1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khoá luận Nghiên cứu so sánh ngụ ngôn Ấn Độ (Panchatantra) với ngụ ngôn Hy Lạp (Aesop) và ngụ ngôn Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan)

259 39 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khoá Luận Nghiên Cứu So Sánh Ngụ Ngôn Ấn Độ (Panchatantra) Với Ngụ Ngôn Hy Lạp (Aesop) Và Ngụ Ngôn Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan)
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Nghiên Cứu Văn Học
Thể loại khóa luận
Định dạng
Số trang 259
Dung lượng 2,67 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do ch ọn đề tài (8)
  • 2. L ị ch s ử v ấn đề (9)
  • 3. Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u (18)
  • 4. M ục đích nghiên cứ u (19)
  • 5. Phương pháp nghiên cứ u (20)
  • 6. B ố c ụ c c ủ a khóa lu ậ n (20)
  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LU Ậ N (21)
    • 1.1. Nghiên c ứ u ảnh hưở ng và song song trong nghiên c ứu văn họ c so sánh (21)
      • 1.1.1. Nghiên cứu ảnh hưởng (21)
        • 1.1.1.1. Khái niệm “ảnh hưởng” văn học từ góc độ nghiên cứu so sánh (21)
        • 1.1.1.2. Điều kiện nảy sinh sự “ảnh hưởng” văn học (26)
        • 1.1.1.3. Nghiên cứu ảnh hưởng và tiếp nhận trong văn học so sánh (31)
      • 1.1.2. Nghiên cứu song song (35)
        • 1.1.2.1. Cơ sở của nghiên cứu song song (35)
        • 1.1.2.2. Phạm vi nghiên cứu song song – trường hợp “Thể loại học” (38)
    • 1.2. Gi ớ i thuy ế t v ề truy ệ n ng ụ ngôn (40)
      • 1.2.1. Khái niệm truyện ngụ ngôn (40)
      • 1.2.2. Một số đặc trưng của thể loại truyện ngụ ngôn (44)
        • 1.2.2.1. Nội dung (44)
        • 1.2.2.2. Nhân vật (46)
        • 1.2.2.3. Kết cấu (48)
    • 1.3. Gi ớ i thuy ế t v ề Panchatantra, Aesop và Ng ụ ngôn Đông Nam Á (50)
      • 1.3.1. Ng ụ ngôn Ấn Độ (50)
        • 1.3.1.1. Đặc trưng nội dung và nghệ thuật của truyện ngụ ngôn Ấn Độ (50)
        • 1.3.1.2. Trường hợp Panchatantra (Năm tập sách giáo huấn) (52)
      • 1.3.2. Ngụ ngôn Hy Lạp (Aesop) (54)
      • 1.3.3. Truyện ngụ ngôn Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan) (56)
      • 1.3.4. Tư liệu sử dụng (59)
    • 2.1. So sánh v ề n ội dung ý nghĩa củ a Panchatantra và Aesop (63)
      • 2.1.1. Hệ thống đề tài (63)
      • 2.1.2. Phương thức tạo nghĩa (78)
    • 2.2. So sánh v ề nhân v ậ t c ủ a Panchatantra và Aesop (84)
      • 2.2.1. Hệ thống nhân vật và định danh nhân vật (85)
        • 2.2.1.1. Hệ thống nhân vật (85)
        • 2.2.1.2. Đị nh danh nhân v ậ t (88)
      • 2.2.2. Đặc điểm nhân vật (92)
        • 2.2.2.1. Về tính cách nhân vật (92)
        • 2.2.2.2. Về hành động nhân vật (96)
        • 2.2.2.3. Về chức năng của nhân vật (104)
    • 2.3. So sánh v ề k ế t c ấ u c ủ a Panchatantra và Aesop (107)
      • 2.3.1. Mô hình kết cấu tổng thể (108)
        • 2.3.1.1. Mô hình kết cấu tổng thể của Panchatantra (108)
        • 2.3.1.2. Mô hình kết cấu tổng thể của ng ụ ngôn Aesop (113)
      • 2.3.2. Mô hình kết cấu cốt truyện (117)
        • 2.3.2.1. Một số mô hình kết cấu cốt truyện tiêu biểu (117)
        • 2.3.2.2. M ộ t s ố c ố t truy ện tương đồ ng gi ữ a hai t ậ p truy ệ n (123)
  • CHƯƠNG 3. NGHIÊN CỨ U SO SÁNH PANCHATANTRA VÀ NG Ụ NGÔN ĐÔNG NAM Á T Ừ GÓC ĐỘ TI Ế P NH Ậ N (131)
    • 3.1. Quá trình hình thành văn bả n Panchatantra ở Đông Nam Á (131)
      • 3.1.1. Sự xuất hiện của Panchatantra ở Đông Nam Á (132)
      • 3.1.2. Sự lưu truyền Panchatantra ở Đông Nam Á (134)
    • 3.2. Panchatantra và các d ị b ả n ở Đông Nam Á (Lào, Thái Lan) (144)
      • 3.2.1. Phương diện cốt truyện (144)
      • 3.2.2. Phương diện nhân vật (152)
      • 3.2.3. Phương diện kết cấu (161)
    • 3.3. S ự ti ế p bi ế n c ủ a Panchatantra trong ngụ ngôn Đông Nam Á bản địa (Vi ệ t Nam, Lào, Campuchia) (167)
      • 3.3.1. Nguyên tắc lựa chọn, tiếp thu và biến đổi Panchatantra ở Đông Nam Á (168)
      • 3.3.2. Phương diện nội dung (172)
        • 3.3.2.1. Đề tài (172)
        • 3.3.2.2. C ố t truy ệ n (174)
        • 3.3.2.3. Không gian văn hóa (178)
      • 3.3.3. Phương diện nghệ thuật (179)
        • 3.3.3.1. Nhân v ậ t (179)
        • 3.3.3.2. Kết cấu (183)
      • 3.3.4. Các phương diện khác: tôn giáo và triết học (186)

Nội dung

Lý do ch ọn đề tài

Văn học cổ Ấn Độ là nguồn nuôi dưỡng giá trị văn hóa tinh thần, sản sinh và lưu giữ kho truyện cổ quý giá nhất thế giới Truyện cổ và văn học dân gian không chỉ là tác phẩm văn học mà còn gắn liền với nghi lễ tôn giáo và nghệ thuật Chất liệu dân gian là môi trường phát triển văn hóa dân tộc, khiến cho các truyện kể dân gian vẫn tồn tại và phát triển trong đời sống thường nhật Nghiên cứu văn hóa và văn học dân gian Ấn Độ đòi hỏi sự nghiêm túc và hiểu biết sâu sắc về nền văn hóa đa dạng và phức tạp của đất nước này.

Truyện ngụ ngôn là một phần quan trọng trong văn hóa dân gian Ấn Độ, với Panchatantra là tác phẩm tiêu biểu, kết hợp trí thức và tính dân gian Tác phẩm không chỉ là cẩm nang về đạo đức và kinh nghiệm sống mà còn cung cấp kiến thức về quản lý và cai trị đất nước Với giá trị to lớn, Panchatantra đã vượt ra ngoài biên giới Ấn Độ, trở thành một phần của văn học thế giới Nghiên cứu Panchatantra là cơ hội để khám phá kho tàng chân lý sâu sắc của Ấn Độ.

Nghiên cứu văn học dân gian hiện nay đã đạt nhiều thành tựu, giải quyết các vấn đề lý luận quan trọng như nguồn gốc và đặc trưng thể loại Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu liên ngành, các phương pháp cần được mở rộng để phù hợp với nhịp độ phát triển của các bộ môn khác Sự kết hợp giữa lý thuyết văn học so sánh và văn học dân gian hứa hẹn mang lại nhiều kết quả giá trị, giúp tạo ra liên kết giữa các quốc gia và dân tộc Việc so sánh các thể loại văn học dân gian có thể giải thích sự tương đồng từ các điều kiện phát triển lịch sử tương tự, đồng thời xác lập các quá trình ảnh hưởng giữa các vùng văn hóa Do đó, áp dụng các phương pháp văn học so sánh trong nghiên cứu văn học dân gian là cần thiết Chúng tôi chọn ngụ ngôn Aesop của Hy Lạp và ngụ ngôn từ một số nước Đông Nam Á như Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan để khảo sát, vì chúng đại diện cho hai khu vực văn học với đặc trưng văn hóa, xã hội khác biệt Việc so sánh này không chỉ giúp làm rõ vị thế của văn học Ấn Độ mà còn mở rộng hiểu biết về văn học dân gian ba khu vực, cung cấp nguồn tài liệu hữu ích cho nghiên cứu và học tập.

L ị ch s ử v ấn đề

2.1 Những công trình nghiên cứu về tác phẩm Panchatantra của Ấn Độ

Panchatantra là một tập truyện ngụ ngôn nổi tiếng toàn cầu, thu hút sự quan tâm của nhiều học giả quốc tế, bao gồm Patrick Olivelle, Johannes Hertel và Henry D Ginsburg từ Mỹ và châu Âu, cùng với các nhà nghiên cứu Ấn Độ và Ả Rập như Salahuddin Mohd Shamsuddin và Zuraidah Mohd Don Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu như Lưu Đức Trung, Đỗ Thu Hà và Đức Ninh cũng đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và giới thiệu giá trị của tác phẩm này.

Từ những năm 70, Anjali D Kale trong luận án tiến sĩ của mình đã nghiên cứu Panchatantra như một tác phẩm chính trị và luân lý, coi 5 quyển sách trong đó là những "kỹ thuật" để điều hành ngoại giao và quản lý quốc gia Những kỹ thuật này có thể hướng dẫn cả quốc gia và cá nhân trong tình huống khó khăn, với quan điểm rằng cuộc sống cá nhân và quốc gia có nhiều điểm tương đồng Luận án đã chỉ ra chất triết lý và bài học đạo đức từ các truyện ngụ ngôn, đồng thời nhấn mạnh tính chất chính trị trong câu chuyện mở đầu của Panchatantra Tuy nhiên, cách tiếp cận này có thể bỏ qua giá trị nghệ thuật của tác phẩm, thiên về nghiên cứu nội dung mà không chú trọng đến tính chất văn học.

Trong suốt 10 năm qua, nghiên cứu về Panchatantra đã thu hút sự chú ý từ nhiều khía cạnh và phương diện khác nhau, tạo nên một bức tranh tổng thể tương đối chặt chẽ Năm 2011, tác giả

T.P Yamuna đã nghiên cứu sâu về các phương thức trần thuật trong tác phẩm Panchatantra, tập trung vào cốt truyện, cấu trúc, ngôn ngữ, nhân vật và bối cảnh xã hội cũng như tôn giáo trong truyện Luận án tiến sĩ của ông, mang tên "Poetics and politics of popular Indian tales: A study of the Panchatantra, Akbar Birbal and Tenali Raman," cũng khám phá những khía cạnh này, góp phần làm rõ giá trị văn hóa và nghệ thuật của những câu chuyện dân gian Ấn Độ.

Bài viết "Tính thơ và tính chính trị trong những câu chuyện nổi tiếng Ấn Độ: Trường hợp của Panchatantra, Akbar Birbal và Tenali Raman" của tác giả Harpreet Dhiman đã thu hút sự chú ý đến cả nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm Trong chương 2 của luận án, tác giả phân tích bối cảnh xã hội và lịch sử liên quan đến những câu chuyện này, làm nổi bật sự kết hợp giữa tính thơ mộng và yếu tố chính trị trong văn hóa Ấn Độ.

The techniques outlined in the Panchatantra serve as valuable guidance for both individuals and states during challenging times The author emphasizes that the experiences of individuals and states are fundamentally alike, suggesting that both can achieve an ideal existence by adhering to the principles and policies presented in these stories.

Anjali D Kale (1977), Moral and political concepts underlying Panchatantra, Thesis submitted for the award of the degree of Doctor of Philosophy, University of Poona, Poona, p ii

Yamuna T.P (2010) explores narrative devices in the Pañcatantra in her doctoral thesis submitted to the Sree Sankaracharya University of Sanskrit, Kalady, contributing valuable insights into this classic text.

Harpreet Dhiman's 2011 thesis explores the poetics and politics of popular Indian tales, focusing on the Panchatantra, Akbar Birbal, and Tenali Raman This study, submitted to the Faculty of Languages at Panjab University Chandigarh, examines the cultural significance and narrative techniques of these stories, highlighting their impact on Indian literature and society.

Tiến sĩ Triết học tại Đại học Punjab Chandigarh đã nghiên cứu tác phẩm Panchatantra, phân tích tư cách truyện ngụ ngôn cùng với các bản dịch và dị bản của nó Hai luận án này nhấn mạnh rằng Panchatantra là một chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh, qua đó khẳng định giá trị văn học của tác phẩm, đồng thời khám phá chất thơ và chất chính trị trong nội dung của nó.

