CƠ SỞ KHOA H Ọ C QU ẢN LÍ NHÀ NƯỚ C V Ề HO Ạ T ĐỘNG TÔN GIÁO
Nh ữ ng khái ni ệ m liên quan đế n lu ận văn
1.1.1 Mê tín, d ị đoan, tín ngưỡ ng và ho ạt động tín ngưỡ ng
Mê tín dị đoan thường được hiểu là niềm tin vào những điều vô lý, không phù hợp với tự nhiên như bói toán hay phù phép chữa bệnh Những tín ngưỡng này không chỉ vô ích cho cá nhân và cộng đồng mà còn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe, tinh thần và thậm chí tính mạng con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng mê tín dị đoan là một tệ nạn xã hội, bao gồm các hành vi như đồng bóng, bói toán và các nghi lễ cầu nguyện xa hoa, tốn kém Ông nhấn mạnh rằng những thói quen này không chỉ gây lãng phí tài nguyên của nhân dân mà còn xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa cần được nhận thức và giải quyết.
Những hủ tục do chế độ thực dân và phong kiến để lại vẫn còn tồn tại ở miền núi, bao gồm các phong tục ma chay, cúng bái tốn kém, việc cưới hỏi diễn ra quá sớm và tình trạng vệ sinh phòng bệnh kém Để phát triển một xã hội văn minh, cần phải loại bỏ những mê tín và hủ tục này, thay thế bằng các mỹ tục thuần phong.
Mê tín dị đoan thường xuất phát từ trình độ dân trí thấp, khiến nhiều người không phân biệt được đúng sai trong các luận điệu tuyên truyền sai lệch Để xóa bỏ mê tín, cần nâng cao trình độ học vấn của cộng đồng.
Mê tín dị đoan là một tệ nạn xã hội, thường bị những kẻ xấu lợi dụng để trục lợi Để khắc phục tình trạng này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cần phải kết hợp việc xây dựng nếp sống văn hóa mới với việc gìn giữ thuần phong mỹ tục Việc nghiên cứu phong tục tập quán tại mỗi địa phương là cần thiết, nhằm tạo sự cảm thông và từ đó dần dần giải thích, giúp người dân thoát khỏi mê tín Cán bộ và đảng viên cần phải hành động một cách tôn trọng và không xúc phạm đến niềm tin của người dân.
10 đến phong tục, tín ngưỡng của nhân dân, phải tuyệt đối tôn trọng niềm tin tôn giáo của quần chúng
Theo Giáo trình Quản lý nhà nước về tôn giáo và dân tộc của Khoa
Mê tín và dị đoan là hai khái niệm thường đi đôi trong tiếng Việt, thể hiện niềm tin mù quáng vào các hiện tượng như bói toán, đồng cốt hay gọi hồn Những niềm tin này được coi là những hiện tượng xã hội tiêu cực, vi phạm các chuẩn mực xã hội và trái với lợi ích cộng đồng, gây thiệt hại cho chính những người theo đuổi chúng.
1.1.1.2 Tín ngưỡng và hoạt động tín ngưỡng
Tín ngưỡng là sự kết hợp giữa niềm tin và sự ngưỡng vọng đối với các yếu tố siêu nhiên có ảnh hưởng đến đời sống con người Đây là một sản phẩm văn hóa hình thành từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và chính bản thân Tín ngưỡng thể hiện niềm tin vào những điều linh thiêng và sức mạnh huyền bí mà con người chỉ có thể cảm nhận mà khó lòng lý giải.
Giáo trình Quản lý nhà nước về tôn giáo và dân tộc của Khoa Quản lý nhà nước về xã hội thuộc Học viện Hành chính quốc gia cung cấp cái nhìn tổng quan về tín ngưỡng và vai trò của nó trong quản lý nhà nước Tài liệu này giúp sinh viên hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa tôn giáo, dân tộc và chính sách quản lý, từ đó nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý xã hội.
