựng bản đồ thể hiện sự liên quan giữa các triệu chứng trầm cảm và sự điều hòa của các thụ thể tại từng vùng não cụ thể.

Bản đồ các triệu chứng trầm cảm tương ứng với các vòng thần kinh não bao gồm các khu vực quan trọng như vỏ não trước trán (PFC), đáy não trước (BF), thể vân (S), các nhân bụng giữa (NA), vùng đồi (T), vùng dưới đồi (Hy), các trung tâm dẫn truyền thần kinh cuống não (NT) và tủy sống (SC) Những khu vực này đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu và điều trị trầm cảm.

- Được coi là amine sinh học có vai trò quan trọng nhất trong bệnh sinh trầm cảm Nhiều phân nhóm thụ thể serotonin cũng liên quan đến trầm cảm.

Sự suy yếu của serotonin có thể thúc đẩy trầm cảm.

Tính thường gặp của rối loạn trầm cảm trong cộng đồng

1.2.1 Tỉ lệ trầm cảm trong cộng đồng Đề tài này tập trung nghiên cứu trên trầm cảm nội sinh (major depressive disorder) nên các tỉ lệ ở phần này là đề cập đến tỉ lệ của trầm cảm nội sinh trong cộng đồng.

Theo nghiên cứu của Theo Andrade (2003), tỉ lệ lưu hành rối loạn trầm cảm khác nhau đáng kể giữa các quốc gia Cụ thể, Nhật Bản ghi nhận tỉ lệ 3%, Thổ Nhĩ Kỳ 6,3%, Cộng hòa Séc 7,8%, Mexico 8,1%, Canada 8,3%, Chi Lê 9%, Brazil 12,6%, Hà Lan 15,7%, và Mỹ cao nhất với 16,9% Đặc biệt, tỉ lệ lưu hành của trầm cảm có xu hướng gia tăng theo thời gian.

Trong số các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình tỉ lệ lưu hành suốt đời cũng khác nhau Cụ thể, ở I-rắc (2009) là 7,2% [62], Iran (2010) 4,1%

Tỉ lệ trầm cảm ở các quốc gia khác nhau có sự chênh lệch đáng kể Tại Trung Quốc, tỉ lệ này là 3,5% vào năm 2007, trong khi ở Nigeria năm 2006, tỉ lệ là 3,3% Ở các quốc gia có thu nhập cao, Nhật Bản ghi nhận tỉ lệ trầm cảm là 6,7% vào năm 2009 Đặc biệt, New Zealand có tỉ lệ trầm cảm suốt đời của người lớn lên tới 16%, và theo nghiên cứu của Kessler, tỉ lệ này ở Mỹ là 16,2%.

[67] Theo WHO (2017), tỉ lệ lưu hành của trầm cảm ở thế giới vào năm 2015 là 4,4% [1].

Tỉ lệ lưu hành 12 tháng của rối loạn trầm cảm là 2% ở Trung Quốc

Theo các nghiên cứu, tỷ lệ mắc rối loạn trầm cảm ở các quốc gia khác nhau trong những năm gần đây có sự chênh lệch rõ rệt Cụ thể, tỷ lệ này là 2,9% ở Nhật Bản (2005), 5,7% ở New Zealand (2006), 3,7% ở Mexico và 1% ở Nigeria Nghiên cứu của Drade (2003) cho thấy tỷ lệ lưu hành trong 12 tháng của rối loạn trầm cảm ở Nhật Bản là 1,2%, ở Cộng hòa Séc là 2%, Thổ Nhĩ Kỳ là 3,5%, Canada là 4,3%, và Mexico là 4,5%.

Tỷ lệ trầm cảm ở một số quốc gia như Lê là 5,6%, Braxin 5,8%, Hà Lan 5,9% và Mỹ đạt 10% Theo nghiên cứu của Kessler (2003), tỷ lệ này ở Mỹ là 6,6% Tại Việt Nam, tỷ lệ trầm cảm trong cộng đồng có sự khác biệt tùy thuộc vào thời điểm và địa phương nghiên cứu, như được chỉ ra trong điều tra dịch tễ học lâm sàng của Bùi Thế Khanh (2001) tại một phường ở thành phố Buôn Ma.

