ính cấp thiết của đề t i
Việt Nam hiện đang trong giai đoạn chuyển tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đòi hỏi sự đổi mới trong tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Việc này được coi là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết, được Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đặc biệt trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Năm 1991, khẳng định rằng toàn bộ hệ thống chính trị ở Việt Nam trong giai đoạn mới nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân Quyền lực của nhân dân được đảm bảo hay không phụ thuộc vào việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị Trong các nhiệm kỳ Đại hội gần đây, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) nhằm nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tập trung vào việc đổi mới và kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội Đồng thời, Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) đề ra mục tiêu tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở.
Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm được Đại hội XII của Đảng xác định, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách từ trung ương đến cơ sở.
Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả là một chủ trương quan trọng, được cụ thể hóa qua Nghị quyết số 18 của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII Nghị quyết này nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy chính trị, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống.
Quá trình triển khai các chủ trương và nghị quyết của Đảng về đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đang dần được cải cách theo hướng tinh gọn và hiệu quả Những thay đổi này không chỉ đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, mà còn phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước.
Hệ thống chính trị nước ta hiện đang gặp phải một số hạn chế quan trọng, bao gồm tổ chức bộ máy cồng kềnh với nhiều đầu mối và tầng nấc, hiệu lực và hiệu quả chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các tổ chức chưa rõ ràng, dẫn đến mối quan hệ chưa chặt chẽ và tình trạng chồng chéo, trùng lắp Cơ chế kiểm soát quyền lực còn yếu kém, kỷ luật và năng lực quản lý tại một số cơ quan nhà nước chưa đáp ứng yêu cầu, gây ra các vấn đề tiêu cực như quan liêu, tham nhũng và lãng phí Để khắc phục những hạn chế này, cần tiếp tục đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả, đặc biệt là thực hiện theo tinh thần của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) của Đảng.
1 https://dantri.com.vn/chinh-tri/xay-dung-dang-va-he-thong-chinh-tri-tinh-gon-bo-may-
Các địa phương cần tiến hành nghiên cứu các trường hợp cụ thể để điều chỉnh và áp dụng chủ trương này một cách phù hợp với từng vùng miền.
Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, là một khu vực miền núi biên giới còn nhiều khó khăn, do đó cần thiết phải nghiên cứu sâu về việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Sự ảnh hưởng từ văn hóa, dân tộc, địa lý, kinh tế và xã hội đòi hỏi các nội dung, hình thức và mô hình đổi mới phải được xem xét kỹ lưỡng để nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị tại đây.
Hà Giang là cần thiết
Tác giả đã quyết định chọn đề tài "Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang trong giai đoạn hiện nay" cho luận văn thạc sĩ của mình nhằm nghiên cứu và phân tích những lý do quan trọng liên quan đến sự cần thiết của việc cải cách tổ chức bộ máy chính trị tại địa phương.
ình hình nghiên cứu liên quan đến đề t i
Hệ thống chính trị và việc đổi mới tổ chức bộ máy của nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà chính trị, lý luận và khoa học, dẫn đến những kết quả đáng kể Một số công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này đã được thực hiện.
Các sách chuyên khảo, tham khảo về đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam, đổi mới hệ thống chính trị cơ sở:
Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến, Nguyễn Văn Thảo và Trần Xuân Sầm (đồng chủ nhiệm) đã cùng nhau thực hiện cuốn sách mang tên “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới”, được xuất bản bởi Nxb Chính trị quốc gia Cuốn sách này đề cập đến những phương hướng đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách để phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Vào năm 1999, các tác giả đã đề xuất những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm củng cố, đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới dựa trên cơ sở khoa học và luận cứ xác đáng.
- Trần Đình Hoan, “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2008 Tác giả khái quát những quan điểm, nội dung đổi mới trên cơ sở đảm bảo những nguyên tắc nhất đinh trong quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam
Hoàng Chí Bảo trong tác phẩm “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004) đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước Tác phẩm này làm rõ tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) của Đảng, góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của hệ thống chính trị tại nông thôn trong bối cảnh hiện tại.
Vũ Hoàng Công trong tác phẩm “Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp” (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002) đã cung cấp những kiến thức quan trọng về hệ thống chính trị cơ sở Tác giả không chỉ đánh giá thực trạng và xu hướng phát triển của hệ thống này mà còn đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, tập trung vào việc “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” Văn kiện này được xuất bản bởi Nxb Chính trị quốc gia tại Hà Nội, nhằm mục tiêu cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị tại các cấp cơ sở.
Năm 2002, văn kiện hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải cải cách hệ thống chính trị cơ sở, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị tại các xã, phường và thị trấn.
- Nguyễn Phú Trọng (2008) (chủ biên), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Tác giả đã trình bày những lý luận sâu sắc về quá trình đổi mới tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp khả thi cho sự phát triển và đổi mới phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Nguyễn Quốc Phẩm (2000) trong tác phẩm "Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta" đã tiến hành khảo sát thực trạng hệ thống chính trị cơ sở và việc thực hiện dân chủ ở nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Từ đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hệ thống chính trị và nâng cao dân chủ trong cộng đồng dân cư.