Tín ngưỡng, hay còn gọi là "croyance" trong tiếng Pháp và "belief" trong tiếng Anh, không chỉ đơn thuần là niềm tin hay sự tin tưởng Nó đại diện cho một loại niềm tin đặc biệt, có vai trò quan trọng trong việc hình thành nền tảng của tôn giáo.
Theo Luật tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng được định nghĩa là niềm tin của con người, thể hiện qua các lễ nghi và phong tục truyền thống, nhằm mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Khái niệm tín ngưỡng và tôn giáo có nhiều chỗ gần gũi với nhau vì
Tất cả các tín ngưỡng và tôn giáo đều xuất phát từ niềm tin tuyệt đối vào một đấng siêu nhiên huyền bí Điều này có nghĩa là mọi hệ thống tín ngưỡng đều chia sẻ một điểm chung: sự tồn tại của "thế giới bên kia", khác biệt với thế giới thực tại mà con người đang trải nghiệm.
Tín ngưỡng và tôn giáo có nhiều điểm khác biệt, trong đó tín ngưỡng thường mang tính dân tộc hơn và không có tổ chức chặt chẽ như tôn giáo Khi đề cập đến tín ngưỡng, người ta thường nhắc đến tín ngưỡng của một dân tộc cụ thể Tín ngưỡng thiếu hệ thống điều hành rõ ràng, nếu có thì cũng thường lẻ tẻ và rời rạc Tuy nhiên, nếu tín ngưỡng phát triển đến một mức độ nhất định, nó có thể trở thành tôn giáo Do đó, tín ngưỡng được xem là nguồn gốc của tôn giáo.
Theo Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016, hoạt động tín ngưỡng bao gồm việc thờ cúng tổ tiên và các biểu tượng linh thiêng, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với đất nước và cộng đồng, cùng với các lễ nghi dân gian thể hiện giá trị lịch sử, văn hóa và đạo đức xã hội.
1.1.2 Tôn giáo và ho ạt độ ng tôn giáo
Thuật ngữ “tôn giáo” có nguồn gốc từ phương Tây và trải qua quá trình biến đổi nội dung Khi khái niệm này trở nên phổ quát trên toàn cầu, nó gặp phải những khái niệm truyền thống không tương ứng từ các nền văn minh khác Do đó, nhiều quan niệm và định nghĩa khác nhau về tôn giáo đã xuất hiện từ nhiều dân tộc và tác giả trên thế giới.
Theo định nghĩa trong sinh học và tâm lý học, tôn giáo được xem là một sản phẩm của các quá trình sinh học hoặc tâm sinh học của con người, đồng thời có thể được tách biệt khỏi tâm lý cá nhân hoặc tâm lý nhóm.
S ự c ầ n thi ế t và nh ữ ng y ế u t ố ảnh hưởng đế n qu ản lí nhà nướ c v ề
1.2.1 S ự c ầ n thi ế t qu ản lý nhà nướ c v ề các ho ạt độ ng tôn giáo 1.2.1.1 Thực hiện chức năng của nhà nước trong quản lý ngành, lĩnh vực
Từ khi hình thành nhà nước, chức năng quản lý hoạt động tôn giáo luôn được thực hiện Hiện nay, ở bất kỳ quốc gia nào, sự hiện diện của tôn giáo đều đi kèm với các hoạt động tôn giáo được quản lý bởi nhà nước.
Mặc dù có quan điểm cho rằng hoạt động tôn giáo là công việc nội bộ và tự quản, vẫn cần sự can thiệp và điều chỉnh của nhà nước đối với 23 giáo phái.
Nếu không có sự quản lý nhà nước về tôn giáo, các tôn giáo sẽ hoạt động vô chính phủ, dẫn đến xung đột và chèn ép lẫn nhau Điều này sẽ cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội, gây ra sự lãng phí và hiếu chiến từ một số tôn giáo, cũng như tạo điều kiện cho việc lợi dụng tôn giáo nhằm phá hoại đoàn kết dân tộc, an ninh quốc gia và trật tự xã hội Vì vậy, nhà nước cần thực hiện chức năng quản lý đối với hoạt động tôn giáo để đảm bảo sự ổn định và phát triển bền vững.