Tỷ lệ trầm cảm tại Việt Nam có sự biến động đáng chú ý Một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trầm cảm chung là 2,1% [72] Tại Thái Nguyên, Trần Viết Nghị (2002) ghi nhận tỷ lệ trầm cảm ở một xã là 8,35% và ở một phường là 4,2%, trong đó tỷ lệ nữ là 4,12% và nam là 1,07% [73][74] Nghiên cứu của Trần Hữu Bình (2007) tại phường Lê Đại Hành, Hà Nội cho thấy tỷ lệ trầm cảm là 4,18%, với tỷ lệ nam/nữ là 2/1 [75] Ngoài ra, Nguyễn Thanh Cao (2012) cũng phát hiện tỷ lệ trầm cảm ở một phường tại thị xã Bắc Cạn là 4,3% [76].

1.2.2 Giới tính và trầm cảm

Kessler và cộng sự (1993) cho rằng các rối loạn trầm cảm đặc biệt phổ biến ở nữ với tỉ lệ lưu hành suốt đời là 21,3% so với 12,7% ở nam [77] Ở Úc

Tỉ lệ mắc trầm cảm trong suốt cuộc đời dao động từ 10 - 26% ở phụ nữ và 5 - 12% ở nam giới, với sự khác biệt giữa các nghiên cứu nhưng nhìn chung tương tự nhau Sadock (2015) chỉ ra rằng rối loạn trầm cảm điển hình ở nữ giới nhiều gấp đôi so với nam giới Theo nghiên cứu của Sadeghirad (2010), phụ nữ ở Iran mắc bệnh trầm cảm cao gấp 1,95 lần so với nam giới Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần của Mỹ (DSM 5) (2013) cho thấy không có sự khác biệt rõ rệt về giới tính trong triệu chứng, diễn tiến bệnh, đáp ứng điều trị và hậu quả chức năng Tuy nhiên, vào năm 2014, Pedersen công bố tỉ lệ lưu hành trầm cảm ở nữ giới cao gấp khoảng 2 lần so với nam giới Theo WHO (2017), tỉ lệ lưu hành trầm cảm thay đổi theo từng vùng, với tỉ lệ thấp nhất ở nam giới tại vùng Tây Thái Bình Dương (2,6%) và cao nhất ở nữ giới tại vùng Châu Phi (5,9%) Tại Việt Nam, tỉ lệ nữ/nam cũng khác nhau tùy theo từng nghiên cứu, ví dụ như tỉ lệ của Trần Hữu Bình là 2/1.

(2007) [75], Nguyễn Văn Siêm 5/1 (2010) [81], Nguyễn Thanh Cao 5,2/1

Giả thuyết về sự khác biệt giới tính trong trầm cảm liên quan đến các yếu tố như sự khác nhau về nội tiết tố, tác động của việc sinh đẻ và những yếu tố gây stress tâm lý xã hội khác nhau.

Nolen-Hoeksema (1999, 2001) đã chỉ ra rằng các yếu tố như sự kiện gây stress, phản ứng với stress, cảm giác làm chủ thấp, và sự nghiền ngẫm phổ biến hơn ở nữ giới so với nam giới, dẫn đến sự khác biệt về giới tính trong triệu chứng trầm cảm Sự nghiền ngẫm không chỉ làm tăng cường tác động của cảm giác làm chủ thấp mà còn ảnh hưởng đến căng thẳng mãn tính và triệu chứng trầm cảm Hơn nữa, căng thẳng mãn tính và sự nghiền ngẫm có mối quan hệ tương hỗ theo thời gian, trong khi cảm giác làm chủ thấp cũng gia tăng mức độ nghiền ngẫm Cuối cùng, triệu chứng trầm cảm có thể làm tăng sự nghiền ngẫm và giảm cảm giác làm chủ theo thời gian.