- Dương Xuân Ngọc (2000), Mối quan hệ giữa Đảng, Chính quyền và các đoàn thể nhân dân cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội Tác giả phân tích mối quan hệ tác động biện chứng, cơ chế vận hành giữa các thành tố trong HTCT cấp xã ở nước ta
Một số luận văn, luận án, gồm:
Lưu Minh Trị trong luận án phó tiến sĩ năm 1993 đã nghiên cứu về việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở cấp xã vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội Đề tài khảo sát thực trạng hệ thống chính trị tại khu vực này và đưa ra các phương hướng cùng giải pháp nhằm tiếp tục cải cách và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nông thôn ngoại thành.
Đặng Thị Hiền trong luận văn thạc sĩ năm 1993 đã thực hiện khảo sát thực tế tại tỉnh Tuyên Quang để nghiên cứu tình hình hệ thống chính trị cấp cơ sở ở nông thôn Tác giả đã chỉ ra những vấn đề hiện tại và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính trị tại các vùng nông thôn Việt Nam.
Trần Khánh Sơn trong luận văn thạc sĩ Chính trị học năm 2008 đã khái quát quá trình đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Nghệ An Tác giả phân tích những thành tựu và hạn chế trong quá trình này, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường và đổi mới hệ thống chính trị cấp huyện ở Nghệ An một cách mạnh mẽ hơn.
- Nguyễn Trọng Long, “Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây hiện nay”, luận văn thạc sĩ
Năm 2007, tác giả đã phân tích và khái quát các nội dung lý luận về đổi mới hệ thống chính trị, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao tính sâu sắc và toàn diện của quá trình này Bài viết không chỉ tập trung vào việc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam mà còn áp dụng các giải pháp cụ thể cho địa phương huyện Hoài Đức, nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính trị tại đây.
- Nguyễn Thị Kim Hoa, “Hệ thống chính trị nước Việt Nam Dân chủ
Luận văn thạc sĩ Chính trị học "Cộng hòa giai đoạn 1954-1975" đã khái quát cấu trúc, đặc trưng và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn này Bài viết cũng phân tích những ưu, khuyết điểm của hệ thống chính trị thời kỳ 1954-1975 và liên hệ với hệ thống chính trị hiện nay.
Một số bài báo khoa học, gồm:
Phạm Ngọc Quang trong bài viết “Tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân lao động” đã nhấn mạnh rằng đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) là yếu tố then chốt để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân Tác giả cho rằng trọng tâm của đổi mới HTCT bao gồm cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị khác, trong đó đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cốt lõi Đổi mới HTCT cần được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, điều này không chỉ đảm bảo sự phát triển của dân chủ xã hội chủ nghĩa mà còn góp phần xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh tại Việt Nam hiện nay.
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cho thấy cần thiết phải đổi mới theo hướng tinh gọn và hiệu quả Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong quản lý và điều hành, góp phần cải thiện chất lượng phục vụ nhân dân Tập trung vào việc tối ưu hóa cơ cấu tổ chức, giảm thiểu chồng chéo nhiệm vụ và tăng cường trách nhiệm của các cấp chính quyền.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được kết quả nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
Hệ thống chính trị là tập hợp các tổ chức và cơ chế hoạt động nhằm quản lý xã hội, trong khi hệ thống chính trị cơ sở đề cập đến các tổ chức chính trị ở cấp địa phương Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người dân.
Thứ hai là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị
Thứ ba là đánh giá thực trạng đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
Đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng yêu cầu phát triển địa phương.
ối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hệ thống chính trị Việt Nam, tập trung vào vấn đề đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tại huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện
Xín Mần, tỉnh Hà Giang; một số nội dung có mối quan hệ gắn liền với đổi mới tổ chức bộ máy HTCT huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
- Không gian: Huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
- Thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2019, đây là thời gian một nhiệm kỳ của Đảng bộ huyện Xín Mần (khóa XVII), nhiệm kỳ 2015 – 2020.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn này áp dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh Nó cũng xem xét quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Hà Giang và Đảng bộ huyện Xín Mần về việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị.
Các phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu đề tài Luận văn này tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử được áp dụng trong luận văn nhằm làm nổi bật sự kế thừa và phát triển các kết quả nghiên cứu liên quan đến quá trình đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị Đồng thời, hai phương pháp này cũng giúp giải thích các thuật ngữ và quan điểm của Đảng qua các thời kỳ về đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cơ sở, từ đó rút ra những kết luận quan trọng.
Phương pháp thống kê được áp dụng bằng cách thu thập số liệu thứ cấp từ các tài liệu và báo cáo của Đảng bộ huyện Xín Mần, Ban tổ chức – Nội vụ huyện cùng các phòng, ban chuyên môn khác Mục tiêu là phân tích thực trạng đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tại huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang.
Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng rộng rãi để xử lý và tổng hợp thông tin từ các tài liệu và số liệu, giúp tác giả có cái nhìn tổng quan về việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần.
Phương pháp so sánh là một công cụ quan trọng trong luận văn, giúp làm rõ những điểm mạnh và yếu của hệ thống chính trị huyện Xín Mần Qua đó, cần đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả như Đảng đã đề ra tại Đại hội XII và Hội nghị Trung ương 6 khóa XII Việc so sánh hiện tại với các thời kỳ và điều kiện của các địa phương khác sẽ giúp xác định những điểm mới và sự phát triển, từ đó đưa ra định hướng và giải pháp phù hợp.
Ngoài việc áp dụng và kết hợp các phương pháp nghiên cứu chính, luận văn còn sử dụng một số phương pháp bổ sung như phỏng vấn, thực địa và khảo sát thực tiễn để thu thập dữ liệu và phân tích sâu hơn về đề tài nghiên cứu.
óng góp của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn này có thể đóng góp một số kiến thức như sau:
Luận văn này làm rõ các khái niệm về hệ thống chính trị, hệ thống chính trị cơ sở và việc đổi mới chúng Nó cũng tóm tắt những quan điểm chính của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam liên quan đến việc cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.
Luận văn phân tích và đánh giá những thành tựu cùng hạn chế trong việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, đồng thời chỉ ra nguyên nhân cơ bản dẫn đến những kết quả này Bài viết cũng nêu rõ các vấn đề cần giải quyết để tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tại huyện Xín Mần.
Bài viết phân tích và đánh giá những thành tựu, hạn chế và vấn đề trong tổ chức bộ máy hệ thống chính trị huyện Xín Mần, từ đó đưa ra các phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Luận văn này không chỉ góp phần vào quá trình đổi mới mà còn làm rõ những kiến thức cần thiết cho sự phát triển của hệ thống chính trị huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang trong bối cảnh hiện nay.
Cấu trúc của luận văn
Luận văn được cấu trúc bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục Nội dung chính của luận văn được chia thành 3 chương và 10 tiết.
ỮNG VẤ Ề Ý N VỀ ỔI MỚI TỔ CHỨC B MÁY ỦA HỆ TH Í Ị Ệ TH Í Ị Ơ SỞ
M t số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm hệ thống chính trị
Hệ thống chính trị là khái niệm quan trọng trong nền chính trị hiện đại, phản ánh sự thay đổi trong cách thức ra quyết định chính trị Trong lịch sử, quyền quyết định các vấn đề quốc gia thường thuộc về bộ máy nhà nước, với các vị vua là người đứng đầu Tuy nhiên, một số thời kỳ ở Hy Lạp đã chứng kiến sự khác biệt trong cách thức tổ chức và thực thi quyền lực chính trị.
La Mã cổ đại có hệ thống dân chủ cộng hòa, trong đó Nghị viện và nhân dân đóng vai trò quan trọng trong quyết định quốc gia Mặc dù các cá nhân như tể tướng hay thượng thư có thể góp ý, nhưng không có tính pháp lý bắt buộc Quyết định chính trị mang tính quốc gia thường chỉ là sản phẩm của cá nhân có quyền lực cao nhất, không phải kết quả của cả một hệ thống Chính trị hiện đại đã thay đổi căn bản với sự xuất hiện của các đảng phái đại diện cho các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau, tạo ra các tổ chức chính trị - xã hội và phong trào xã hội, từ đó làm cho nền chính trị trở nên dân chủ hơn thông qua việc tranh giành quyền lực và tham gia vào quyết định chính sách quốc gia.
Hiện nay, quyết định chính trị không chỉ là sản phẩm của cá nhân mà là kết quả của toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước, phản ánh quá trình thể chế hóa và tính bắt buộc Nghiên cứu nền chính trị hiện đại cần xem xét hoạt động của nhà nước và các cơ quan nhà nước, đồng thời đánh giá vai trò và mối quan hệ của các tổ chức, cá nhân trong quá trình chính trị Khái niệm hệ thống chính trị (HTCT) thể hiện những vấn đề thực tiễn của chính trị hiện đại, phản ánh xu hướng dân chủ hóa HTCT bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, với mối quan hệ tương tác trong việc hoạch định và thực thi chính sách nhằm bảo đảm quyền lực của giai cấp cầm quyền, đồng thời đáp ứng nhu cầu ổn định và phát triển xã hội Tại Việt Nam, thuật ngữ hệ thống chính trị được sử dụng lần đầu tiên trong bối cảnh này.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI vào tháng 3 năm 1989 đã đề cập đến việc kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và xác định phương hướng, nhiệm vụ cho ba năm tới Thuật ngữ "hệ thống chính trị" (HTCT) được nhắc đến trong Cương lĩnh xây dựng đất nước năm 1991 của Đại hội VII và đã trở nên phổ biến trong nhiều văn kiện, nghị quyết, cũng như trong các nghiên cứu khoa học và đời sống chính trị Hiện nay, khái niệm HTCT vẫn còn nhiều cách tiếp cận và cách hiểu khác nhau, dẫn đến sự thiếu thống nhất Một số quan điểm coi HTCT là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm quyền, hay còn gọi là hệ thống chuyên chính của giai cấp cầm quyền.