1.2.1.2 Phát huy vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã công nhận tôn giáo là nhu cầu thiết yếu của một bộ phận nhân dân, với những giá trị đạo đức và văn hóa tích cực Đạo đức tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đạo đức xã hội và hoàn thiện nhân cách cá nhân, hướng con người đến những giá trị Chân - Thiện - Mỹ Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đạo đức tôn giáo cũng tiềm ẩn nhiều yếu tố tiêu cực, có thể dẫn đến hạnh phúc hư ảo và làm giảm tính chủ động, sáng tạo của con người Do đó, việc nhận diện đúng vai trò của đạo đức tôn giáo là cần thiết để phát huy những giá trị tốt đẹp và hạn chế các tác động tiêu cực đối với việc hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam hiện nay.
Việc tìm hiểu và xác định giá trị chân chính của các tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong công cuộc đổi mới hiện nay Điều này giúp huy động mọi nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Việc kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa đạo đức trong tôn giáo sẽ góp phần xây dựng nền đạo đức mới và nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
24 đà bản sắc dân tộc
Trong bối cảnh hiện nay, việc phân tích vai trò của đạo đức tôn giáo để xác định những đóng góp và ảnh hưởng tiêu cực của nó trong xã hội là rất cần thiết Việt Nam, với sự đa dạng tín ngưỡng và tôn giáo, được ví như một bảo tàng thu nhỏ của đời sống tín ngưỡng toàn cầu Do đó, phát huy vai trò của đạo đức tôn giáo trong giai đoạn hiện tại là một yếu tố quan trọng.
1.2.1.3 Đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của công dân
Quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của công dân luôn được thể hiện rõ ràng trong các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam qua từng thời kỳ, đặc biệt là trong bản Hiến pháp gần đây nhất.
Hiến pháp năm 2013 khẳng định quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của mọi người, cho phép họ theo hoặc không theo một tôn giáo nào Tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, và Nhà nước cam kết tôn trọng cũng như bảo vệ quyền tự do này.
3 Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” [41, tr.8]
Nhằm đáp ứng nhu cầu hợp pháp và chính đáng của người dân, quản lý nhà nước (QLNN) đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân, tạo điều kiện cho các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo quy định pháp luật.
Nhà nước Việt Nam, với bản chất là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, cần đáp ứng các nhu cầu hợp pháp và chính đáng của công dân, bao gồm cả nhu cầu về niềm tin và đức tin tôn giáo.
1.2.2 Nh ữ ng y ế u t ố ảnh hưởng đế n qu ản lý nhà nướ c v ề ho ạt độ ng tôn giáo
1.2.2.1 Sự lãnh đạo, chỉđạo của Đảng ta đối với công tác tôn giáo
Đảng ta đã nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của công tác tôn giáo, do đó đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm định hướng và chỉ đạo các cơ quan nhà nước cũng như toàn xã hội trong hoạt động tôn giáo Những văn bản pháp luật được ban hành đều phù hợp với chủ trương và định hướng của Đảng về lĩnh vực này.
Ngày 12/03/2003, Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW, khẳng định rằng tín ngưỡng và tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, tồn tại song song với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam Đảng coi đồng bào các tôn giáo là một phần của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, và công tác tôn giáo được xem là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó vận động quần chúng là nội dung cốt lõi.
Trong từng giai đoạn lịch sử, Đảng ta đã điều chỉnh chủ trương về hoạt động tôn giáo để phù hợp với thực tiễn cách mạng Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khi đời sống nhân dân được cải thiện, Đảng đã linh hoạt trong chỉ đạo và định hướng hoạt động tôn giáo, tạo điều kiện cho tôn giáo phát triển trong thời đại mới.