Theo Birmaher (1996), tỉ lệ rối loạn trầm cảm ở vị thành niên tại Mỹ đã gia tăng đáng kể, với khoảng 15% ở lứa tuổi 15-18 Williams (2007) cho biết rối loạn trầm cảm điển hình ít phổ biến ở người lớn tuổi so với người trẻ Sadock (2015) chỉ ra rằng tuổi khởi phát trung bình của rối loạn này là khoảng 40 tuổi, với 50% bệnh nhân có khởi phát từ 20-50 tuổi, và tỉ lệ mới mắc có thể gia tăng ở người trẻ hơn 20 tuổi, có thể do sử dụng rượu và ma túy tăng cao Theo Hiệp hội tâm thần Mỹ (2013), tỉ lệ lưu hành 12 tháng của rối loạn trầm cảm khác nhau rõ rệt giữa các nhóm tuổi, trong đó nhóm từ 18 đến 29 có tỉ lệ cao hơn.

Phụ nữ từ 60 tuổi trở lên có nguy cơ mắc trầm cảm cao hơn nam giới từ 1,5 đến 3 lần, đặc biệt là trong độ tuổi vị thành niên Trầm cảm ở lứa tuổi này không chỉ phổ biến mà còn là yếu tố dự báo quan trọng cho tình trạng trầm cảm ở người trưởng thành sau này.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2017), tỷ lệ mắc trầm cảm thay đổi theo độ tuổi, cao nhất ở người lớn trưởng thành, với hơn 7,5% ở phụ nữ từ 55-74 tuổi và trên 5,5% ở nam giới Trầm cảm cũng xuất hiện ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 15 tuổi, nhưng tỷ lệ này thấp hơn so với người lớn.

1.2.4 Trình độ học vấn và trầm cảm

Tỉ lệ trầm cảm thấp nhất thường thấy ở những người có trình độ giáo dục dưới trung học cơ sở, trong khi tỉ lệ trầm cảm cao nhất lại xảy ra ở những người có trình độ giáo dục sau trung học cơ sở.

Nghiên cứu năm 2000 cho thấy mối liên hệ giữa trầm cảm và trình độ giáo dục gia tăng theo độ tuổi ở Mỹ, với mẫu nghiên cứu gồm 2.031 người từ 18 đến 90 tuổi Những người có trình độ giáo dục thấp thường phàn nàn về các triệu chứng cơ thể nhiều hơn, và tình trạng này gia tăng theo tuổi tác Đồng thời, nguồn hỗ trợ xã hội thấp và khả năng thích ứng kém cũng phổ biến hơn ở nhóm người có trình độ thấp, đặc biệt là khi tuổi tác tăng lên.

1.2.5 Hôn nhân, gia đình và trầm cảm

Nghiên cứu của Amin (1998) tại Ấn Độ chỉ ra rằng phụ nữ ly dị, góa bụa và gia đình đơn thân có mức độ trầm cảm gia tăng Thêm vào đó, thất nghiệp và thiếu mối quan hệ tin cậy cũng liên quan đến tình trạng trầm cảm Sadock (2015) khẳng định rằng rối loạn trầm cảm điển hình thường xảy ra ở những người thiếu mối quan hệ cá nhân khăng khít hoặc những người ly thân, ly dị Tương tự, nghiên cứu của Akhta-Danesh (2007) tại Canada cho thấy tỷ lệ trầm cảm thấp nhất ở những người sống với bạn đời hôn nhân, trong khi tỷ lệ cao nhất gặp ở những người ly dị hoặc ly thân Bulloch (2009) cũng cho rằng tỷ lệ cao của trầm cảm ở những cá nhân ly thân hay ly dị liên quan đến nguy cơ gia tăng gián đoạn hôn nhân và tỷ lệ rối loạn trầm cảm cao hơn ở nhóm này.

Liệu pháp kích hoạt hành vi trong điều trị trầm cảm

1.3.1 Các phương pháp điều trị trầm cảm

+ Điều trị nguyên nhân dẫn đến trầm cảm (nếu có).

+ Làm giảm và mất hoàn toàn các triệu chứng.

+ Phòng ngừa tái phát và tái diễn trầm cảm.

Tiến trình điều trị trầm cảm bao gồm việc chẩn đoán chính xác và đánh giá mức độ nghiêm trọng cũng như nguy cơ tự sát của bệnh nhân Cần lựa chọn thuốc chống trầm cảm phù hợp, cung cấp liều lượng đủ và kiểm tra khả năng dung nạp thuốc cũng như sự tuân thủ điều trị từ phía bệnh nhân Quan trọng là duy trì điều trị ngay cả sau khi các triệu chứng đã được cải thiện hoàn toàn.