Một cách tiếp cận khác về hệ thống chính trị (HTCT) là từ góc độ cấu trúc quyền lực của nhân dân, coi HTCT như một hình thức tổ chức dân chủ nhằm bảo vệ và phát huy quyền lực của nhân dân Bên cạnh đó, còn có quan điểm cho rằng HTCT vừa là hệ thống quyền lực của giai cấp cầm quyền, vừa là hệ thống quyền lực của nhân dân Điều này cho thấy lợi thế chủ yếu thuộc về các tổ chức của giai cấp cầm quyền, đặc biệt là giai cấp nắm giữ quyền lực kinh tế, từ đó tác động đến các quá trình kinh tế - xã hội và bảo vệ quyền lợi của mình Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về HTCT.
Hệ thống chính trị là cơ cấu tổ chức của xã hội, bao gồm các thực thể chính trị như đảng chính trị, cơ quan nhà nước, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội và phong trào chính trị được pháp luật công nhận và hoạt động công khai Qua đó, giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị trong xã hội.
Hệ thống chính trị là tổng thể các tổ chức chính trị trong xã hội, bao gồm đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp Những tổ chức này được liên kết trong một hệ thống nhằm tác động đến các quá trình trong đời sống chính trị - xã hội, từ đó củng cố, duy trì và phát triển chế độ hiện hành, phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị bao gồm các thể chế chính trị như cơ quan nhà nước, đảng chính trị, phong trào xã hội và tổ chức chính trị - xã hội, được xây dựng theo một cấu trúc chức năng nhất định Nó hoạt động dựa trên các nguyên tắc, cơ chế và mối quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
Hệ thống chính trị được hiểu là một phạm trù thuộc kiến trúc thượng tầng, bao gồm các tổ chức, thiết chế chính trị - xã hội và mối quan hệ giữa chúng Nó hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ, tạo thành cơ thể chính trị của một chế độ xã hội, nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị Các giá trị tri thức về hệ thống chính trị trên thế giới và quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và hiểu rõ cấu trúc này.
1.1.2 Khái niệm hệ thống chính trị Việt Nam Đối với Việt Nam, lợi ích của giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động là thống nhất với nhau cho nên HTCT không chỉ là hệ thống quyền lực của giai cấp công nhân mà còn là cơ chế xã hội trong đó, nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, thực hiện quyền lực của mình HTCT Việt Nam là sự thể hiện của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoạt động trên cơ chế: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong có chức năng lãnh đạo toàn diện đối với xã hội; Nhà nước có chức năng điều hành, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; các đoàn thể nhân dân có chức năng tập hợp các giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội
Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội Các tổ chức này hoạt động ở nhiều cấp độ và có mối quan hệ tương tác nhằm đảm bảo quyền lực cho nhân dân lao động Thông qua hệ thống này, nhân dân lao động có thể thực thi quyền lực của mình trong xã hội.
Để nghiên cứu hệ thống chính trị (HTCT) Việt Nam, cần xem xét nó như một chỉnh thể bao gồm cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của các tổ chức chính trị, phản ánh mối quan hệ và tương quan lực lượng giữa các tập đoàn trong xã hội HTCT không chỉ tồn tại trong xã hội Việt Nam mà còn chịu sự chi phối từ xã hội này, đồng thời các thành tố của HTCT tác động trở lại các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế và văn hóa Như Lê-nin đã chỉ ra, "Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế", vì vậy HTCT cần được tổ chức và hoạt động phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội.
Hệ thống chính trị Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo duy nhất; Thứ hai, bản chất của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa thể hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiên tiến và cách mạng, luôn phấn đấu vì lợi ích nhân dân và dân tộc; Thứ ba, dân chủ được thể hiện qua việc giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Thứ tư, trong mối quan hệ lợi ích, sự thống nhất giữa giai cấp công nhân, nông dân, đội ngũ tri thức và nhân dân là cơ bản.
1.1.3 Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Cơ sở theo đối tượng nghiên cứu là cấp quản lý hành chính từ Trung ương đến địa phương, cụ thể là các cấp xã, phường, thị trấn tại Việt Nam Đây là nơi cư trú và hoạt động kinh tế của nhân dân, diễn ra các hoạt động lao động, sản xuất và kinh doanh Cơ sở cũng là trung tâm của thị trường kinh tế, nơi hình thành mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng Ngoài ra, đây là không gian thể hiện mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân và tổ chức, tất cả đều nằm trong khuôn khổ lãnh đạo và quản lý của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị cơ sở bao gồm tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân, mỗi bộ phận có vai trò và chức năng riêng nhưng liên kết chặt chẽ với nhau Đảng bộ cơ sở, với Ban Chấp hành Đảng bộ là hạt nhân chính trị, thực hiện lãnh đạo chính quyền và xã hội thông qua việc triển khai các chủ trương và nghị quyết Chính quyền là trụ cột của hệ thống chính trị cơ sở, quản lý và điều hành các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, thực hiện quy chế dân chủ và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân, đồng thời giám sát và phản biện xã hội Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị cơ sở cần cải cách tổ chức của từng bộ phận và mối quan hệ giữa chúng.