1.2.2.2 Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật về tôn giáo
Hệ thống pháp luật đóng vai trò quan trọng trong kiến trúc thượng tầng và ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà nước (QLNN) Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật tại Việt Nam đã dẫn đến việc điều chỉnh, cập nhật và bổ sung các quy định về tôn giáo trong công tác QLNN, nhằm phù hợp với tình hình mới.
Trước những diễn biến phức tạp của hoạt động tôn giáo trong và ngoài nước, cùng với sự chống phá và kích động từ các thế lực thù địch, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo tại Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức.
Ch ủ th ể và n ộ i dung qu ản lý nhà nướ c v ề tôn giáo
1.3.1 Ch ủ th ể và đối tượ ng qu ả n lý
Chủ thể quản lý nhà nước về tôn giáo bao gồm các cơ quan nhà nước thuộc hệ thống hành pháp gồm:
Chính phủ Việt Nam, theo Hiến pháp năm 2013, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp và là cơ quan chấp hành của Quốc hội Chính phủ có trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội và Ủy ban Thường vụ.
Quốc hội, Chủ tịch nước
UBND các cấp: Theo Hiến pháp năm 2013, UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, tổ chức thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân và thực hiện các nhiệm vụ do cơ quan nhà nước cấp trên giao
Các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân được nhà nước ủy quyền quản lý hoạt động tôn giáo bao gồm Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, cùng với Ban Tôn giáo Chính phủ.
Theo Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức Chính quyền địa phương
2015 hiện nay quy định thì chủ thể tham gia quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo hiện nay gồm:
B ả ng 1.1 Ch ủ th ể qu ản lý nhà nước và các cơ quan tham mưu giúp việ c v ề ho ạt độ ng tôn giáo
Cấp quản lý Cơ quan/chủ thể trực tiếp quản lý
Cơ quan/chủ thể trực tiếp tham mưu giúp việc Trung ương Chính phủ Bộ Nội vụ (Ban Tôn giáo chính phủ)
Cấp tỉnh UBND tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương Sở Nội vụ (Ban Tôn giáo)
Cấp huyện UBND quận, huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh Phòng Nội vụ
UBND xã, phường, thị trấn Công chức Văn hóa – Xã hội
(Nguồn: tác giả tổng hợp)
Hiện nay, UBND huyện, bao gồm các quận, huyện, thành phố và thị xã, là cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động tôn giáo tại địa phương Phòng Nội vụ được giao nhiệm vụ tham mưu và hỗ trợ Chủ tịch UBND huyện trong công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.
1.3.1.2 Đối tượng quản lý Đối tượng của quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo bao gồm:
Tổ chức tôn giáo tại Việt Nam hiện nay được xem là một tổ chức xã hội, do đó, mọi hoạt động như thành lập, chia tách hay giải thể đều phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Tín đồ, chức sắc, nhà tu hành: Là công dân của nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, dưới sự quản lý của pháp luật, có các tín đồ, chức sắc và nhà tu hành vừa mang những đặc điểm chung của người Việt Nam, vừa thể hiện những đặc trưng riêng của người có đạo.
Đối tượng quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo bao gồm các cơ sở phục vụ sinh hoạt tôn giáo như nhà thờ, đền, chùa và miếu Đây là những địa điểm diễn ra các hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng giáo dân Do đó, các cơ sở này không chỉ tuân thủ nội quy của tổ chức tôn giáo mà còn phải chịu sự quản lý của pháp luật Việt Nam.
1.3.2.1 Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách quản lý nhà nước về tôn giáo
Hệ thống văn bản pháp quy của Nhà nước Việt Nam quy định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở mức cao nhất, được ghi nhận rõ ràng trong Hiến pháp Các bản Hiến pháp năm trước đây đã thể hiện rõ ràng sự bảo đảm quyền này, khẳng định tầm quan trọng của tự do tín ngưỡng trong đời sống xã hội.