Điều trị tấn công giai đoạn cấp nhằm giảm triệu chứng trầm cảm, trong khi điều trị duy trì kéo dài từ 4 đến 6 tháng để ngăn ngừa tái phát Thời gian điều trị phòng ngừa tái diễn trầm cảm có thể khác nhau tùy thuộc vào tình trạng bệnh của từng bệnh nhân, nhưng thường không dưới 1 năm.

Trong quá trình điều trị trầm cảm, cần kết hợp thuốc chống trầm cảm với các loại thuốc khác như thuốc giải lo âu, thuốc chống loạn thần, thuốc điều chỉnh khí sắc, liệu pháp sốc điện và liệu pháp nhận thức, tùy thuộc vào triệu chứng đi kèm và nhu cầu của bệnh nhân.

1.3.1.2 Các phương pháp điều trị trầm cảm

Hiện nay, có ba phương pháp chính để điều trị trầm cảm, bao gồm liệu pháp hóa dược, liệu pháp cơ thể và liệu pháp tâm lý Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, các phương pháp này có thể được áp dụng riêng lẻ hoặc kết hợp với nhau để đạt hiệu quả điều trị tốt nhất.

Thuốc chống trầm cảm hoạt động bằng cách điều chỉnh số lượng và hoạt tính của các chất dẫn truyền thần kinh như serotonin và noradrenaline, nhằm điều trị tình trạng trầm cảm Thời gian cần thiết để thuốc phát huy tác dụng thường là từ 7 đến 10 ngày sau khi đạt liều điều trị Trong một số trường hợp, bệnh nhân có thể không đáp ứng với loại thuốc này nhưng vẫn có khả năng đáp ứng tốt với các loại thuốc chống trầm cảm khác.

- Thuốc chống trầm cảm loại MAOI: hiện nay ít dùng vì có nhiều tương tác thuốc.

- Thuốc chống trầm cảm 3 vòng (imipramine, amitriptyline, anafranil…) có nhiều tác dụng kháng choline, có thể dùng ở cơ sở điều trị nội trú có theo dõi chặt chẽ.

Các thuốc ức chế tái hấp thu serotonin chọn lọc (SSRIs) không chỉ có tác dụng chính là ức chế tái hấp thu serotonin mà còn đi kèm với một số tác dụng phụ khác Do đó, hiệu quả của từng loại thuốc trong nhóm này có sự khác biệt nhất định.

Fluoxetine ức chế thụ thể 5HT2C, dẫn đến việc gia tăng phóng thích norepinephrine (NE) và dopamine (DA) Điều này giúp tăng cường năng lượng, giảm cảm giác mệt mỏi và cải thiện khả năng tập trung cũng như chú ý.

Sertraline là một loại thuốc ức chế chất vận chuyển dopamine và tương tác với thụ thể sigma-1, giúp cải thiện năng lượng, động lực và sự tập trung Ngoài ra, sertraline còn có tác dụng giảm lo âu và hiệu quả trong việc điều trị trầm cảm có triệu chứng loạn thần.

Paroxetine là một loại thuốc kháng cholinergic nhẹ, giúp giảm lo âu hiệu quả Fluvoxamine, với khả năng đồng vận tại các thụ thể sigma-1, không chỉ có tác dụng giảm lo âu mà còn hiệu quả trong điều trị trầm cảm có triệu chứng loạn thần.

+ Citalopram và escitalopram: có kết quả tốt trong điều trị trầm cảm ở người già.

Các thuốc đồng vận một phần 5HT và ức chế tái hấp thu 5HT (SPARIs), như vilazodone, có khả năng tăng cường tác dụng chống trầm cảm và cải thiện sự dung nạp thuốc ở một số bệnh nhân.

-Các thuốc ức chế tái hấp thu 5HT và NE (SNRI): venlafaxine, desvenlafaxine, duloxetine, milnacipran.

Các thuốc ức chế tái hấp thu NE-DA như bupropion có tác dụng cải thiện triệu chứng mất hứng thú, giảm năng lượng, giảm sự nhiệt tình và nâng cao sự tự tin.

- Các thuốc ức chế tái hấp thu chọn lọc NE: reboxetine, atomoxetine.