Cấu trúc, đặc trƣng, cơ chế vận h nh của hệ thống chính trị Việt
1.2.1 Cấu trúc hệ thống chính trị Việt Nam Đầu tiên, về tổ chức bộ máy HTCT Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội Phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp và chính quyền địa phương Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát hoạt động của Nhà nước theo Hiến pháp 2013, điều 69.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các vấn đề đối nội và đối ngoại Vị trí này được bầu ra bởi Quốc hội từ số đại biểu của Quốc hội và Chủ tịch nước chịu trách nhiệm trước Quốc hội, đồng thời báo cáo công tác theo quy định tại Hiến pháp 2013, Điều 86 và Điều 87.
Chính phủ Việt Nam, cơ quan hành chính nhà nước tối cao của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền hành pháp và đóng vai trò là cơ quan chấp hành của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp và bao gồm Tòa án nhân dân tối cao cùng các tòa án khác theo quy định của pháp luật Tòa án có trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng như lợi ích của Nhà nước và quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân, theo Điều 102 của Hiến pháp 2013.
Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, bao gồm Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cùng các Viện Kiểm sát khác theo quy định của pháp luật Nhiệm vụ của Viện Kiểm sát nhân dân là bảo vệ pháp luật, quyền con người, quyền công dân, cũng như bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, góp phần đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp 2013.
Chính quyền địa phương tại Việt Nam được tổ chức ở ba cấp: tỉnh, huyện và xã, bao gồm Hội đồng nhân dân (HĐND), Ủy ban nhân dân (UBND), Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân HĐND là cơ quan quyền lực địa phương, đại diện cho ý chí và quyền làm chủ của nhân dân, do họ bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân và các cơ quan nhà nước cấp trên HĐND có chức năng quyết định các vấn đề địa phương theo quy định của pháp luật và giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật UBND được bầu ra bởi HĐND cùng cấp, là cơ quan hành chính nhà nước, chịu trách nhiệm thi hành Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của HĐND Tòa án và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, huyện được thành lập nhằm bảo vệ Hiến pháp, pháp luật và hệ thống chính trị địa phương.
Trong hệ thống chính trị, quyền lực Nhà nước được tập trung và thống nhất, không thể chia tách Tuy nhiên, các cơ quan nhà nước có sự phân công và kiểm soát lẫn nhau trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị tự nguyện, bao gồm các tổ chức chính trị, xã hội và cá nhân tiêu biểu từ nhiều tầng lớp, dân tộc và tôn giáo khác nhau Đây là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, nhằm tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc Mặt trận có nhiệm vụ tham gia vào các hoạt động bầu cử, xây dựng chính sách pháp luật, vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và giám sát, phản biện xã hội.
1.2.2 Mối quan hệ giữa các thành tố trong hệ thống chính trị
Mối quan hệ giữa người có quyền và người được ủy quyền:
Trong hệ thống chính trị Việt Nam, công dân Việt Nam giữ vai trò chủ thể của đất nước, thực hiện quyền bầu cử để bầu ra các cơ quan quyền lực nhà nước và có khả năng bãi miễn các cơ quan này Các cơ quan nhà nước đại diện cho công dân trong việc thực thi quyền lực, nhằm hiện thực hóa quyền lợi, ý chí và lợi ích của nhân dân.
Quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ủy quyền của nhân dân, thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập Tất cả các tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở đều nhận được sự ủy quyền từ nhân dân Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, với công dân Việt Nam ủy quyền cho đại biểu và tham gia giám sát trong quá trình thực thi quyền lực Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền làm chủ thông qua hình thức trực tiếp và gián tiếp Quyền làm chủ này được bảo đảm không chỉ qua Hiến pháp và pháp luật mà còn qua hệ thống truyền thông, các cuộc vận động, quy chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, và vai trò của Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể chính trị - xã hội.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đóng vai trò đại diện cho quyền lợi hợp pháp của các giai cấp và tầng lớp trong xã hội, đồng thời là cơ sở chính trị của Chính quyền Những tổ chức này không chỉ tham gia vào đời sống chính trị của đất nước mà còn thực hiện các chức năng xã hội, phục vụ lợi ích cho các thành viên và hội viên của mình.
Quan hệ chính trị trong hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng dựa trên cơ chế chủ đạo, trong đó Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ Các mối quan hệ này giữa các tổ chức, cá nhân và xã hội đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của đất nước.
Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo toàn diện đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, với đường lối cương lĩnh được thể chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật Nhà nước thực thi các quy định này thông qua hệ thống văn bản pháp quy Đảng lãnh đạo bằng nhiều biện pháp như giáo dục, tuyên truyền, nêu gương, công tác tổ chức, cán bộ, cùng với việc kiểm tra và giám sát.
uan điểm của ảng về hệ thống hính trị cơ sở v đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam
thống chính trị Việt Nam
Quan điểm của Đảng về hệ thống chính trị cơ sở:
Hệ thống chính trị cơ sở tại Việt Nam bao gồm các cấp từ tỉnh đến xã, là một phần quan trọng của hệ thống chính trị quốc gia Nó bao gồm Đảng bộ cơ sở, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội, hoạt động theo cơ chế nhất định nhằm thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Đồng thời, hệ thống này cũng phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại địa phương.
Cơ cấu tổ chức bộ máy hệ thống chính trị cơ sở bao gồm Đảng bộ cơ sở, Chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân, trong đó Đảng bộ cơ sở đóng vai trò lãnh đạo nhằm thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước Chính quyền địa phương là trung tâm quản lý xã hội theo quy định của Đảng và nguyện vọng của nhân dân Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể nhân dân đại diện cho ý chí của nhân dân, tham gia quản lý xã hội và giám sát hoạt động của chính quyền địa phương Đảng Cộng sản Việt Nam xác định nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở là Đảng ủy lãnh đạo tất cả các lĩnh vực thông qua Nghị quyết, định hướng nhân sự và kiểm tra việc thực hiện chính sách Chính quyền cơ sở thực hiện các chính sách pháp luật của Nhà nước, đảm bảo ổn định an ninh chính trị và phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống người dân Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tuyên truyền thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng.
Đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) là yếu tố then chốt để nâng cao và phát huy dân chủ tại Việt Nam Trọng tâm của quá trình này là cải cách tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác Đổi mới HTCT cần được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đảm bảo xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay.
Cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Việt Nam đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng, buộc Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam phải nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới để phát triển đất nước Văn kiện Đại hội khẳng định tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng quyền làm chủ của nhân dân lao động và thực hiện quan điểm "nhìn thẳng vào sự thật" nhằm tạo ra động lực mới cho cách mạng Đảng cũng xác định "tập trung dân chủ" là nguyên tắc chỉ đạo mọi hoạt động và phong cách làm việc, đồng thời chỉ ra rằng sự suy yếu tinh thần đoàn kết trong Đảng xuất phát từ tình trạng quan liêu, độc đoán và thiếu tôn trọng ý kiến cấp dưới, dẫn đến những quyết định sai lầm.
Khái niệm HTCT được Hội nghị Trung ương 6 khóa VI của Đảng
Vào tháng 3 năm 1989, Cộng sản Việt Nam đã thay thế khái niệm chuyên chính vô sản bằng việc thực thi quyền lực của quần chúng nhân dân trong xã hội Mục tiêu của việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định các chủ trương cơ bản về dân chủ xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị Cương lĩnh này cung cấp định hướng chiến lược về quan điểm, nguyên tắc và phương pháp đổi mới chính trị, khẳng định rằng toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong giai đoạn mới nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Tại Hội nghị lần thứ 3 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII vào tháng 6 năm 1992, đã đánh giá tình hình và nhiệm vụ của Đảng trong bối cảnh mới, nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ Hội nghị cũng chỉ ra cần ngăn chặn và khắc phục tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán trong bộ máy Đảng, đồng thời chấn chỉnh hệ thống tổ chức ở các cấp và chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng Cuối cùng, xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị nhằm nâng cao vai trò, chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, ban hành ngày 16 tháng 8 năm 1999, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kiện toàn tổ chức và bộ máy hệ thống chính trị Đây là bước tiếp theo trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 và các nghị quyết trước đó, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng và Nhà nước.
Khóa VIII lần 2 là một phần quan trọng trong cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, với mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm bản chất cách mạng của Nhà nước, đồng thời nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Nghị quyết Hội nghị lần 5 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX vào ngày 18 tháng 3 năm 2002 đã yêu cầu xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết và phối hợp giữa các thành tố dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định mục tiêu và giải pháp xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhằm hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đồng thời đẩy mạnh công cuộc đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh và phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng và nhân dân, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI nhấn mạnh mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, tinh gọn và ổn định, phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của từng đơn vị Đồng thời, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực chuyên môn cao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đảm bảo mức thu nhập cho cuộc sống Tại Đại hội XII của Đảng, sáu nhiệm vụ trong nhiệm kỳ 2016-2020 đã được xác định, trong đó nhiệm vụ đầu tiên là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, đồng thời tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.
Nghị quyết Đại hội nhấn mạnh sự cần thiết phải cải cách tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội theo hướng tinh gọn, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành Quyền hạn cần gắn liền với trách nhiệm, đồng thời khuyến khích tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu Cần tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế kiểm soát quyền lực để ngăn chặn lạm dụng quyền lực và vi phạm kỷ luật của Đảng Việc thực hiện các chủ trương của Đảng về thống nhất lãnh đạo trong công tác cán bộ cũng cần được chú trọng, kết hợp với việc phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong hệ thống chính trị liên quan đến công tác cán bộ.