Nghiên cứu về Panchatantra đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả, điển hình là công trình "Place of 'Panchatantra' in the World of Literatures" (2013) của nhóm Salahuddin Mohd Shamsuddin và cộng sự, đăng trên Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn Anh Bài viết phân tích đa chiều về nguồn gốc, nhân vật, và ảnh hưởng của Panchatantra đối với văn học thế giới, khẳng định rằng tác phẩm này đã vượt qua ranh giới văn hóa và ngôn ngữ để trở thành một kiệt tác kinh điển Panchatantra không chỉ giữ vị trí quan trọng trong văn học so sánh mà còn mang lại những bài học đạo đức và trí tuệ cho thế hệ trẻ, góp phần vào sự an toàn và hòa bình của xã hội Bài viết này đóng góp đáng kể vào việc đánh giá vai trò của Panchatantra trong nền văn học toàn cầu.

Bài viết của Patrick Olivelle mang tên "Những con vật biết nói: Khảo sát trong một thể loại văn chương Ấn Độ" (2013) nghiên cứu nguồn gốc của việc nhân hóa động vật trong văn học Tác giả cùng với Sucheta Shide đã chọn cách tiếp cận sâu vào một đối tượng cụ thể, nhằm khám phá đặc điểm và ý nghĩa của thể loại này trong bối cảnh văn hóa Ấn Độ.

"Panchatantra" has transcended cultures and languages, establishing itself as a timeless classic in world literature Its significance is particularly evident in comparative literature, where its myths and wisdom resonate across various stories in multiple languages These narratives serve as valuable tools for promoting safety and peace in human societies, imparting essential morals, wisdom, and virtues to children, who are the architects of a brighter future in their evolving world.

Various artist (2013), “Place of “Panchatantra” in the World of Literatures”, British Journal of Humanities and Social

5 See: Patrick Olivelle (2013), “Talking animals: Explorations in an Indian literary genre”, Religions of South Asia 7

Bài viết của Equinox Publishing Ltd (2013) đã khám phá các nhân vật trong truyện ngụ ngôn Ấn Độ, đặc biệt là trong tác phẩm Panchatantra, với việc viện dẫn các yếu tố tôn giáo và văn hóa Ấn Độ, cùng với truyền thống văn học trước đó để đưa ra những phân tích hợp lý Ngoài ra, tác giả Sucheta Shide cũng đã thực hiện một nghiên cứu về nhân vật trong Panchatantra từ góc nhìn phê bình nữ quyền trong bài viết năm 2015.

Nghiên cứu phê bình từ quan điểm nữ quyền sử dụng lý thuyết hiện đại để làm rõ hình ảnh người phụ nữ trong xã hội Ấn Độ cổ đại Tác giả chỉ ra rằng trong các câu chuyện của Panchatantra, thế giới chủ yếu thuộc về đàn ông, trong khi phụ nữ thường phải phục tùng và ít khi là nhân vật chính Một số câu chuyện còn miêu tả phụ nữ với những đặc điểm xấu xa Phân tích của nhà nghiên cứu Sucheta Shide đã mở ra hướng đi quan trọng, giúp chúng tôi chú ý hơn đến vai trò của nhân vật nữ trong Panchatantra khi so sánh với các tác phẩm khác.

Lịch sử nghiên cứu Panchatantra đã trải qua sự chuyển biến đáng kể về quan điểm, từ việc xem nhẹ yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm ở giai đoạn đầu đến việc hình thành nhiều công trình chuyên sâu sau này, giúp định hình giá trị văn bản Các phương pháp phân tích hiện đại dựa trên lý thuyết mới cũng đã mang lại nhiều kết quả có giá trị Những thành tựu nghiên cứu này trở thành nguồn tư liệu tham khảo quý báu cho đề tài của chúng tôi.

2.2 Những công trình nghiên cứu liên quan đến việc so sánh Panchatantra và ngụ ngôn Aesop

Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u

So sánh Panchatantra và ngụ ngôn Aesop chỉ giới hạn trong thể loại truyện ngụ ngôn Dựa trên các đặc trưng của thể loại này, chúng tôi đã chọn ra những luận điểm phù hợp để phân tích, nhằm tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm.

Việc so sánh Panchatantra với các dị bản của nó tại Đông Nam Á và các truyện ngụ ngôn bản địa trong khu vực giúp khám phá những hệ quả của sự giao thoa văn hóa.

Đỗ Thu Hà (1999) trong luận án Tiến sĩ Ngữ văn tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, đã nghiên cứu vấn đề bản địa hóa sử thi Ramayana Ấn Độ ở một số nước Đông Nam Á Đồng thời, Đoàn Phương Thảo (2007) trong luận văn Thạc sĩ tại Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện nghiên cứu so sánh từ Ramayana (Ấn Độ) đến Riêmkê (Campuchia), tập trung vào ảnh hưởng văn hóa từ phía người tiếp thu, đặc biệt là ngụ ngôn của Lào, Campuchia và Thái Lan.

Việc so sánh này nhằm làm rõ sự lưu truyền của Panchatantra ở Đông Nam Á, tập trung vào các hình thức tiếp thu và quá trình tiếp biến của các văn bản Panchatantra tại các quốc gia trong khu vực.

Phạm vi nghiên cứu chính của đề tài là một số tác phẩm ngụ ngôn của ba khu vực:

- Ngụ ngôn Ấn Độ: Panchatantra;

- Ngụ ngôn Hy Lạp: Aesop;

- Một số ngụ ngôn Đông Nam Á:

+ Ngụ ngôn Lào: Nang Tăntay và XiêuXaVạt;

+ Ngụ ngôn Campuchia: truyện về quan tòa Thỏ;

+ Ngụ ngôn Thái Lan: Nang Tantrai;

+ Ngụ ngôn Việt Nam: một số truyện ngụngôn văn xuôi.

M ục đích nghiên cứ u

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đặt ra một số mục tiêu khoa học, bao gồm việc xác định và giải thích các khái niệm lý thuyết cơ bản như nghiên cứu ảnh hưởng và nghiên cứu song song trong văn học so sánh Chúng tôi cũng sẽ trình bày tóm tắt các đặc trưng của thể loại truyện ngụ ngôn và lược thuật các văn bản được chọn làm đối tượng nghiên cứu.

Khảo sát hai tập truyện Panchatantra và ngụ ngôn Aesop cho thấy sự khác biệt và tương đồng về thể loại, bao gồm đề tài, nhân vật và kết cấu nghệ thuật Qua việc so sánh, chúng ta có thể khẳng định sự chuẩn mực về thể loại của Panchatantra, đồng thời làm nổi bật những giá trị và đặc sắc văn hóa riêng của từng khu vực và quốc gia trong hai tác phẩm này.

Bài viết này xem xét sự tiếp nhận của Panchatantra trong bối cảnh văn hóa và văn học Đông Nam Á, phân tích các yếu tố văn học, văn hóa cũng như lịch sử - xã hội của khu vực này Nó viện dẫn các chứng cứ từ các ngành khoa học liên quan như tôn giáo, triết học và nghệ thuật để mô tả môi trường văn hóa mà Panchatantra được tiếp nhận trong một khoảng thời gian nhất định Qua đó, bài viết tìm hiểu quá trình hình thành văn bản Panchatantra tại Đông Nam Á, đồng thời so sánh và đối chiếu các văn bản để làm rõ quá trình tiếp biến của tác phẩm này, từ đó xác định các cơ sở, nguyên tắc và biểu hiện cụ thể trong việc lựa chọn, tiếp thu và biến đổi nội dung cũng như nghệ thuật của Panchatantra tại khu vực.

Chúng tôi muốn khám phá những khoảng trống trong nghiên cứu văn học Ấn Độ, đặc biệt là văn học cổ đại và các tác phẩm truyện kể dân gian Bài viết này cũng nhằm thiết lập một hệ thống các đơn vị tác phẩm, phục vụ cho nghiên cứu hiện tại và là nguồn tư liệu tham khảo cho tương lai.

Phương pháp nghiên cứ u

Trong nghiên cứu này, chúng tôi kết hợp các phương pháp đặc thù của khoa nghiên cứu văn học dân gian với những phương pháp nghiên cứu khác để đạt được kết quả toàn diện.

Phương pháp phân tích cấu trúc giúp tách rời các thành tố nghệ thuật trong tác phẩm, bằng cách chia nhỏ các đối tượng thành những bộ phận riêng lẻ Các bộ phận này được sắp xếp vào những hệ thống hợp lý, từ đó tiến hành thống kê và phân loại các đơn vị đã được phân chia, tạo nên một cái nhìn tổng quan về văn bản.

Phương pháp hệ thống là công cụ quan trọng trong nghiên cứu, giúp phân tích cấu trúc tác phẩm thông qua các hệ thống riêng biệt Mỗi biểu hiện nhỏ đều mang ý nghĩa như những dấu hiệu, hỗ trợ việc tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh.

Phương pháp tiếp cận liên ngành giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các yếu tố văn hóa – xã hội, lịch sử – địa lý, tôn giáo và triết học, từ đó cung cấp cơ sở để phân tích và lý giải những hiện tượng văn học khi so sánh hai tác phẩm từ hai nền văn học khác nhau.

Phương pháp so sánh và đối chiếu văn bản văn học là phương pháp chính trong khóa luận này Chúng tôi sử dụng Panchatantra làm cơ sở để phân tích và so sánh với ngụ ngôn Aesop, nhằm khám phá các đặc trưng thể loại Đồng thời, việc so sánh với ngụ ngôn Đông Nam Á giúp làm rõ quá trình tiếp nhận Panchatantra trong khu vực này.

B ố c ụ c c ủ a khóa lu ậ n

Ngoài phần Mở đầu (13 trang), phần Kết luận (3 trang) và phần Phụ lục (60 trang), nội dung khóa luận được triển khai theo 3 chương:

Chương 1 Cơ sở lý luận (41 trang)

Chương 2 Nghiên cứu so sánh Panchatantra và Aesop từ góc độ thể loại học (67 trang)

Chương 3 Nghiên cứu so sánh Panchatantra và Ngụ ngôn Đông Nam Á từgóc độ tiếp nhận (57 trang)

CƠ SỞ LÝ LU Ậ N

Nghiên c ứ u ảnh hưở ng và song song trong nghiên c ứu văn họ c so sánh

Văn học so sánh là một lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu, không chỉ đơn thuần là một phương pháp nghiên cứu như nhiều người đã nghĩ ban đầu Mặc dù bị nhiều học giả phủ nhận khi mới xuất hiện, qua thời gian, các công trình nghiên cứu giá trị đã chứng minh rằng văn học so sánh có đối tượng và phạm vi nghiên cứu riêng Nó tập trung vào việc phân tích các nền văn học có mối quan hệ trực tiếp, đồng thời mở rộng nghiên cứu đến những điểm tương đồng độc lập giữa các nền văn học không có quan hệ tiếp xúc Điều này cho thấy văn học so sánh không chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa các nền văn học có ảnh hưởng lẫn nhau mà còn khám phá những điểm tương đồng về loại hình do các đặc điểm lịch sử - xã hội tương đồng tạo ra, cũng như so sánh các hiện tượng văn học ở các nền văn học dân tộc khác nhau, kể cả khi không có sự tương đồng về điều kiện lịch sử Do đó, văn học so sánh có thể được xem là một bộ môn khoa học nghiên cứu các mối quan hệ giữa các nền văn học dân tộc.

1.1.1.1 Khái niệm “ảnh hưởng” văn học từgóc độ nghiên cứu so sánh

Nghiên cứu ảnh hưởng và nghiên cứu song song là hai phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu văn học so sánh, với đại diện chính là trường phái Pháp và trường phái Hoa Kỳ Nghiên cứu ảnh hưởng, xuất hiện trước và gắn liền với trường phái Pháp, tập trung vào những liên hệ thực tế giữa hai nền văn học và đề cao phương pháp thực chứng Những nhân vật tiêu biểu của trường phái này bao gồm Fernand Baldensperger, Paul Van Tieghem, J.M Carré, và Marius Francois Guyard.

Khái niệm "ảnh hưởng" là trung tâm của phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng trong văn học so sánh, được nhiều học giả làm rõ để hoàn thiện lý luận Để xác định nội hàm của khái niệm này, cần xem xét quan niệm của các nhà nghiên cứu trường phái Pháp Van Tieghem, học giả đầu tiên của trường phái này, đã xác lập quan điểm lý luận rõ ràng, cho rằng đặc trưng của văn học so sánh chân chính tương tự như mọi khoa học lịch sử, đó là thu thập nhiều sự thực có nguồn gốc khác nhau để giải thích.