- Thuốc tác động lên các thụ thể melatonin: agomelatine, đồng vận lên các thụ thể melatonin 1 và melatonin 2, và ức các thụ thể 5HT2C.

Mirtazapine là một loại thuốc ức chế các thụ thể cả tiền và hậu synapse, bao gồm thụ thể alpha-2 tiền synapse, 5HT2A, 5HT2C, 5HT3 và histamine H1 Thuốc này có tác dụng tích cực trong việc cải thiện giấc ngủ và giảm lo âu.

Các thuốc kháng vận 5HT và ức chế tái hấp thu 5HT (SARIs) như trazodone hoạt động bằng cách ức chế các thụ thể 5HT2A và 5HT2C, đồng thời cũng ngăn chặn sự tái hấp thu serotonin.

Trazodone ở liều thấp có tác dụng gây ngủ, trong khi liều cao lại có tác dụng chống trầm cảm Nefazodone ức chế mạnh mẽ thụ thể 5HT2A, nhưng lại ức chế yếu hơn đối với thụ thể 5HT2C và thụ thể vận chuyển 5HT.

- ECT: Có hiệu quả ở 80-90% bệnh nhân trầm cảm; có tác dụng tốt với: các triệu chứng loạn thần, căng trương lực sững sờ, có nguy cơ tự sát.

Kích thích từ xuyên sọ là một phương pháp trị liệu khu trú, không xâm phạm tổ chức não, tác động sâu 2 cm dưới vỏ não Tác động của phương pháp này phụ thuộc vào tần số kích thích: tần số thấp có hiệu quả trong điều trị trầm cảm mà không gây co giật, trong khi tần số cao có thể gây co giật và có thể thay thế liệu pháp điện giật (ECT) Kích thích từ xuyên sọ cho hiệu quả tương đương ECT đối với trầm cảm không loạn thần và đặc biệt hiệu quả cho các bệnh nhân trầm cảm kháng thuốc, đồng thời không gây suy giảm nhận thức như ECT.