Trong Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội nêu rõ, trong năm
Năm 2018, Chính phủ đã hoàn tất việc ban hành các văn bản để sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế, đồng thời Đảng cũng thông qua Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 (khóa XII) nhằm nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động Nghị quyết này là nền tảng quan trọng giúp các bộ, ngành và địa phương thực hiện việc đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy chính trị một cách tinh gọn và hiệu quả Trong quá trình triển khai, cần tuân thủ nguyên tắc một cơ quan đảm nhận nhiều nhiệm vụ và mỗi nhiệm vụ chỉ giao cho một cơ quan chủ trì Các mô hình tổ chức cần phù hợp với đặc điểm và chức năng của từng đơn vị, đồng thời đảm bảo quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và nâng cao trình độ dân chủ xã hội chủ nghĩa Bên cạnh đó, cần ngăn chặn các thế lực thù địch và phần tử xấu lợi dụng tình hình để chống phá.
Đổi mới hệ thống chính trị (HTCT) yêu cầu xác định rõ vai trò, chức năng và nhiệm vụ của từng tổ chức chính trị - xã hội, cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức này trong một thiết chế thống nhất Cần khắc phục tình trạng trùng lặp, lấn sân và đùn đẩy nhiệm vụ, nhằm xây dựng bộ máy tinh gọn và hoạt động hiệu quả Trọng tâm của việc đổi mới HTCT Việt Nam là cải cách tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng Cộng sản, Nhà nước CHXHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
5 https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/38514302-quyet-tam-doi-moi-to-chuc-bo-may-cua-he-thong- chinh-tri.html
N i dung đổi mới tổ chức b máy hệ thống chính trị
Đa dạng các mô hình hợp nhất, sáp nhập và tăng cường trách nhiệm người đứng đầu
Việc đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị đang được thực hiện thông qua nhiều mô hình hợp nhất và sáp nhập các cơ quan, tổ chức nhằm tinh gọn, giảm đầu mối và số lượng cán bộ lãnh đạo Một số mô hình thí điểm đã được triển khai, bao gồm việc thành lập cơ quan tham mưu chung cho khối Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; hợp nhất Ủy ban Kiểm tra cấp ủy với Thanh tra; kết hợp Ban Tổ chức cấp ủy với Phòng, Sở Nội vụ; và gộp Văn phòng Ðoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng HÐND và Văn phòng UBND thành một Văn phòng tham mưu chung Ngoài ra, việc thành lập Trung tâm truyền thông cũng được thực hiện trên cơ sở hợp nhất các cơ quan báo chí, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, cùng với Đài Phát thanh - Truyền hình Các cơ quan khác như Sở Giáo dục và Đào tạo cũng được hợp nhất với Sở Khoa học và Công nghệ để thành lập Sở Giáo dục - Khoa học và Công nghệ, trong khi Ban Tổ chức và Ban Tuyên giáo được kết hợp thành Ban Tuyên giáo - Tổ chức Hơn nữa, việc sáp nhập các ban và phòng tại cấp huyện cũng đang diễn ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Việc hợp nhất các cơ quan có chức năng tương đồng và áp dụng mô hình một cán bộ hai chức danh yêu cầu lãnh đạo xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, đồng thời gắn quyền hạn với trách nhiệm Một người đứng đầu hai đơn vị sẽ thúc đẩy phong cách làm việc khoa học, năng động và chủ động hơn, đồng thời khuyến khích sử dụng công nghệ trong chỉ đạo và giải quyết công việc Điều này đòi hỏi lãnh đạo phải xây dựng tác phong làm việc nhanh chóng, chính xác, đúng giờ và có chất lượng cao, phát huy trí tuệ tập thể, phân công nhiệm vụ rõ ràng cho cấp phó, kết hợp giữa tăng quyền và trách nhiệm, sắp xếp hợp lý các cuộc họp và xác định các vấn đề cần giải quyết để tìm ra giải pháp khắc phục.
Tinh giản biên chế, giảm số lượng cán bộ không chuyên trách
Trong nhiều năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện nhiều chủ trương tinh giản biên chế và làm tinh gọn bộ máy hành chính, thể hiện qua các nghị quyết quan trọng như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa XI) và Nghị quyết số 39-NQ/TW về cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Mục tiêu là đổi mới tổ chức bộ máy hành chính, triển khai hiệu quả chủ trương tinh giản biên chế, giảm số lượng cán bộ không chuyên trách, đồng thời nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ Việc này cũng nhằm giảm chi thường xuyên trong các cơ quan, đơn vị và cải cách chính sách tiền lương để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (Khóa XI) nhấn mạnh việc kiên trì thực hiện chủ trương tinh giản biên chế cán bộ, công chức, viên chức, nhằm đảm bảo không làm tăng tổng biên chế của hệ thống chính trị Trong trường hợp cần thành lập tổ chức mới hoặc giao nhiệm vụ mới, các cơ quan và đơn vị phải tự cân đối và điều chỉnh trong tổng số biên chế hiện có.