1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân đều được ghi nhận và khẳng định
Hiến pháp 2013 khẳng định quyền con người là quyền tự nhiên mà Nhà nước phải thừa nhận và bảo vệ, phù hợp với các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng với các quy định toàn diện, hướng tới sự hoàn thiện và dân chủ, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho tín đồ và tổ chức tôn giáo hoạt động công bằng và lành mạnh.
Tại Điều 24, Chương II quy định:
“1 Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật
2 Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
3 Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.” [41]
Hiến pháp 2013 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình "Đổi mới và hội nhập sâu" của đất nước, thể hiện sự kế thừa và phát triển so với các bản Hiến pháp trước Văn bản này khẳng định chính sách dân chủ của Nhà nước đối với quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, coi đây là nhu cầu thiết yếu và quyền lợi của người dân, cần được tôn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện.
Vào ngày 18/11/2016, Quốc hội khóa 14 đã thông qua Luật tín ngưỡng, tôn giáo, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, thay thế Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/UBTVQH11, chính thức bãi bỏ hiệu lực của văn bản này.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo bao gồm 09 chương và 68 điều, mang nhiều điểm mới và tiến bộ Luật này thể hiện tính công khai, dân chủ và minh bạch, phù hợp với tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Luật tín ngưỡng, tôn giáo được xây dựng để đảm bảo sự đồng bộ với các văn bản pháp luật hiện hành như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật đất đai, Luật xây dựng và Luật di sản văn hóa Mục tiêu là hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan, nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
1.3.2.2 Xây dựng và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo
Chính phủ Việt Nam thống nhất quản lý tín ngưỡng và tôn giáo trên toàn quốc, với Bộ Nội vụ là cơ quan chịu trách nhiệm chính trước Chính phủ Ban Tôn giáo Chính phủ, thuộc Bộ Nội vụ, có nhiệm vụ tham mưu và hỗ trợ Bộ trưởng trong việc thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng và tôn giáo.
32 vụ quản lý nhà nước về tôn giáo
Các Bộ và cơ quan ngang bộ như Bộ Công an, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, cùng với Ủy ban nhân dân các cấp (tỉnh, huyện, xã) thực hiện quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo trong phạm vi quyền hạn của mình Tại các huyện không có xã, thị trấn, Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân cấp xã theo quy định Sở Nội vụ chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh về quản lý hoạt động tôn giáo, trong khi Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ tư vấn cho Sở và UBND tỉnh về công tác này Ở cấp huyện, Phòng Nội vụ hỗ trợ UBND các huyện, thị xã, và tại các xã, phường có cán bộ chuyên trách về công tác tôn giáo.
1.3.2.3 Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tôn giáo Đối với bất kì lĩnh vực quản lý nào, chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức luôn là một trong những yếu tố cực kì quan trọng quyết định đến hiệu quả của công tác quản lý, hơn nữa với một vấn đề nhạy cảm như tôn giáo thì chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác này càng phải được coi trọng hơn
Kinh nghi ệ m qu ản lý nhà nướ c v ề ho ạt độ ng tôn giáo t ạ i m ộ t s ố đị a phương
1.4.1.1 Kinh nghiệm của huyện Đồng Xuân - tỉnh Phú Yên Đồng Xuân là một trong 3 huyện miền núi của tỉnh Phú Yên, có 10 đơn vị hành chính cấp xã và 01 thị trấn Dân số toàn huyện tính đến cuối năm
Năm 2017, tổng dân số đạt 63.715 người, với mật độ 60 người/km² Trong đó, dân số thị trấn chiếm 15,9% và nông thôn chiếm 84,1% Dân cư chủ yếu tập trung tại thị trấn La Hai và các xã ven trục giao thông chính, trong khi các xã khác có mật độ dân cư thưa thớt hơn.
Trong những năm gần đây, tình hình tôn giáo tại huyện Đồng Xuân đã ổn định, với sự tin tưởng của tín đồ và chức sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trong công tác tôn giáo Các quy định liên quan đến tôn giáo được thực hiện nghiêm túc, góp phần duy trì sự hòa hợp và ổn định trong cộng đồng.