- Liệu pháp kích thích dây thần kinh phế vị

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

BÀN LUẬN

Ngày đăng: 18/08/2021, 21:54

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. World Health Organization (2017), Depression and other common mental disorders - Global health estimates, World Health Organization, 1-17 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Depression and other common mentaldisorders - Global health estimates
Tác giả: World Health Organization
Năm: 2017
2. Rubenstein L., Unutzer J., Miranda J., et al (2000), Clinician guide to depression assessment and management in primary care, RAND, 11-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Clinician guide todepression assessment and management in primary care
Tác giả: Rubenstein L., Unutzer J., Miranda J., et al
Năm: 2000
3. Simon G.E., VonKorff M., Piccinelli M., et al (1999). An internation study of the relation between somatic symptoms and depression, Journal of Medicine, 341 (18), 1329-1335 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Medicine
Tác giả: Simon G.E., VonKorff M., Piccinelli M., et al
Năm: 1999
4. Lowe B., Schenkel I., Carney-Doebbeling C., et al (2006).Responsiveness of the PHQ-9 to psychopharmacological depression treatment, Psychosomatics, 47 (1), 62-67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Psychosomatics
Tác giả: Lowe B., Schenkel I., Carney-Doebbeling C., et al
Năm: 2006
5. Murray C.J., and Lopez A.D. (1997). Alternative projections of mortality and disability by cause 1990-2020: Global Burden of Disease Study, Lancet, 349, 1498-1504 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lancet
Tác giả: Murray C.J., and Lopez A.D
Năm: 1997
6. Trần Hữu Bình (2016). Giai đoạn trầm cảm, Giáo trình bệnh học tâm thần, Bộ môn tâm thần, Đại học Y Hà Nội, Nhà xuất bản Y học, 59 - 65 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình bệnh học tâmthần
Tác giả: Trần Hữu Bình
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2016
7. Houghton S., Curran J., and Saxon D. (2008). An uncontrolled evaluation of group behavioural activation for depression, Behavioural and Cognitive Psychotherapy, 36, 235-239 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Behaviouraland Cognitive Psychotherapy
Tác giả: Houghton S., Curran J., and Saxon D
Năm: 2008
8. Ritschel L.A., Ramirez C.L, Jones M., et al (2011). Behavioral activation for depressed teens: A pilot study, Cognitive and Behavioral Practice, 18, 281-299 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cognitive and BehavioralPractice
Tác giả: Ritschel L.A., Ramirez C.L, Jones M., et al
Năm: 2011
9. Kanter J.K., Santiago-Rivera A.L, Rusch L.C., et al (2010). Initial outcomes of a culturally adapted behavioral activation for Latinas diagnosed with depression at a community clinic, Behavior Modification, 1-25 Sách, tạp chí
Tiêu đề: BehaviorModification
Tác giả: Kanter J.K., Santiago-Rivera A.L, Rusch L.C., et al
Năm: 2010
11. Jacobson N. S., Gortner E. T. (2000). Can depression be de-medicalized in the 21st century. Scientific revolutions, counter revolutions and the magnetic field of normal science, Behavior Research and Therapy, 38 103-117 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Behavior Research and Therapy
Tác giả: Jacobson N. S., Gortner E. T
Năm: 2000
12. Chambless D.L., and Hollon S.D. (1998). Defining empirically supported therapies, Journal of Consulting and Clinical Psychology, 66, 7-18 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Consulting and Clinical Psychology
Tác giả: Chambless D.L., and Hollon S.D
Năm: 1998
14. Green J.G., McLaughlin K.A., Berglund P.A., et al (2010). Childhood adversities and adult psychopathology in the National Comorbidity Survey Replication (NCS-R) I: Associations with first onset of DSM-IV disorders, Arch Gen Psychiatry, 67 (2), 113 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Arch Gen Psychiatry
Tác giả: Green J.G., McLaughlin K.A., Berglund P.A., et al
Năm: 2010
15. Sheline Y.I., Gado M.H., and Kraemer H.C. (2003). Untreated depression and hippocampal volume loss, Am J Psychiatry, 160 (8), 1516-1518 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Am J Psychiatry
Tác giả: Sheline Y.I., Gado M.H., and Kraemer H.C
Năm: 2003
16. Patten S.B., Williams V.A., Lavorato D.H., et al (2010). Reciprocal effects of social support in major depression epidemiology, Clinical Practice & Epidemiology in Mental Health, 6, 126-131 Sách, tạp chí
Tiêu đề: ClinicalPractice & Epidemiology in Mental Health
Tác giả: Patten S.B., Williams V.A., Lavorato D.H., et al
Năm: 2010
17. Kendler K.S., and Gardner C.O. (2016). Depressive vulnerability, stressful life events and episode onset of major depression: a longitudinal model, Psychological Medicine, 46, 1865-1874 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Psychological Medicine
Tác giả: Kendler K.S., and Gardner C.O
Năm: 2016
18. Beck A.T. (2005). The current state of Cognitive Therapy: A 40-year retrospective, Arch Gen Psychiatry, 62, 953-959 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Arch Gen Psychiatry
Tác giả: Beck A.T
Năm: 2005
19. Biuckians A., Miklowitz D.J., and Kim E.Y. (2007). Behavioral activation, inhibition and mood symptoms in earlyonset bipolar disorder, J Affect Disord, 97 (1-3), 71-76 Sách, tạp chí
Tiêu đề: J Affect Disord
Tác giả: Biuckians A., Miklowitz D.J., and Kim E.Y
Năm: 2007
20. Levenson J.L. (2005). Depression, Textbook of Psychosomatic Medicine, The American Psychiatric Publishing, 193-217 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Textbook of PsychosomaticMedicine
Tác giả: Levenson J.L
Năm: 2005
21. Rotella F., and Mannucci E. (2013). Diabetes mellitus as a risk factor for depression: A meta-analysis of longitudinal studies, Diabetes research and clinical practice, 99, 98 - 104 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diabetesresearch and clinical practice
Tác giả: Rotella F., and Mannucci E
Năm: 2013
22. Milaneschi Y., Hoogendijk W., Lips P., et al (2013). The association between low vitamin D and depressive disorders, Molecular Psychiatry, 1-8 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Molecular Psychiatry
Tác giả: Milaneschi Y., Hoogendijk W., Lips P., et al
Năm: 2013

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w