Văn học so sánh, theo Nguyễn Văn Dân (1998), không chỉ đơn thuần là một khía cạnh mỹ học mà cần được hiểu như một lĩnh vực khoa học nhằm mở rộng nhận thức và khám phá nhiều nguyên nhân kết quả Van Tieghem xác định rằng đối tượng của văn học so sánh là nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ giữa các tác phẩm văn học quốc tế Carré và Guyard đã phát triển lý luận này, coi văn học so sánh là một phân môn của văn học sử, nghiên cứu các mối liên hệ thực tế giữa các tác giả và tác phẩm từ những nền văn học khác nhau Guyard nhấn mạnh rằng văn học so sánh không chỉ là so sánh đơn thuần mà là nghiên cứu các mối quan hệ văn học quốc tế, do đó những phần không có liên hệ không thuộc về lĩnh vực này Quan điểm của các học giả Pháp đã gắn văn học so sánh với nghiên cứu văn học sử, yêu cầu sự “liên hệ thực tế” và nhấn mạnh đến các khảo chứng thực tế, mặc dù có thể bỏ qua một số giá trị mỹ học Điều này dẫn đến việc khái niệm “ảnh hưởng” văn học được làm rõ hơn thông qua sự tiếp xúc giữa các đối tượng nghiên cứu.

Theo Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, 1988), “ảnh hưởng” được định nghĩa là “tác động có thể để lại kết quả ở sự vật hoặc người nào đó” Định nghĩa này cho thấy “ảnh hưởng” diễn ra qua hai quá trình: một sự vật tác động lên sự vật khác và sự tác động đó tạo ra phản ứng ở sự vật bị ảnh hưởng Tuy nhiên, khái niệm “ảnh hưởng” trong văn học so sánh cần có nội hàm cụ thể và chính xác hơn để làm cơ sở lý luận.

19 Dẫn theo Hồ Á Mẫn (2011), Lê Huy Tiêu (dịch), Giáo trình văn họ c so sánh, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr

20 Dẫn theo Hồ Á Mẫn (2011), sđd, tr 34

21 Dẫn theo Phương Lựu (2001), Lí lu ận phê bình văn học phương Tây thế k ỷ XX , Nxb Văn học, Hà Nội, tr 104

22 Theo Hồ Á Mẫn (2011), sđd, tr 35

23 Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 23

Joseph T Show, một nhà nghiên cứu người Hoa Kỳ, đã định nghĩa "ảnh hưởng" văn học như là sự tác động của yếu tố ngoại lai lên tác phẩm của nhà văn, mà không thể giải thích trong bối cảnh truyền thống văn học của họ Aldrige, một nhà văn học so sánh khác, bổ sung rằng "ảnh hưởng" là những yếu tố mà nếu một nhà văn chưa tiếp xúc với, thì tác phẩm của họ sẽ không thể tồn tại Cả hai quan niệm này đều nhấn mạnh sự xâm nhập của yếu tố ngoại lai vào sáng tác, cho thấy rằng "ảnh hưởng" văn học là kết quả của việc nhà văn chủ động tiếp nhận và tích hợp những yếu tố này vào tác phẩm của mình.

Nữ giáo sư Hồ Á Mẫn trong chuyên luận "Giáo trình văn học so sánh" định nghĩa "ảnh hưởng" trong văn học so sánh là hiện tượng nhà văn nước này tìm thấy những yếu tố mới từ nhà văn, tác phẩm nước ngoài và tích hợp chúng vào quá trình sáng tác của mình Quan điểm này có sự tương đồng với Joseph T Show và Aldrige nhưng phát triển hơn về nội hàm Giáo sư nhấn mạnh ba vấn đề: sự chủ động của đối tượng ảnh hưởng, nhân tố mới và sự vận dụng của nhân tố mới trong sáng tác Sự chủ động thể hiện qua việc nhà văn "tìm thấy" những "nhân tố mới" từ tác phẩm nước ngoài, bao gồm nhiều khía cạnh như đề tài, tư tưởng, thể loại và kỹ thuật xây dựng tác phẩm Các nhân tố này cần được vận dụng một cách tự nhiên và triệt để trong quá trình sáng tác của nhà văn.

Ngoài những quan niệm về "ảnh hưởng" văn học từ các học giả nước ngoài đã được trình bày, một số nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng đã đóng góp quan điểm riêng của họ về vấn đề này.

24 Dẫn theo Hồ Á Mẫn (2011), sđd, tr 71

25 Dẫn theo Hồ Á Mẫn (2011), sđd, tr 71

Theo Hồ Á Mẫn (2011), "ảnh hưởng văn học" được định nghĩa trong Từ điển thuật ngữ văn học (1992) là mối quan hệ tác động qua lại giữa các nhà văn, tác phẩm và các nền văn học Định nghĩa này giúp làm rõ hơn khái niệm ảnh hưởng văn học.

Trong văn học so sánh, "ảnh hưởng" giữa tác giả hoặc tác phẩm đòi hỏi sự tương tác giữa hai đối tượng, bao gồm cả người gây ra ảnh hưởng và người nhận sự ảnh hưởng Tác giả Lưu Văn Bổng trong bài viết của mình đã định nghĩa "ảnh hưởng" văn học là quá trình "nhào nặn cải biên lại cái được lĩnh hội" tùy theo môi trường tiếp nhận Quan điểm này tương đồng với những lý thuyết gia văn học so sánh quốc tế Tác giả khẳng định rằng "ảnh hưởng" là việc vận dụng các yếu tố bên ngoài vào sáng tác của mình Để làm rõ hơn khái niệm này, tác giả phân biệt giữa nghiên cứu ảnh hưởng và nghiên cứu tiếp nhận, nhấn mạnh rằng nghiên cứu ảnh hưởng tập trung vào tác giả hoặc tác phẩm của nước này trong khi nghiên cứu tiếp nhận chú trọng đến người tiếp nhận tác phẩm của nước khác Điều này cho thấy rằng khi nghiên cứu ảnh hưởng, cần lưu ý cả yếu tố ngoại lai và nguồn gốc của tác phẩm.

Khái niệm "ảnh hưởng" văn học đã được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thống nhất ở một số phương diện, nhưng vẫn có thể được bổ sung và mở rộng tùy theo đối tượng và mục đích nghiên cứu Các nhà nghiên cứu văn học so sánh, đặc biệt là các học giả Pháp, thường có cách hiểu tương đồng về khái niệm này, tập trung vào mối liên hệ giữa tác giả hoặc tác phẩm nước ngoài với tác giả khác, dấu hiệu của các nhân tố ngoại lai trong sáng tác, và thái độ của nhà văn chịu ảnh hưởng Sự ảnh hưởng văn học được xác định qua việc tìm kiếm các biểu hiện của yếu tố ngoại lai trong tác phẩm.

27 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 7

28 Lưu Văn Bổng (2017), “Ảnh hưởng – đối thoại – tiếp nhận”, Văn họ c so sánh – M ộ t khoa h ọ c k ế t liên ph ứ c h ợ p,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr 100

Trong sáng tác của một nhà văn, việc tiếp thu chủ động từ tác giả hoặc tác phẩm nước ngoài đóng vai trò quan trọng, giúp làm rõ phạm vi nghiên cứu ảnh hưởng đến tác giả và tác phẩm đó Quan niệm này phù hợp với tình hình nghiên cứu văn học so sánh, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của trường phái Pháp, nơi các nhà văn như Voltaire, Montesquieu, Diderot và Rousseau đã có ảnh hưởng sâu sắc đến văn học các quốc gia Châu Âu Nghiên cứu sự tác động của Shakespeare cũng là một ví dụ tiêu biểu về ảnh hưởng văn học trong khu vực này.

Sự phát triển của văn học so sánh đã làm mở rộng quan niệm về "ảnh hưởng" văn học, cho thấy rằng hiện tượng này diễn ra đồng thời từ cả hai phía: tác giả hoặc tác phẩm nước ngoài và tác giả chịu ảnh hưởng Nghiên cứu ảnh hưởng cần xuất phát từ cả hai nguồn, phản ánh sự tương tác và giao lưu giữa các nền văn học Ảnh hưởng trong văn học so sánh không chỉ đơn thuần là sự sao chép, mà còn yêu cầu một hiệu quả thẩm mỹ nhất định trong sáng tác của nhà văn khác, từ đó tìm thấy dấu hiệu của các đặc điểm văn học nước ngoài trong tác phẩm mới.

Trong nghiên cứu văn học so sánh, cần phân biệt giữa "ảnh hưởng" và "vay mượn" văn học Sự "ảnh hưởng" có nhiều kiểu khác nhau, theo Van Tieghem, bao gồm: ảnh hưởng do nhân cách nhà văn, ảnh hưởng về mặt kỹ thuật viết văn, vay mượn tư liệu và chủ đề, ảnh hưởng về quan niệm, và ảnh hưởng qua việc tạo ra một khung cảnh nghệ thuật mới Tuy nhiên, vay mượn tư liệu và chủ đề chỉ được coi là ảnh hưởng trong một phạm vi hạn chế, đặc biệt là trong thế kỷ XVI và XVII, khi các nhà văn cổ điển Pháp chủ yếu sáng tác dựa trên văn hóa cổ đại Hy – La Do đó, việc phân biệt giữa "ảnh hưởng" và "vay mượn" là cần thiết, vì vay mượn chỉ đơn thuần là việc sử dụng các yếu tố từ tác giả hoặc tác phẩm nước ngoài trong sáng tác.

Trong Giáo trình văn học so sánh, giáo sư Hồ Á Mẫn đã phân loại các loại hình ảnh hưởng thành bốn nhóm chính: ảnh hưởng trực tiếp, ảnh hưởng gián tiếp, ảnh hưởng chính và ảnh hưởng phụ (Hồ Á Mẫn, 2011, tr 78 – 80).

Gi ớ i thuy ế t v ề truy ệ n ng ụ ngôn

1.2.1 Khái niệm truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn là một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm Theo Hán – Việt tự điển của Thiều Chửu, từ “ngụ” có nghĩa là nói bóng, còn “ngôn” có nghĩa là nói, từ đó “ngụ ngôn” được hiểu là nói truyện này mà ngụ ý ở truyện kia Việc xác định từ nguyên của “ngụ ngôn” đã chỉ ra một đặc trưng quan trọng của thể loại truyện này.

Truyện ngụ ngôn là thể loại tự sự có hai lớp nghĩa: nghĩa bề mặt và nghĩa ẩn dụ Theo Thiều Chửu (2014), truyện ngụ ngôn thường sử dụng động vật biết nói để phản ánh những khuyết điểm của con người, đồng thời truyền tải một bài học đạo đức Từ điển bách khoa toàn thư định nghĩa rằng mỗi câu chuyện ngụ ngôn không chỉ kể về hành động của các nhân vật mà còn kết thúc bằng một lời răn dạy rõ ràng Những định nghĩa này giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và hiểu rõ hơn về khái niệm truyện ngụ ngôn.

Truyện ngụ ngôn, theo định nghĩa của J A Cuddon trong "Từ điển thuật ngữ văn học và lý thuyết văn học" (2013), là một loại truyện ngắn bằng văn xuôi hoặc văn vần nhằm củng cố một lời răn dạy Đặc điểm nổi bật của truyện ngụ ngôn bao gồm độ dài ngắn gọn, hình thức thể hiện đa dạng và nội dung thường mang tính minh họa cho các bài học đạo đức Nhân vật trong truyện thường là động vật hoặc vật vô tri được nhân hóa, phản ánh các khía cạnh của xã hội loài người, điều này giúp phân biệt truyện ngụ ngôn với các thể loại khác.

A fable is a narrative form that typically includes animals acting and speaking like humans, designed to emphasize human flaws and weaknesses These stories often incorporate a moral lesson that is clearly stated at the conclusion.

Truy xuất từ: Encyclopổdia Britannica, “Fable – Literature”, Website: https://www.britannica.com/art/fable (truy cập ngày 29/09/2017)

A fable is a brief narrative, either in prose or verse, that conveys a moral lesson, typically featuring non-human characters or inanimate objects This literary form often anthropomorphizes animals, distinguishing it from other storytelling traditions found in primitive cultures.

Truy xuất từ: Cuddon, J A (2013), A Dictionary of Literary Terms and Literary Theory, Fifth Edition, Wiley-

Truyện ngụ ngôn, theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu Việt Nam, là những câu chuyện có ý nghĩa sâu xa, thường được sử dụng trong nhiều thể loại văn học dân gian và văn học thành văn như thơ ngụ ngôn, truyện ngụ ngôn, ca dao, và tục ngữ Những câu chuyện này thường sử dụng các loài vật hoặc đồ vật để gián tiếp phản ánh cuộc sống con người, đồng thời truyền tải những bài học luân lý hoặc triết lý một cách kín đáo Các từ điển định nghĩa truyện ngụ ngôn dựa trên bốn phương diện chính: độ dài, hình thức thể hiện, nhân vật và nội dung.