Các tổ chức tôn giáo trên địa bàn chấp hành tốt pháp luật nhờ sự chủ động và linh hoạt của các cơ quan chuyên môn huyện trong việc tham mưu cho UBND và thường trực huyện ủy về công tác tôn giáo Các cán bộ công chức làm công tác tôn giáo cũng đã tích cực nắm bắt thông tin và bám sát địa bàn.
Huyện đã chú trọng hỗ trợ đồng bào có Đạo, đặc biệt là dân tộc thiểu số và các hộ gia đình chính sách gặp khó khăn Hằng năm, huyện tổ chức thăm hỏi và tặng quà cho những gia đình chấp hành tốt chính sách của Đảng và Nhà nước Công tác xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần được triển khai đồng bộ, bao gồm cả các chức sắc, tín đồ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và ổn định sinh hoạt tôn giáo trên địa bàn.
Huyện thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát các hoạt động tôn giáo trên địa bàn Đặc biệt, huyện chú trọng theo dõi những đối tượng có dấu hiệu lợi dụng tự do tín ngưỡng để truyền bá, lôi kéo và kích động người dân tham gia vào các hoạt động không phù hợp.
Huyện kiên quyết xử lý 37 hoạt động trái pháp luật và tích cực vận động đồng bào có Đạo cảnh giác trước các đối tượng xấu, nhằm bảo vệ khối đại đoàn kết dân tộc và tăng cường niềm tin vào sự lãnh đạo của chính quyền Đồng thời, huyện cũng chú trọng giải quyết các khiếu kiện và đề xuất từ các tổ chức tôn giáo, từng bước khắc phục và tháo gỡ các vấn đề phát sinh.
Qua thực tiễn quản lý nhà nước về tôn giáo tại huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, có thể rút ra những bài học quý báu cho công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo.
Các cơ quan chuyên môn trong quản lý nhà nước về tôn giáo cần nắm vững tình hình tôn giáo địa phương, cung cấp thông tin kịp thời và đầy đủ cho lãnh đạo cấp trên, nhằm tránh bị động và mất thông tin trong mọi tình huống.
Cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo cần trang bị kiến thức và trình độ chuyên môn vững vàng, bởi đây là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm, yêu cầu sự rèn luyện và tu dưỡng liên tục.
Cần chú trọng đến đời sống của đồng bào có Đạo, vì sự ổn định và phát triển của họ là yếu tố quan trọng quyết định đến một đời sống tôn giáo lành mạnh, giúp ngăn chặn các hoạt động trái pháp luật.
Cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan để theo dõi và quản lý các đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến công tác tôn giáo Đối với những đối tượng có hành vi manh động, cần phải xử lý một cách kiên quyết và thích đáng.
1.4.1.2 Kinh nghiệm của huyện Krông Búk - tỉnh Đắk Lắk
Huyện Krông Búk, thuộc tỉnh Đắk Lắk, nằm ở phía Đông bắc cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột 60 km qua Quốc lộ 14 Với tổng diện tích tự nhiên là 35.782 ha, huyện bao gồm 7 đơn vị hành chính và tiếp giáp với các huyện Krông Năng, Cư M’gar, Ea Hleo cùng thị xã Buôn Hồ.
Huyện Krông Búk là một trong những huyện có số lượng tín đồ đông
38 của tỉnh Đắk Lắk Theo thống kê của Phòng Nội vụ huyện, tính đến tháng 12-
Tính đến năm 2017, huyện có bốn tôn giáo chính là Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài, với tổng số tín đồ lên tới 17.293 người, chiếm gần 30% dân số Đặc biệt, trong số này, có hơn 6.000 tín đồ là người dân tộc thiểu số.
Huyện Krông Búk có tình hình hoạt động tôn giáo phức tạp do số lượng tín đồ đông và địa bàn rộng Từ khi được chia tách vào tháng 12 năm 2008, huyện Krông Búk và thị xã Buôn Hồ đã hình thành bộ máy quản lý mới, nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý tôn giáo.