Nghị quyết 39-NQ/TW-2015 khuyến khích việc kiêm nhiệm các chức danh của cán bộ, công chức từ trung ương đến cấp xã, đặc biệt là tại các vị trí không chuyên trách ở cấp xã và thôn, tổ dân phố Đồng thời, nghị quyết cũng đề xuất việc khoán kinh phí chi trả phụ cấp nhằm giảm dần số lượng cán bộ không chuyên trách và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức cấp xã.
Theo Nghị quyết số 19 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII, các đơn vị sự nghiệp công lập phải giảm mạnh về số lượng, với mục tiêu đến năm 2021 giảm ít nhất 10 đơn vị và 10 biên chế hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015 Đồng thời, cần chấm dứt các hợp đồng lao động không đúng quy định, trừ những đơn vị đã tự chủ tài chính Đến năm 2025, yêu cầu này sẽ tiếp tục được duy trì nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đến năm 2030, cần giảm 10 số biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2025, đồng thời chấm dứt các hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập, ngoại trừ những đơn vị tự chủ tài chính Ngoài ra, cần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và xây dựng cơ chế, lộ trình sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị một cách hợp lý.
Việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước theo hướng tinh gọn và hiệu quả là cần thiết để nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời cải thiện hiệu lực quản lý của chính quyền và chất lượng hoạt động của Mặt trận.
Tổ quốc và các ngành đoàn thể chính trị - xã hội đang tích cực thực hiện các Nghị quyết và Kết luận của Đảng về đổi mới phương thức lãnh đạo Đặc biệt, Nghị quyết số 18 – NQ/TW nhấn mạnh việc cải cách phương thức lãnh đạo và hoạt động của các cơ quan, đơn vị, nhằm nâng cao hiệu quả công tác và đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới.
Việc thực hiện nghiên cứu khoa học cần có lộ trình rõ ràng, với những bước đi vững chắc, tránh tâm lý cầu toàn và không nên nóng vội.
Sáp nhập và hợp nhất các cơ quan, đơn vị không chỉ đơn thuần là lắp ghép cơ học, mà cần dựa trên thực tế về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Việc này nhằm loại bỏ sự chồng chéo, trùng lặp, giảm thiểu lãng phí nguồn nhân lực và tài chính, đồng thời cải thiện hiệu quả hoạt động.
Đổi mới tổ chức bộ máy hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng, yêu cầu xây dựng cơ chế và lộ trình rõ ràng để đảm bảo hiệu quả Cần có kế hoạch cụ thể trong việc sắp xếp tổ chức, thực hiện ngay những vấn đề đã rõ ràng và nghiên cứu thêm những vấn đề chưa chắc chắn Việc sắp xếp cần gắn liền với đổi mới công tác cán bộ, quản lý tài chính và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Phát huy cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ, đồng thời nâng cao vai trò cá nhân, đặc biệt là người đứng đầu Đổi mới chế độ thi tuyển công chức theo hướng công khai, dân chủ và minh bạch, cùng với việc sửa đổi cơ chế đào tạo gắn với trách nhiệm và hiệu quả sau đào tạo.
Việc đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị cần tinh gọn và hiệu quả là một nhiệm vụ phức tạp, nhạy cảm và liên quan đến quyền lợi của đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động Do đó, cần thực hiện từng giai đoạn một cách đồng bộ, khắc phục khó khăn tại từng địa phương, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền để tạo sự đồng thuận trong nhân dân, cán bộ và đảng viên.
Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên thông qua việc cải thiện trình độ, ý thức cách mạng, bản lĩnh chính trị, và đạo đức Công tác tuyên truyền về các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước được đẩy mạnh, kết hợp với việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh Đồng thời, cần thực hiện nghiêm túc các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 và Quy định số 101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là đối với người đứng đầu Việc tuân thủ Điều lệ Đảng và các quy định về hành vi của đảng viên là rất quan trọng, cùng với việc nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện và chống lại các biểu hiện tiêu cực như tham nhũng và lãng phí Các cấp cần ban hành Nghị quyết chiến lược để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đồng thời nghiên cứu và ban hành tiêu chuẩn chức danh cho cán bộ, công chức, cũng như thường xuyên cử cán bộ đi đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ.
Các cấp ủy đảng và ủy ban kiểm tra tăng cường giám sát tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, đặc biệt chú trọng vào các lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh tiêu cực Đồng thời, cần phát triển đảng viên tại địa phương và quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đạt chuẩn Việc rà soát, sàng lọc cán bộ, đảng viên cần được thực hiện nghiêm túc, kiên quyết loại bỏ những người không đủ tư cách ra khỏi Đảng Đảng cần đề cao kỷ luật, kỷ cương, tính chiến đấu, tự phê bình và phê bình, đồng thời nâng cao trách nhiệm của đảng viên trong sinh hoạt chi bộ.
1.5 Những yếu tố tác đ ng đến đổi mới tổ chức b máy hệ thống hính trị huyện ín Mần, tỉnh iang
Yếu tố lịch sử, văn hóa và tập quán của địa phương