Ngoài các định nghĩa từ điển, chúng tôi đã tham khảo nhiều công trình nghiên cứu của các học giả về văn học dân gian và truyện ngụ ngôn Năm 1927, Nguyễn Văn Ngọc trong Lời tựa cuốn Đông Tây ngụ ngôn đã định nghĩa truyện ngụ ngôn với ý nghĩa rằng “Chữ Ngụ 寓 có nghĩa là gá gửi; chữ Ngôn 言 có nghĩa là nhời nói.”

Ngụ ngôn là thể loại văn học, bao gồm cả văn xuôi và văn vần, thường được trình bày dưới dạng câu chuyện nhằm truyền tải những quy châm về luân lý và đạo đức để cảm hóa con người Trong ngụ ngôn, câu chuyện chỉ là hình thức bên ngoài, trong khi quy châm mới là phần cốt lõi, như một nhà ngụ ngôn xưa đã nói Học giả Nguyễn Văn Ngọc đã nhận diện rõ ràng đặc trưng quan trọng của ngụ ngôn, đó là lời quy châm, và khẳng định rằng ngụ ngôn có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau Tuy nhiên, mặc dù ông đã làm rõ vai trò giáo dục luân lý của ngụ ngôn, những đặc trưng thể loại khác vẫn chưa được xác định một cách đầy đủ.

Trong công trình đồ sộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (1957 – 1982), học giả

Nguyễn Đổng Chi định nghĩa truyện ngụ ngôn là một thể loại truyện đơn giản với mục đích rõ ràng, thường mang một thông điệp ý nghĩa Nó có thể được so sánh với ca dao, tục ngữ, sử dụng hình thức cụ thể để diễn đạt những khái niệm trừu tượng Truyện ngụ ngôn thường ngắn gọn, có thể viết bằng văn vần hoặc văn xuôi, và thường kết thúc bằng một bài học luân lý hoặc quan điểm triết lý nhất định.

53 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), sđd, tr 150

54 Nguyễn Văn Ngọc (2003), “Đông Tây ngụ ngôn – Quyển thượng”, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọ c Toàn t ậ p, Tập 1,

Nxb Văn học, Hà Nội, tr 877

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi trong tác phẩm "Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam" đã phân biệt truyện ngụ ngôn với các thể loại khác dựa trên độ dài, hình thức thể hiện và kết cấu truyện kể, trong đó luôn chứa đựng một bài học luân lý Tác giả Trương Chính cũng nhấn mạnh kết cấu hai phần của truyện ngụ ngôn, cho rằng đây là những câu chuyện ngắn hoặc dài, văn xuôi hoặc văn vần, mang ý nghĩa ẩn dụ và hàm chứa những nhận xét về thực tế xã hội, triết lý hay nhân sinh, thường được diễn đạt một cách gián tiếp.

Tác giả "chém bụi tre nhè bụi chuối" 56 nhấn mạnh cách thức xây dựng nội dung của truyện ngụ ngôn dựa trên đặc điểm tâm lý con người Quan niệm chung của các học giả về truyện ngụ ngôn tập trung vào mối quan hệ giữa nội dung ý nghĩa và hình thức, cùng với câu chuyện được gán nghĩa.

Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu khái niệm truyện ngụ ngôn qua các giáo trình văn học dân gian phổ biến tại các trường đại học Theo giáo trình "Văn học dân gian Việt Nam" (2000) của Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên và Võ Quang Nhơn, truyện ngụ ngôn được định nghĩa là loại truyện chứa đựng một quan niệm triết lý hay đạo đức thông qua một câu chuyện hư cấu, bao gồm hai phần: phần cụ thể là câu chuyện kể và phần trừu tượng là lời quy châm Giáo trình "Văn học dân gian" (2014) do Vũ Anh Tuấn chủ biên mở rộng khái niệm này, cho rằng truyện ngụ ngôn là loại truyện kể, có thể bằng văn xuôi hoặc văn vần, sử dụng nhân vật là con người, động vật hoặc đồ vật để truyền tải những bài học về luân lý, đạo đức và cách ứng xử trong cuộc sống Khái niệm này khá đầy đủ, bao quát cả tính chất thể loại và các đặc trưng riêng biệt, giúp phân biệt với các thể loại khác.

56 Trương Chính (1998), Bình giải ngụ ngôn Việt Nam, Nxb Giáo dục, tr 3

57 Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn (2000), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 349

58 Vũ Anh Tuấn (chủ biên) – Phạm Thu Yến – Nguyễn Việt Hùng – Phạm Đặng Xuân Hương (2014), Giáo trình văn học dõn gianá Nxb Giỏo dục Việt Nam, Hà Nội, tr 168

(loài vật, đồ vật và có thể cả con người) và kết cấu (hai phần: mượn câu chuyện nhỏ để gửi gắm những bài học kinh nghiệm)

Tổng kết lại, qua việc xem xét khái niệm truyện ngụ ngôn từ ba nguồn tài liệu khác nhau, có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu về các vấn đề chính như tính chất thể loại, hình thức thể hiện, nhân vật, độ dài và đặc biệt là kết cấu văn bản Qua từng giai đoạn nghiên cứu, khái niệm này ngày càng trở nên cụ thể và rõ ràng hơn, đồng thời giúp định vị thể loại truyện ngụ ngôn trong hệ thống thể loại của văn học dân gian.

Truyện ngụ ngôn là một thể loại tự sự, có thể được viết bằng văn xuôi hoặc văn vần, trong đó nhân vật thường là động vật, đồ vật, hay con người, được xây dựng phản ánh xã hội loài người Qua những câu chuyện ngắn, truyện ngụ ngôn truyền tải những bài học đạo đức, luân lý và lời khuyên về cách ứng xử trong cuộc sống, thể hiện tinh thần học hỏi và kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước đó.

1.2.2 Một sốđặc trưng của thể loại truyện ngụ ngôn

Truyện ngụ ngôn xuất hiện như một minh chứng cho sự phát triển của ý thức xã hội và tư duy nghệ thuật của con người Mặc dù có nguồn gốc từ truyện loài vật, truyện ngụ ngôn không chỉ giới hạn ở các nhân vật động vật hay đồ vật mà còn bao gồm cả con người, tất cả đều hướng đến xã hội loài người Do đó, cần phân biệt rõ giữa truyện ngụ ngôn và các thể loại truyện về loài vật thuần túy, vì truyện ngụ ngôn được sáng tác với mục đích phản ánh và hướng tới con người, mặc dù có thể sử dụng chất liệu từ truyện loài vật.

Gi ớ i thuy ế t v ề Panchatantra, Aesop và Ng ụ ngôn Đông Nam Á

1.3.1.1 Đặc trưng nội dung và nghệ thuật của truyện ngụ ngôn Ấn Độ

Ấn Độ, với truyền thống văn học phong phú, là cái nôi của truyện cổ dân gian thế giới, trong đó truyện ngụ ngôn đóng vai trò quan trọng Sự xuất hiện của truyện ngụ ngôn phản ánh sự phát triển cao của ý thức xã hội và tư duy nghệ thuật của người dân Ấn Độ Khi giới thiệu về truyện ngụ ngôn Ấn, chúng tôi cũng sẽ trình bày những đặc điểm tư duy đặc trưng của Ấn Độ, góp phần hình thành hệ thống truyện ngụ ngôn này.

Truyện ngụ ngôn có nguồn gốc từ Ấn Độ cổ đại, nơi nó phát triển mạnh mẽ thành một thể văn riêng Người Ấn thường suy nghĩ trừu tượng và nhấn mạnh tính phổ quát, do đó họ thường coi nhẹ những điều cụ thể Trong các tác phẩm cổ như Jataka và Mahabharata, truyện ngụ ngôn được sử dụng để minh họa cho các đạo lý, giáo lý tôn giáo, luật pháp và triết học, thay vì diễn đạt trực tiếp Điều này cho thấy truyện ngụ ngôn là phương tiện phù hợp để người Ấn thể hiện kiểu tư duy “cụ thể một cách trừu tượng” của họ.

Truyện ngụ ngôn Ấn Độ nổi bật với những bài học giáo huấn sâu sắc, tập trung vào hai mảng chính: triết lý sống và cuộc đấu tranh giữa các đẳng cấp Những bài học này được thể hiện phong phú qua các câu chuyện, như phê phán tính khoe khoang trong "Hổ, khỉ và kiến", chỉ ra sự hiểu biết hạn hẹp của con người trong "Con voi và bốn người mù", và chỉ trích thói ba hoa trong "Rùa và đôi" Những nội dung này không chỉ mang tính giải trí mà còn chứa đựng những kinh nghiệm quý báu trong đối nhân xử thế.

65 Xin xem: Triều Nguyễn (2010), sđd, tr 259 – 357

Nguyễn Tấn Đắc trong tác phẩm "Văn hóa Ấn Độ" (Nxb TP Hồ Chí Minh, tr 229) đã đề cập đến khía cạnh của sự hưởng thụ cá nhân và những hệ lụy mà nó gây ra cho người khác, như trong câu chuyện "Hai người bạn và túi tiền" Tác phẩm khắc họa rõ nét sự phân chia giữa những người thụ hưởng và những người phải chịu đựng.

Một số truyện ngụ ngôn Ấn Độ bóc trần sự thật cuộc sống, như tội ác được che đậy dưới lớp vỏ đạo đức trong "Sư tử, quạ, cọp, chó rừng và lạc đà" và sự vô ích của việc dạy bảo những kẻ không muốn học trong "Khỉ và chim." Những câu chuyện này cũng truyền tải những bài học triết lý sâu sắc về đạo làm vua và bổn phận của bề tôi trong "Vua, người lái buôn và người quét nhà," hay khái niệm về bản chất sự việc vĩnh cửu trong "Chí và rận." Đồng thời, nội dung còn phản ánh xung đột giữa các đẳng cấp xã hội và mối quan hệ giữa con người và thần linh, như trong "Người thợ dệt tự xưng là thần Vishnu" và "Những cuộc phiêu lưu của Đêvasarnan." Phương thức tạo nghĩa trong các truyện ngụ ngôn này thường sử dụng lối nói phủ định, nơi bề mặt câu chuyện đề cập đến cái xấu, cái sai, nhưng thực chất lại khẳng định điều ngược lại.

Nghệ thuật trong ngụ ngôn Ấn Độ nổi bật với ba điểm chính: tính ẩn dụ, ngụ ý và biểu tượng; nhân vật; và kết cấu nghệ thuật Theo nhà nghiên cứu Heinrich Zimmer, khả năng sử dụng biểu tượng và hình ảnh mang tính ẩn dụ sâu sắc trong ngụ ngôn Ấn Độ phản ánh tư duy triết học của người Ấn, nơi mà tri thức vượt qua ngữ pháp thông thường thông qua các phép ẩn dụ và ví von Văn hóa Ấn Độ được xem như một thế giới biểu tượng, tạo ra ngôn ngữ ngụ ý và ẩn dụ Về mặt nhân vật, ngụ ngôn Ấn thường sử dụng động vật làm nhân vật chính, nhưng cũng có sự hiện diện của con người, ma quỷ và thần linh, phản ánh sự phát triển tư duy nghệ thuật và nhấn mạnh bài học đạo lý, văn hóa và tôn giáo trong xã hội Kết cấu nghệ thuật của ngụ ngôn Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải những thông điệp sâu sắc này.

Heinrich Zimmer (2006) trong tác phẩm "Triết học Ấn Độ một cách tiếp cận mới" đã chỉ ra rằng nghệ thuật truyện ngụ ngôn thế giới đóng góp lớn vào cấu trúc xâu chuỗi - lồng khung (Frame stories) Đây là kiểu truyện mà một tác phẩm chính bao gồm nhiều câu chuyện nhỏ được liên kết với nhau, tạo thành một khung truyện vững chắc Câu chuyện trung tâm, hay còn gọi là truyện nền, có vai trò làm nền tảng cho các truyện khác, giúp tạo nên một tác phẩm ngụ ngôn phong phú và đa dạng Qua sự đan cài này, các truyện nhỏ có thể mất đi sự độc lập nhưng cũng có thể được mở rộng thêm ý nghĩa, làm tăng chiều sâu tư tưởng Các tác phẩm như Jataka và Panchatantra là những ví dụ điển hình của kiểu kết cấu này.

1.3.1.2 Trường hợp Panchatantra (Năm tập sách giáo huấn)

Panchatantra là tập truyện ngụ ngôn nổi tiếng nhất của Ấn Độ, có nguồn gốc từ truyện cổ bằng tiếng Sanskrit tên là Tantrakhuâyika Tác phẩm này, được biên soạn bởi đạo sĩ Bà la môn Vishnusharman theo yêu cầu của vua Amarasakti, nhằm giáo dục ba hoàng tử về cách xử thế khéo léo và nghệ thuật trị nước Panchatantra, còn được gọi là nītiśāstra trong Ấn Độ cổ đại, mang ý nghĩa là "cách cư xử sáng suốt" và được coi là sách chính trị học Nhiều học giả thống nhất rằng giá trị ban đầu của tác phẩm này gắn liền với mục đích giáo dục chính trị.

Tại Ấn Độ, có một nền văn hóa đặc biệt xoay quanh chính trị, tập trung vào quyền lực và sự giàu có của cá nhân, đặc biệt là của các vị vua Nghệ thuật này được thể hiện qua những câu chuyện ngụ ngôn trong tác phẩm Panchatantra, một phương tiện nổi bật để truyền tải triết lý nhân sinh thực dụng.

68 Xem: Đỗ Thu Hà (2015), Giáo trình văn học Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 100 – 101

69 Huỳnh Ngọc Trảng – Phạm Thiếu Hương – Nguyễn Tuấn (2000) (dịch), Panchatantra – Thu ậ t x ử th ế Ấn Độ, Nxb

Trẻ, Hồ Chí Minh, tr 7 – 11

Giáo sư Franklin Edgerton chỉ ra rằng “lời răn dạy” trong các câu chuyện không liên quan đến hệ thống luân lý và thường trái ngược với nó, mà thay vào đó, đề cao sự khôn ngoan và hành xử sáng suốt trong cuộc sống, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị Mặc dù vậy, tác phẩm Panchatantra đã thâm nhập vào đời sống người dân Ấn Độ qua nhiều ngôn ngữ địa phương, trở thành một bộ truyện ngụ ngôn phong phú và sâu sắc, phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau của xã hội.

Panchatantra là một tập truyện gồm năm phần, với số lượng truyện khác nhau trong các bản khác nhau (84, 75 hoặc 70 truyện) Tác phẩm này mang đặc trưng của thể loại ngụ ngôn, đồng thời phản ánh tư duy văn hóa Ấn Độ sâu sắc Nội dung của các câu chuyện hấp dẫn với nhiều tình tiết bất ngờ, chứa đựng những bài học giáo huấn về đạo đức và luân lý Panchatantra đề cập đến nhiều vấn đề xã hội như chống lại chế độ tập quyền, phê phán sự tham lam, và tôn vinh tình đoàn kết, trí tuệ và nhân đạo trong ứng xử Bộ truyện được chia thành năm phần: I Mitra-bheda (Sự chia rẽ bạn bè); II Mitra-lābha (Kết bạn); III Kākolūkīyam (Chiến tranh giữa quạ và cú); IV Labdhapraṇāśam (Mất của); V Aparīkṣitakārakaṃ (Cách xử thế không chấp nhận được).

Hệ thống nhân vật trong Panchatantra rất đa dạng, bao gồm con người, động vật biết nói, đồ vật và cả thần linh Mặc dù có sự hiện diện của thần linh, nhưng vai trò của chúng chủ yếu là biểu thị ý nghĩa biểu tượng và gợi nhớ các giá trị văn hóa truyền thống.

Panchatantra có kết cấu đặc trưng của ngụ ngôn Ấn Độ, với các câu chuyện liên kết chặt chẽ theo lối xâu chuỗi và lồng ghép vào nhau trong một khung truyện bao quát Tác phẩm sử dụng nhiều ẩn dụ và hoán dụ, kết hợp với câu châm ngôn hoặc lời bình ở cuối mỗi truyện, tạo nên nội dung sâu sắc cho toàn bộ tác phẩm.

Panchatantra, một tác phẩm văn học cổ điển Ấn Độ, đã có sức ảnh hưởng lớn lao, vượt ra ngoài biên giới Ấn Độ và trở thành một phần của văn học thế giới Tại quê hương, tác phẩm này có ít nhất 25 dị bản, trong khi trên toàn cầu đã có tới 200 phiên bản khác nhau.

The narratives referred to as "morals" in these stories lack any true moral foundation; instead, they are often amoral or even immoral They emphasize cleverness and practical wisdom, particularly in the realms of life, politics, and governance This perspective is highlighted in Abdul Majeed Nadwi's 2013 article, “Panchatantra: Its Impact on Perso-Arabic Literature,” published in the IOSR Journal of Humanities and Social Science.

So sánh v ề n ội dung ý nghĩa củ a Panchatantra và Aesop

Truyện ngụ ngôn thường truyền tải những nguyên tắc đạo đức và cách ứng xử trong xã hội, đi kèm với hậu quả tốt hoặc xấu từ việc áp dụng các nguyên tắc này Điều này giúp người đọc rút ra bài học đạo đức, kinh nghiệm sống và triết lý sống cho bản thân Tính chất của các quy tắc ứng xử không được xác định là tích cực hay tiêu cực, mà phụ thuộc vào kết quả của hành động dựa trên những nguyên tắc đó Đây là đặc trưng nổi bật của thể loại truyện ngụ ngôn.

Nội dung của truyện ngụ ngôn được hình thành từ các hệ thống giá trị do cộng đồng quy định, phản ánh quan niệm của mỗi dân tộc về hành xử trong mối quan hệ xã hội Điều này cũng chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như văn hóa, tôn giáo và chính trị của khu vực hoặc quốc gia Hệ thống đề tài là một khía cạnh quan trọng thể hiện ý nghĩa của truyện ngụ ngôn So sánh hệ thống đề tài giữa hai tập truyện không chỉ mang lại kết quả về mặt văn học mà còn giúp khám phá các giá trị văn hóa – xã hội, từ đó tạo cơ sở cho những so sánh này.

2.1.1 Hệ thống đề tài Đề tài là phương tiện để phân loại những truyện ngụ ngôn có nội dung ý nghĩa cùng hướng đến một vấn đề Sự khác biệt cơ bản giữa Panchatancha và ngụ ngôn Aesop là đơn vị truyện Panchatantra là một tập truyện với các truyện có sự liên kết trực tiếp về nội dung còn ngụ ngôn Aesop là tập hợp nhiều truyện riêng lẻ Vì thế, chúng tôi phân chia hệ thống đề tài thành hai bộ phận để có thể so sánh thấu đáo hơn:

[1] Hệ thống đề tài chung của tập truyện

[2] Hệ thống đề tài riêng của từng truyện

Mặc dù không thể so sánh nhóm [1] của ngụ ngôn Aesop do thiếu hệ thống đề tài chung, việc so sánh từng truyện riêng lẻ giữa Panchatantra và Aesop lại bỏ qua nhiều nội dung ý nghĩa quan trọng trong Panchatantra Vì vậy, chúng tôi đề xuất sử dụng cách phân loại này để thực hiện so sánh hiệu quả hơn.

81 Vũ Anh Tuấn (chủ biên) – Phạm Thu Yến – Nguyễn Việt Hùng – Phạm Đặng Xuân Hương (2014), sđd, tr 168

[1] Hệ thống đề tài chung của tập truyện

Ngụ ngôn Aesop là một tập hợp các truyện ngụ ngôn độc lập, không có sự liên kết nội dung chặt chẽ Tác phẩm cổ này được sáng tác và truyền bá qua nhiều hình thức, dẫn đến việc sưu tầm, kể lại và dịch thuật phụ thuộc vào từng dịch giả hoặc biên tập viên Do đó, mỗi tập truyện có thể khác nhau về số lượng và nội dung các truyện được chọn lọc Vì vậy, ngụ ngôn Aesop không có một hệ thống đề tài nhất quán mà chỉ có các đề tài riêng biệt của từng truyện.

Panchatantra là một tập truyện gồm 5 quyển, trong đó các truyện ngụ ngôn riêng lẻ có sự liên kết chặt chẽ về cốt truyện Tập truyện này không chỉ có đề tài khái quát, định hướng cho toàn bộ nội dung, mà còn chứa đựng các đề tài cụ thể cho từng truyện Mỗi truyện không chỉ phản ánh đề tài chung mà còn mở rộng, mô tả sâu sắc hơn các khía cạnh khác nhau của chủ đề này.

Theo khảo sát của chúng tôi, hệ thống đề tài chung của Panchatantra được hình thành từ mục đích của tập truyện được giới thiệu trong câu chuyện mở đầu và từ việc xác định các đề tài chính trong năm quyển truyện Các đề tài này được tóm tắt trong bảng dưới đây.

Cách thức khảo sát Đề tài chính Mô tả cụ thể

- Khảo sát mục đích kể chuyện (thông qua truyện mở đầu);

- Khảo sát những truyện làm truyện khung trong từng quyển truyện

Phản ánh những bài học giáo dục chính trị

Quyển 1: Cách xử sự trước những vấn đề xảy ra trong quốc gia

Quyển 2: Cách xử sự trước những đe dọa từ bên ngoài đến an ninh quốc gia

Quyển 3: Cách thức giải quyết mâu thuẫn với kẻ thù và tác dụng của việc nghe lời khuyên của trung thần

Quyển 4: Những phẩm chất cần thiết để trở nên khôn ngoan

Quyển 5: Những phẩm chất cần thiết để trở nên khôn ngoan

Bảng 2.1 Bảng thống kê hệ thống đề tài chung của Panchatantra

Truyện mở đầu của Panchatantra giới thiệu bối cảnh ra đời và định hướng chủ đề cho toàn bộ tập truyện Vishnusharman, một nhà hiền triết thông thái, được vua Amarasakti mời dạy dỗ ba người con trai ngu đần về khoa học chính trị Ông đã đồng ý và biên soạn bộ sách Panchatantra gồm 5 quyển để truyền đạt kiến thức cho các hoàng tử Do đó, Panchatantra có thể được xem là bộ sách dạy nghệ thuật trị nước, với đề tài trung tâm xoay quanh các vấn đề về khoa học chính trị.

Quyển 1 tập trung vào nhân vật con chó rừng Damanaka và những xung đột của nó với con chó rừng Karakata, vua sư tử Pingalaka và con bò Sanddivaka Những xung đột này đều xoay quanh vấn đề con chó rừng Damanaka muốn chiếm vị trí quan trọng trong triều đình của Pingalaka nên tìm mọi cách để đạt được mục đích Dù Karataka đã nhiều lần ngăn cản, nhưng Damanaka vẫn lợi dụng sự tín nhiệm của sư tử Pingalaka và bò Sanddivaka để đặt điều nói xấu cả hai, gây ra mâu thuẫn giữa hai con vật này Kết thúc câu chuyện là cái chết của con bò và sự thành công của Damanaka trong việc trở thành người thân tín nhất của vua sư tử Có thể thấy, quyển 1 tập trung vào rất nhiều khía cạnh trong đời sống chính trị đặt trong mối quan hệ giữa vua – bầy tôi: cách hành xử, trách nhiệm… của một vị vua, thái độ, nghĩa vụ của bầy tôi với vua

Quyển 2 thuật lại cuộc hành trình đi tìm nơi trú ngụ của bốn con vật: quạ, chuột, rùa và nai Từ thế giới động vật biết nói trong quyển 1 đến quyển 2 đã có sự xuất hiện của con người – nhân vật thợ săn Đây là dấu hiệu của sự nguy hiểm, sự đe dọa tới hòa bình, an toàn của các con thú Hình ảnh người thợ săn đại diện cho mối hiểm họa đến từ bên ngoài mà các con thú bằng cách hành xử khôn ngoan đã có thể tự bảo vệ mình và bạn bè Do đó, đề tài ở quyển 2 gắn liền với bài học về cách ứng phó trước những đe dọa, hiểm họa từ bên ngoài đến anh ninh quốc gia Đề tài của quyển 3 được xây dựng dựa trên tình huống đặt ra trong truyện khung về mối hiềm khích giữa quạ và cú Theo đó, câu chuyện làm rõ mâu thuẫn giữa quạ và cú; sự chống trả của nhà quạ trước những hành động của nhà cú Quạ và cú là kẻ thù của nhau, cú có vẻ ngoài xấu xí, chỉ hoạt động vào ban đêm và luôn tìm cách giết mọi con quạ mà chúng bắt gặp để trả món nợ cũ Cuộc chiến giữa quạ và cú đại diện cho cuộc chiến giữa điều tốt và xấu, giữa ngày và đêm Để giành thắng lợi, nhà quạ đề ra 6 kế sách đối phó với kẻ thù gồm: hòa bình, chiến tranh, tiến công, phòng thủ, cầu viện hoặc biện pháp hai mặt Và trong cuộc chiến, vua quạ nhờtin tưởng và nghe theo lời khuyên của một con quạ già thông thái nên đã giành chiến thắng trong khi vua cú vì nghe lời của kẻ nịnh thần, bỏ qua lời khuyên của trung thần nên thất bại Đề tài của quyển 3 chú trọng vào biện pháp giải quyết mâu thuẫn giữa những kẻthù địch và việc lắng nghe lời khuyên từngười đáng tin cậy

Quyển 4 và quyển 5 có nội dung đơn giản hơn những quyển trên, tập trung vào việc xây dựng tính cách để có một lối sống khôn ngoan, tốt đẹp Bằng việc chỉ ra các bài học mang tính tiêu cực gắn với ví dụ minh họa tiêu cực: cả tin như con cá sấu và hành động thiếu suy nghĩ như người Balamon, quyển 4 và 5 dẫn giải các đức tính tốt qua việc phủ định từng bài học và ví dụ tiêu cực ấy

Panchatantra, khi được xem xét như những bài học về khoa học chính trị, mang đến những hướng dẫn quý giá về việc rèn luyện phẩm chất và hành vi cần thiết để trở thành một nhà lãnh đạo thành công Tập truyện này không chỉ cung cấp kiến thức mà còn nhấn mạnh tầm quan trọng của kỹ năng lãnh đạo trong việc đạt được thành công.

Tập truyện Panchatantra sở hữu một hệ đề tài phong phú, với khả năng lý giải ở nhiều tầng mức khác nhau Các đề tài lớn không chỉ được mô tả trực tiếp trong một số truyện mà còn được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng trong những truyện khác Điều này cho thấy sự đa dạng và sâu sắc trong nội dung của tập truyện.

[2] Hệ thống đề tài riêng của từng truyện

Như đã xác định trong chương 1, chúng tôi phân chia nội dung ý nghĩa của truyện ngụngôn thành 2 nhóm (trong đó nhóm 1 gồm hai nhóm nhỏ):

(1) Truyện ngụ ngôn phản ánh triết lý dân gian Gồm:

Truyện không chỉ mang đến những bài học quý giá về kinh nghiệm ứng xử và hành động, mà còn phản ánh sâu sắc các quan niệm triết học, tôn giáo, cùng nhận thức về thế giới và con người.

(2) Truyện phản ánh những cuộc đấu tranh, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội

Chúng tôi đã khảo sát 73 truyện ngụ ngôn trong Panchatantra và 251 truyện ngụ ngôn Aesop, phân chia thành các đề tài cụ thể để so sánh Kết quả cho thấy, các đề tài về kinh nghiệm ứng xử và hành động chiếm ưu thế trong cả hai tập truyện, trong khi các đề tài về đấu tranh và mâu thuẫn xã hội ít được đề cập hơn Đặc biệt, tỉ lệ truyện của nhóm 1B trong Panchatantra cao gấp hơn hai lần so với ngụ ngôn Aesop, cho thấy Panchatantra có nội dung phong phú và đa dạng, đề cập đến nhiều khía cạnh của hành động và nhận thức trong triết lý dân gian, trong khi Aesop chủ yếu tập trung vào kinh nghiệm ứng xử.

So sánh v ề nhân v ậ t c ủ a Panchatantra và Aesop

95 Huỳnh Ngọc Trảng – Phạm Thiếu Hương – Nguyễn Tuấn (dịch) (2000), sđd, tr 91

96 Huỳnh Ngọc Trảng – Phạm Thiếu Hương – Nguyễn Tuấn (dịch) (2000), sđd, tr 17

2.2.1 Hệ thống nhân vật và định danh nhân vật

Thể loại truyện ngụ ngôn cho phép tác giả tự do lựa chọn và xây dựng nhân vật, như nhà nghiên cứu Đinh Gia Khánh đã chỉ ra, nhân vật có thể là bất kỳ đối tượng nào trong vũ trụ Những nhân vật này được đưa vào môi trường đặc biệt của truyện ngụ ngôn nhằm truyền tải bài học kinh nghiệm qua cốt truyện Khác với truyện cổ tích, nhân vật trong truyện ngụ ngôn không mang yếu tố kỳ ảo mà được xây dựng hoàn toàn từ trí tưởng tượng, giúp tác giả diễn đạt linh hoạt những khái niệm và bài học triết lý Vì vậy, nhân vật trong truyện ngụ ngôn đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người đọc rút ra ý nghĩa từ mỗi tác phẩm.

Hệ thống nhân vật trong hai tập truyện Panchatantra và ngụ ngôn Aesop rất phong phú, với 341 nhân vật trong Panchatantra và 638 nhân vật trong Aesop Chúng tôi đã phân loại các nhân vật thành 6 nhóm chính: Người, Động vật, Thực vật, Đồ Vật, Thần linh/ma quỷ và loại Khác Số lượng nhân vật lớn và đa dạng này thể hiện sự phong phú trong nội dung của cả hai tác phẩm.

Kết quả khảo sát hệ thống nhân vật trong Panchatantra và ngụ ngôn Aesop cho thấy cả hai tập truyện đều có 6 loại nhân vật, trong đó con người và động vật là hai loại chính, chiếm số lượng lớn Mỗi loại nhân vật đều rất đa dạng, phản ánh nhiều kiểu mẫu khác nhau trong xã hội Sự phong phú này chứng tỏ cả hai tập truyện ngụ ngôn đều mang lại giá trị phản ánh sâu sắc và rộng lớn về cuộc sống.

Hệ thống nhân vật trong hai tập truyện có nhiều khác biệt, mặc dù vẫn có một số điểm tương đồng Trong Panchatantra, có đủ 6 loại nhân vật, nhưng chủ yếu tập trung vào nhân vật người và động vật, chiếm tới 92.7% Tỷ lệ giữa hai loại nhân vật này cũng không chênh lệch lớn (chỉ 3.5%) Các loại nhân vật khác không chỉ chiếm tỷ lệ thấp mà còn rất ít kiểu, như nhân vật thực vật chỉ xuất hiện trong một truyện duy nhất.

97 Đinh Gia Khánh (Chủ biên) – Chu Xuân Diên – Võ Quang Nhơn (2000), sđd, tr 394

98 Chú thích: Bảng kết quả khảo sát xin xem ở Phụ lục: PL.1.6

P.V.14 nhưng cũng không phải là nhân vật trung tâm) Trong khi đó, ở ngụ ngôn Aesop, loại nhân vật chiếm tỉ lệ lớn nhất là động vật (56.7%) có tỉ lệ gần gấp đôi (~ 1.9 lần) so với loại nhân vật là người; các loại nhân vật khác tuy có tỉ lệ không cao nhưng lại có số kiểu nhân vật tương đối đa dạng, xuất hiện ở nhiều lượt truyện và giữ vai trò là nhân vật trung tâm khá nhiều 99 Có thể thấy, Panchatantra chỉ tập trung ở hai loại nhân vật chính là người và động vật trong khi ở ngụ ngôn Aesop thì sự phân bố lại tập trung chủ yếu vào động vật Điểm khác biệt thứ hai nằm trong loại nhân vật con người Ở loại nhân vật này, chúng tôi nhận xét dựa trên cơ cấu thành phần xã hội trong nhóm nhân vật nam Quan sát các kiểu nhân vật người nam 100 ở Panchatantra, có thể thấy các kiểu nhân vật này xuất hiện và phân bố theo bốn đẳng cấp xã hội của người Ấn Độ, gồm: đẳng cấp Bà la môn (Brahmana) là những người Bà la môn, những tu sĩ, đạo sĩ…; đẳng cấp vương công, quý tộc (Kshatriya) bao gồm những chiến binh và nhà cầm quyền; đẳng cấp bình dân (Vaishya) là những người theo nghề buôn bán; đẳng cấp tiện dân (Sudra) là những người làm công việc chân tay, những nông dân và người làm nông nghiệp 101 Trong khi đó, hệ thống kiểu nhân vật người nam 102 ở ngụ ngôn Aesop thì bao gồm năm giai cấp theo sự phân chia của nhà nước chiếm hữu nô lệ Hy Lạp cổđại gồm: quý tộc ruộng đất, quý tộc công thương, nông dân tự do, thợ thủ công và nô lệ 103 Mặt khác, tính chất của sự soi chiếu giữa các nhân vật với những đẳng cấp hay giai cấp trong xã hội ở hai tập truyện là khác nhau Panchatantra tập trung xây dựng nhiều truyện ngụ ngôn đề cập đến hai giai cấp có địa vị cao trong xã hội là Brahmana và Kshatriya với một thái độ phê phán khá nặng nề qua các bài học kinh nghiệm, những triết lý rút ra từ các nhân vật thuộc hai đẳng cấp này, đặc biệt là đẳng cấp Bà la môn Nhà nghiên cứu Patrick Olivelle trong công trình nghiên cứu của ông về Panchatantra cho rằng dù Panchatantra được viết bởi một người thuộc đẳng cấp Bà la môn là Vishnusarma, nhưng hầu hết những câu chuyện đều cho thấy hình ảnh một người Bà la môn giả hình, luôn che dấu sự tham lam và thói xấu của mình bằng bề ngoài thánh thiện, đạo hạnh 104 Điều này biến nhân vật người Bà la môn trở thành đối tượng bị phê phán, đả kích đồng thời cho thấy góc nhìn mới về vai trò và vị thế của người Bà la môn trong xã hội Bên cạnh đó, những nhân vật đại diện cho các đẳng cấp khác thì không được chú trọng nhiều, nếu có thì chủ yếu tập trung vào những nhân vật thương gia, những người thợ thủ công với thái độ khá trung

99 Chú thích: Bảng kết quả khảo sát xin xem ở Phụ lục: PL.1.7

100 Chú thích: xin xem ở Phụ lục: PL.1.6

101 Xin xem: Nhiều tác giả (2008), sđd, tr 310 – 311

102 Chú thích: xin xem ở Phụ lục: PL.2.6

103 Xin xem: Nhiều tác giả (1998), V ăn học phương Tây, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 11

104 Xin xem: Olivelle, Patrick (translator) (1997), The Paủcatantra – The book of India’s Folk Wisdom, Oxford

Ngụ ngôn Aesop và Panchatantra có sự khác biệt rõ rệt về nhân vật, đặc biệt là trong việc phản ánh tầng lớp xã hội Trong khi Panchatantra tập trung vào các nhân vật từ tầng lớp thấp như nông dân và thợ thủ công, Aesop chủ yếu sử dụng những nhân vật này nhưng ít đề cập đến tầng lớp quý tộc Thêm vào đó, tỷ lệ nhân vật nữ trong Aesop chỉ chiếm 1.7% so với 12.6% trong Panchatantra, cho thấy Aesop không chú trọng đến sự khác biệt giới trong hành vi và hành động Các nhân vật nữ trong Panchatantra thường được xây dựng với hai kiểu: phụ nữ đã lập gia đình nhưng không có con và phụ nữ đã lập gia đình và có con, điều này phản ánh quan niệm văn hóa Ấn Độ về vị trí và cách hành xử của phụ nữ, đồng thời truyền tải những bài học và giá trị truyền thống Phân tích sâu hơn về chủ đề này sẽ được trình bày ở mục tiếp theo.

Sự khác biệt trong hệ thống nhân vật động vật giữa Panchatantra và ngụ ngôn Aesop thể hiện rõ qua tỷ lệ giữa động vật hoang dã và vật nuôi Ở Panchatantra, tỷ lệ động vật hoang dã chiếm 43.1% (147/341 nhân vật), cao hơn so với 33.5% (214/638 nhân vật) ở Aesop Điều này phản ánh quan niệm của người Ấn về mối quan hệ giữa thế giới tự nhiên và con người, với nhiều câu chuyện diễn ra trong rừng và sự đan xen giữa các loài Ngược lại, Aesop nhấn mạnh tập tính và vai trò của từng loài trong môi trường sống của chúng Trong khi Panchatantra có các nhân vật như sư tử, chó, và voi gắn liền với tôn giáo Ấn Độ, Aesop lại tập trung vào những loài như bò, cừu, và cáo, phản ánh đời sống lao động và sinh hoạt của người Hy Lạp.

Sự tương đồng và khác biệt trong hệ thống nhân vật phản ánh những đặc điểm riêng biệt của từng loại nhân vật mà chúng tôi đã khảo sát Những so sánh này không chỉ giúp làm nổi bật các đặc trưng quan trọng của từng hệ thống nhân vật trong các tập truyện mà còn sẽ được phân tích chi tiết hơn ở mục 2.2.2, dựa trên đặc điểm thi pháp thể loại.

Nhân vật trong truyện ngụ ngôn là một dạng nhân vật văn học, được xác định qua nhiều yếu tố, bao gồm cả tên gọi Tên gọi của nhân vật thường liên quan chặt chẽ đến nội dung câu chuyện, là cơ sở để xây dựng hình tượng nghệ thuật và góp phần tạo nên ý nghĩa bài học của truyện Chúng tôi nhận thấy một số đặc điểm trong cách định danh nhân vật của hai tập truyện.

Sau khi khảo sát 341 nhân vật trong Panchatantra và 638 nhân vật trong ngụ ngôn Aesop, chúng tôi đã thống kê được 6 thành tố tham gia vào kết cấu tên nhân vật.

Các thành tố trong kết cấu tên nhân vật

Từ chỉ quan hệ thân thuộc của con người

Từ chỉ tính chất, đặc điểm của sự vật

Từ chỉ chủng loại động/thực/đồ vật, hiện tượng tự nhiên

Từ chỉ địa vị xã hội A3 x x

Bảng 2.2 Bảng thống kê 6 thành tố trong kết cấu tên nhân vật ngụ ngôn

Bảng 2.2 mô tả cấu trúc tên nhân vật trong hai tập truyện ngụ ngôn, chia thành hai nhóm chính: nhóm A (gồm các phân nhóm A1 đến A5) và nhóm B (gồm các phân nhóm B1 đến B4) Nhóm A bao gồm các từ chỉ loại, trong khi nhóm B chứa các yếu tố phụ nhằm phân biệt và làm rõ đối tượng trong nhóm A Một số tên nhân vật chỉ thuộc một trong hai nhóm, trong khi những tên khác có thể là sự kết hợp giữa hai nhóm Tuy nhiên, không phải tất cả các trường hợp trong mỗi nhóm đều có thể kết hợp với nhau, và không phải cặp kết hợp nào cũng xuất hiện trong cả hai tập ngụ ngôn Bảng còn thể hiện khả năng kết hợp giữa các trường hợp trong nhóm A và nhóm B.

B1 có khả năng kết hợp với tất cả các trường hợp trong nhóm A, chỉ xuất hiện ở Panchantantra Ví dụ, A1+B1 là Sư tử Pingalaka (P.I.1), A2+B1 là Người lái buôn Đantila (P.I.4), A3+B1 là Vua Bhadrasena (P.V.11), A4+B1 là Cậu bé Đharmađêva (P.I.22), và A5+B1 là Người đàn ông Kartri (P.II.6) Tên riêng của nhân vật được đặt theo nhiều tiêu chí khác nhau: có thể phản ánh tính cách, đặc điểm, thái độ ứng xử, nguồn gốc, hoặc mang ý nghĩa về điều kiện và phương châm sống giúp nhân vật đạt được thành công.

B2 có khả năng kết hợp với các nhóm từ A1 đến A3 trong Panchatantra, nhưng chỉ kết hợp với A1 và A2 trong một số trường hợp của ngụ ngôn Aesop Ví dụ, sự kết hợp giữa A1 và B2 có thể thấy trong các câu chuyện như "Chó lang con" (P.IV.5) và "Khỉ mẹ" (A.56) Đối với A2 và B2, ta có "Vợ người thợ dệt" (P.I.5) và "Con trai người nông dân" (A.42) Cuối cùng, A3 và B2 được minh họa qua "Người Balamon chồng" (P.II.3).

B3 chỉ kết hợp với A1 và xuất hiện nhiều trong Panchatantra, trong khi ngụ ngôn Aesop chỉ có một vài trường hợp, như Chim sẻ mái (P.I.16), Chim tước mái (P.I.19) và Dê cái (A.61) Sự khác biệt này có thể giải thích bởi tỷ lệ nhân vật nữ (con mái) được đề cập trong phần 2.2.1, cho thấy ngụ ngôn Aesop ít chú trọng đến nhân vật nữ, dẫn đến việc rất ít trường hợp có tên nhân vật kèm theo yếu tố chỉ giới tính.

 B4 chỉ xuất hiện trường hợp đi kèm với nhóm A1 và A5 và chỉ có một ít trong ngụ ngôn Aesop Ví dụ: A1+B4: Con chuột già (A.06); A5+B4: Người đàn ông mù (A.41)

Kết quả khảo sát cho thấy có sự tương đồng trong cấu trúc tên nhân vật giữa Panchatantra và ngụ ngôn Aesop, với sự xuất hiện của các nhóm từ để đặt tên Tuy nhiên, sự khác biệt rõ rệt là tên nhân vật trong Panchatantra thường được cấu thành từ cả hai bộ phận A và B, mặc dù không có trường hợp A+B4 Tên riêng trong Panchatantra (nhóm A+B1) cũng mang ý nghĩa chỉ tính chất, đặc điểm của nhân vật Ngược lại, ngụ ngôn Aesop chỉ có một số ít tên nhân vật kết cấu cả nhóm A và B, trong khi phần lớn tên nhân vật chỉ gồm một thành tố, thường là nhóm A.

105 Chú thích: Xin xem bảng tên riêng của nhân vật trong Panchatantra ở Phụ lục: PL.1.8

So sánh v ề k ế t c ấ u c ủ a Panchatantra và Aesop

Trong nghiên cứu về tự sự học, khái niệm kết cấu được hiểu theo nhiều cách khác nhau Tuy nhiên, trong khóa luận này, chúng tôi sẽ áp dụng định nghĩa kết cấu từ bộ Từ điển thuật ngữ văn học (1992) như một công cụ chính Theo đó, kết cấu được xem là tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, không chỉ dừng lại ở sự tiếp nối bề mặt mà còn bao hàm sự liên kết bên trong và nghệ thuật kiến trúc nội dung Bố cục là một phương diện của kết cấu, bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, thời gian, không gian nghệ thuật, và các yếu tố ngoài cốt truyện, nhằm tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật Kết cấu cũng có thể được phân chia thành hai dạng: kết cấu tổng thể, liên quan đến hình thức văn bản, và kết cấu cốt truyện, tập trung vào sự sắp xếp các yếu tố nội dung.

2.3.1 Mô hình kết cấu tổng thể

2.3.1.1 Mô hình kết cấu tổng thể của Panchatantra

Khái niệm kết cấu trong tác phẩm văn học độc lập được áp dụng cho Panchatantra, nhưng tình hình ở đây phức tạp hơn Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Panchatantra là tập truyện ngụ ngôn với kết cấu đặc trưng của truyện kể dân gian Ấn Độ, hình thành kiểu truyện lồng khung như trong Jataka hay Mahabharata và Ramayana Kết cấu này phức tạp, với các câu chuyện liên kết chặt chẽ, tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật Mặc dù 73 truyện trong Panchatantra có kết cấu rõ ràng khi xem xét riêng lẻ, nhưng khi kết hợp lại, chúng tạo nên một cấu trúc chung, thể hiện sự liên kết không chỉ ở hình thức mà còn ở nội dung.

124 Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), sđd, tr 106 – 107

125 Đỗ Đức Hiểu – Nguyễn Huệ Chi – Phùng Văn Tửu – Trần Hữu Tá (chủ biên) (2004), T ừ điển văn họ c (b ộ m ớ i),

Nxb Thế giới, Hà Nội Mục từ: Kết cấu, tr 715

Kết cấu của tập truyện Panchatantra được hình thành từ sự liên kết chặt chẽ giữa các truyện đơn lẻ, tạo nên một diễn biến nội dung xuyên suốt Khi phân tích kết cấu tổng thể, cần xem xét cả hai khía cạnh: cấu trúc của toàn bộ tập truyện và cấu trúc của từng truyện riêng lẻ.

Mô hình kết cấu của tập truyện

Tập truyện Panchatantra gồm 73 truyện, chia thành 5 quyển với số lượng truyện khác nhau Mỗi quyển có một câu chuyện trung tâm (truyện nền) với người kể chuyện là Visnukarman và người nghe không xác định Các nhân vật trong truyện nền trở thành người kể chuyện cho các tiểu truyện, tạo thành câu chuyện bậc Hai Tương tự, các nhân vật trong truyện bậc Hai có thể kể thêm các câu chuyện, hình thành truyện bậc Ba và tiếp tục cho đến bậc Bốn Dựa vào cấu trúc này, Panchatantra có hai mô hình kết cấu tổng thể: kết cấu truyện trong truyện và kết cấu song song, với những đặc điểm và sự phân biệt rõ ràng giữa chúng.

Kết cấu Kết cấu truyện trong truyện Kết cấu song song Đặc điểm Có nhiều truyện nền Có một truyện nền

Truyện ở bậc trần thuật cao hơn làm truyện nền cho truyện ở bậc trần thuật thấp hơn

Các tiểu truyện phải có cùng truyện nền

Các truyện trong một kết cấu phải có bậc truyện khác nhau

Các truyện trong một kết cấu phải có cùng bậc truyện

Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, văn bản trần thuật có thể có nhiều người trần thuật, tạo ra các tầng bậc trần thuật khác nhau Thông tin này được trình bày trong giáo trình "Dẫn luận thi pháp học" của ông, xuất bản năm 2007 tại Đại học Huế.

Bảng 2.4 Đặc điểm của kết cấu truyện trong truyện và kết cấu song song trong Panchatantra

Kết cấu truyện trong truyện là một kỹ thuật văn học cổ xưa, nổi bật trong tác phẩm Panchatantra, kế thừa từ các sử thi và truyện kể đặc sắc của Ấn Độ Đặc điểm chính của kết cấu này là sự kết hợp của những truyện kể dân gian ngắn, tương đối độc lập, lồng ghép trong một truyện kể chính và trở thành phần của nó Qua khảo sát năm quyển trong tập Panchatantra, có thể phân loại kết cấu này thành hai dạng: dạng gián đoạn và dạng liên tục.

Sơ đồ 2.1 Hai sơ đồ của kết cấu “truyện trong truyện” trong Panchatantra

(Chú thích: 1, 2, 3, 4 là các bậc trần thuật; A, B, C, D là người trần thuật)

Kết cấu truyện trong truyện có thể được chia thành hai dạng: gián đoạn và liên tục Dạng gián đoạn, như sơ đồ (a), cho phép các tiểu truyện được lồng vào truyện nền và vào nhau ở nhiều cấp độ khác nhau, thường thấy trong các quyển một, hai, ba và bốn của Panchatantra Trong khi đó, dạng liên tục, như sơ đồ (b), cho phép các tiểu truyện lồng vào truyện nền theo một trình tự nhất định, chỉ xuất hiện ở quyển 5 của Panchatantra Để minh họa cho dạng gián đoạn, chúng tôi chọn “Quyển 2: Kết bạn” làm ví dụ điển hình.

“Quyển 5: Cách xử thế không chấp nhận được” cho sơ đồ (b) như sau:

Bậc trần thuật Quyển 2: Kết bạn

Bậc 1 2 Quạ, chuột, rùa và nai

Bậc 2 2.1 Câu chuyện của Hiranyaka

Bậc 3 2.1.1 Người đàn bà đổi mè giã lấy mè chưa giã

Bậc 4 2.1.1.1 Người thợ săn, lợn rừng và chó rừng

Bậc 2 2.2 Cuộc phiêu lưu của Práptavramartha

Bậc 2 2.3 Câu chuyện chàng thợ dệt Somilaka

Bậc 3 2.3.1 Hai con chó lang theo đuổi con bò rừng

Bậc trần thuật Quyển 5: Cách xử thế không chấp nhận được

Bậc 1 5.1 Gã thợ cạo và những người hành khất

Bậc 1 5.2 Người bà la môn, vợ người bà la môn và con chồn

Bậc 2 5.2.1 Bốn người bà la môn đi tìm giàu sang

Bậc 3 5.2.1.1 Những người bà la môn và con sư tử

Bậc 3 5.2.1.2 Bốn nhà thông thái

Bậc 3 5.2.1.3 Hai con cá và con ếch

Bậc 3 5.2.1.6 Người bà la môn và hũ bột

Bậc 3 5.2.1.8 Quỷ Rákchasa, kẻ cắp và con khỉ

Bậc 3 5.2.1.9 Thằng mù, thằng gù, và nàng công chúa có ba vú

Bậc 4 5.2.1.9.1 Người bà la môn và con quỷ Rákchasa

Bậc 3 5.2.1.10 Con chim có hai mỏ

Bậc 3 5.2.1.11 Người bà la môn được tôm cứu

Trong quyển 2, chúng tôi trình bày kết cấu truyện trong truyện theo dạng gián đoạn, với ba cấp độ truyện lồng ghép khác nhau: 2, 2.1, 2.1.1 và 2.1.1.1 Sơ đồ này minh họa sự phức tạp và đa dạng trong cách xây dựng cốt truyện, tạo nên một trải nghiệm đọc thú vị cho độc giả.

Trong tác phẩm, có nhiều cấp độ trần thuật liên tục, bắt đầu từ nhân vật Visnukarman, người kể câu chuyện bậc Một về Quạ, chuột, rùa và nai Chuột Hiranyaka, nhân vật trong câu chuyện bậc Một, tiếp tục kể câu chuyện bậc Hai về chính mình, và đạo sĩ Vrihatsphik, nhân vật bậc Hai, lại kể câu chuyện bậc Ba về Người đàn bà đổi mè giã lấy mè chưa giã Mạch trần thuật tiếp tục khi nhân vật người chồng trong câu chuyện bậc Ba kể về Người thợ săn, lợn rừng và chó rừng, trước khi quay trở lại bối cảnh bậc Một với chuột Hiranyaka kể thêm một câu chuyện bậc Hai khác Tương tự, rùa Mantharaka trong bậc Một cũng kể câu chuyện bậc Hai về chàng thợ dệt Somilaka, và nhân vật Somilaka lại tiếp tục với câu chuyện bậc Ba về Hai con chó lang theo đuổi con bò rừng Cuối cùng, cấu trúc trần thuật trở về câu chuyện bậc Một để kết thúc Trong quyển 5, cấu trúc truyện lồng ghép diễn ra liên tục, với nhân vật vợ người Bà la môn trong bậc Một kể câu chuyện bậc Hai về Bốn người bà la môn đi tìm giàu sang, từ đó mở ra các câu chuyện bậc Ba và bậc Bốn tiếp theo.

Kết cấu song song trong văn học được xác định bởi mối quan hệ giữa các tiểu truyện trong một truyện nền, với đặc điểm nổi bật là sự kết hợp của những tiểu truyện có cùng bậc trần thuật Điều này tạo ra sự đa dạng và phong phú cho các câu chuyện đơn lẻ, góp phần hình thành một tập truyện phong phú hơn Kết cấu này khá đơn giản và xuất hiện trong cả 5 quyển của Panchatantra, với mô hình kết nối rõ ràng giữa các tiểu truyện.

Sơ đồ 2.2 Kết cấu song song trong Panchatantra

Những tiểu truyện có kết cấu song song phải có cùng bậc trần thuật và xuất phát từ một truyện nền, mặc dù có thể khác người trần thuật Ví dụ, trong sơ đồ, nhóm truyện 1.1.; 1.2.; 1.3 và nhóm 1.2.1; 1.2.2 được sắp xếp theo kết cấu song song Truyện 1.1.1 không được xếp vào nhóm này do không chung truyện nền, mặc dù có cùng bậc truyện với 1.2.1 và 1.2.2 Kết cấu song song thường gắn liền với nội dung và mang ý nghĩa tăng bổ cho truyện nền, vì vậy các truyện trong một kết cấu phải thuộc cùng một truyện nền Kết cấu này phổ biến trong Panchatantra và có thể xuất hiện ở mọi bậc trần thuật Trong quyển 5, nhóm truyện từ 5.2.1.1 đến 5.2.1.11 đều là truyện bậc Ba, do các nhân vật trong truyện nền Bốn người bà la môn kể lại Trong khi đó, quyển 2 có các truyện 2.1., 2.2 và 2.3 thuộc kết cấu song song và là truyện bậc Hai.

Mô hình kết cấu của các truyện ngụ ngôn, như đã trình bày ở chương 1, dựa trên sự tồn tại của phần truyện và phần ngụ ý Trong khi nhiều ngụ ngôn khác có thể thiếu một trong hai phần này, ngụ ngôn Panchatantra của Ấn Độ lại có cả hai phần một cách đầy đủ Mỗi truyện trong Panchatantra là một chỉnh thể rõ ràng, bao gồm các phần như tình huống phát sinh bài học, nội dung truyện kể, bài học rút ra, và vai trò của bài học đó đối với tình huống ban đầu Cấu trúc này giúp người đọc dễ dàng hiểu và tiếp thu các thông điệp mà mỗi truyện muốn truyền tải.

Panchatantra bao gồm ít nhất năm bộ phận chính: đầu tiên là tình huống phát sinh vấn đề cần đưa ra lời khuyên hoặc chỉ dẫn; tiếp theo là lời khuyên từ người kể chuyện, thường được thể hiện qua câu thơ hoặc lời đúc kết ở cuối truyện; sau đó là tên của câu chuyện; tiếp theo là phần kể chuyện chính; và cuối cùng, người kể chuyện sẽ lặp lại lời khuyên hoặc lời đúc kết ở cuối truyện.

Trong kết cấu của câu chuyện, tình huống cần lời khuyên thường phát triển từ mạch chính, nơi nhân vật gặp vấn đề được một nhân vật khác hướng dẫn qua một câu chuyện có bài học Nhân vật đưa ra lời khuyên thường bắt đầu bằng một câu thơ hoặc một tóm tắt ngắn gọn về bài học từ câu chuyện sắp kể Tên truyện cũng đóng vai trò quan trọng, giúp tạo nghĩa cho toàn bộ câu chuyện ngụ ngôn.

Phần truyện chính là một câu chuyện ngụ ngôn độc lập, có thể do tác giả sáng tác hoặc mượn từ kho tàng văn học dân tộc Bài học rút ra từ những truyện này thường được định hướng lại để liên quan đến tình huống cần giải quyết Nhân vật trần thuật sẽ nhắc lại lời khuyên trước khi kể, nhằm khẳng định vấn đề Cốt truyện tiếp tục với các tình huống phát sinh vấn đề mới cần lời khuyên, và các câu chuyện ngụ ngôn được kể theo cấu trúc tương tự Ví dụ, trong truyện "Khỉ và cây cột," nhân vật Đamanaka tìm hiểu hành động lạ của sư tử Pingalaka và nhận được lời khuyên từ Karakata rằng không nên xen vào chuyện của người khác Karakata cảnh báo rằng "Người nào muốn xen vào chuyện của người khác sẽ đi đến chỗ tự hại lấy mình giống như con khỉ dùng tay hái một cái nêm." Sau khi kể xong, Karakata lặp lại lời khuyên và tiếp tục với mạch truyện chính.

2.3.1.2 Mô hình kết cấu tổng thể của ng ụ ngôn Aesop

NGHIÊN CỨ U SO SÁNH PANCHATANTRA VÀ NG Ụ NGÔN ĐÔNG NAM Á T Ừ GÓC ĐỘ TI Ế P NH Ậ N

Ngày đăng: 18/08/2021, 13:55

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Thu Anh – Ng ọ c Bích (tuy ể n d ị ch) (2005), Truy ệ n ng ụ ngôn n ổ i ti ế ng th ế gi ớ i – Ng ụ ngôn Ê-D ố p , Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truyện ngụ ngôn nổi tiếng thế giới – Ngụngôn Ê-Dốp
Tác giả: Thu Anh – Ng ọ c Bích (tuy ể n d ị ch)
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2005
2. Đinh Ngọc Bảo – Nguyễn Thu Hà (2008), “Vị trí, thân phận người phụ nữ qua luật Manu”, T ạ p chí Nghiên c ứu Đông Nam Á , s ố tháng 10/2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vị trí, thân phận người phụ nữ qua luật Manu
Tác giả: Đinh Ngọc Bảo, Nguyễn Thu Hà
Nhà XB: Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á
Năm: 2008
3. Blanche Winder (kể), Nguyệt Tú (dịch), Nh ữ ng truy ệ n Ng ụ ngôn hay nh ấ t c ủ a Aesop, Nxb Kim Đồng, Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những truyện Ngụ ngôn hay nhất của Aesop
Nhà XB: Nxb Kim Đồng
4. Bò Xẻng Khâm Vôông Đa La (chủ biên) (1998), Trần Ngọc Dung (dịch), L ị ch s ử văn học Lào (Văn họ c dân gian), Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Lào (Văn học dân gian)
Tác giả: Bò Xẻng Khâm Vôông Đa La
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1998
5. Lưu Văn Bổng (2017), “Ảnh hưởng – đối thoại – tiếp nhận”, Văn họ c so sánh – M ộ t khoa h ọ c k ế t liên ph ứ c h ợ p, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ảnh hưởng – đối thoại – tiếp nhận
Tác giả: Lưu Văn Bổng
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 2017
6. Nguyễn Duy Cần (2017), Văn minh Đông phương và Tây phương, Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn minh Đông phương và Tây phương
Tác giả: Nguyễn Duy Cần
Nhà XB: Nxb Trẻ
Năm: 2017
7. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truy ệ n c ổ tích Vi ệ t Nam, Quyển một, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kho tàng truy ệ n c ổ tích Vi ệ t Nam
Tác giả: Nguyễn Đổng Chi
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2000
8. Trương Chính (1998), Bình gi ả i ng ụ ngôn Vi ệ t Nam, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bình gi ả i ng ụ ngôn Vi ệ t Nam
Tác giả: Trương Chính
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1998
9. Thiều Chửu (2014), Hán – Vi ệ t t ự điể n, Nxb Thanh Niên, Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hán – Vi ệ t t ự điể n
Tác giả: Thiều Chửu
Nhà XB: Nxb Thanh Niên
Năm: 2014
10. Lương Lập Cơ (1979), Vũ Phong Tạo (lược dịch), “Văn học Đông Nam Á: Nơi hội tụ của bốn hệ thống văn hóa lớn thế giới và những thách thức “toàn cầu hóa” mà văn học phương Đông phải đối mặt”, T ạ p chí Nghiên c ứu văn họ c, số 6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Đông Nam Á: Nơi hội tụ của bốn hệ thống văn hóa lớn thế giới và những thách thức “toàn cầu hóa” mà văn học phương Đông phải đối mặt
Tác giả: Lương Lập Cơ, Vũ Phong Tạo
Nhà XB: Tạp chí Nghiên cứu văn học
Năm: 1979
11. Nguyễn Văn Dân (1998), Lý lu ận văn họ c so sánh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học so sánh
Tác giả: Nguyễn Văn Dân
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1998
12. Nguyễn Văn Dân (2015), Các lý thuy ế t nghiên c ứu văn họ c - Ảnh hưở ng và ti ế p nh ậ n t ừ ngày đổ i m ới đế n nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lý thuyết nghiên cứu văn học - Ảnh hưởng và tiếp nhận từngày đổi mới đến nay
Tác giả: Nguyễn Văn Dân
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 2015
13. Chu Xuân Diên (2015), “Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa dân gian”, Website: https://goo.gl/im4KJ9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hóa dân gian
Tác giả: Chu Xuân Diên
Năm: 2015
14. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hóa Ấn Độ, Nxb TP. Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa Ấn Độ
Tác giả: Nguyễn Tấn Đắc
Nhà XB: Nxb TP. Hồ Chí Minh
15. Cao Huy Đỉnh – Lê Sơn – Đào Phương Bình (dịch), Nguyễn Tấn Đắc (giới thiệu) (1995), Truy ệ n c ổ dân gian Ấn Độ , tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Truy ệ n c ổ dân gian Ấn Độ
Tác giả: Cao Huy Đỉnh, Lê Sơn, Đào Phương Bình
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1995
16. La Mai Thi Gia (2015), Motif trong nghiên c ứ u truy ệ n k ể dân gian – Lý thuy ế t và ứ ng d ụ ng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Motif trong nghiên cứu truyện kể dân gian – Lý thuyết và ứng dụng
Tác giả: La Mai Thi Gia
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2015
17. G.N. Pospelov (chủ biên) (1985), Trần Đình Sử - Lại Nguyên Ân – Lê Ngọc Trà – Nguyễn Nghĩa Trọng (dịch), D ẫ n lu ậ n nghiên c ứu văn họ c, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dẫn luận nghiên cứu văn học
Tác giả: G.N. Pospelov, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Nguyễn Nghĩa Trọng
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1985
18. Đỗ Thu Hà (1999), V ấn đề b ản đị a hóa s ử thi Ramayana Ấn Độ ở m ộ t s ố nước Đông Nam Á, Lu ậ n án Ti ến sĩ Ngữ văn Trường Đạ i h ọ c Khoa h ọ c Xã h ội và Nhân văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vấn đề bản địa hóa sử thi Ramayana Ấn Độ ở một số nước Đông Nam Á
Tác giả: Đỗ Thu Hà
Nhà XB: Luận án Tiến sĩ Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Năm: 1999
19. Đỗ Thu Hà (2015), Giáo trình văn họ c Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình văn họ c Ấn Độ
Tác giả: Đỗ Thu Hà
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2015
20. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), T ừ điể n thu ậ t ng ữ văn họ c, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từđiển thuật ngữvăn học
Tác giả: Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1992

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w