1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

BUỔI THẢO LUẬN học kỳ môn những quy định chung về luật dân sự, tài sản và thừa kế

39 277 2

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Những Quy Định Chung Về Luật Dân Sự, Tài Sản Và Thừa Kế
Tác giả Vũ Thùy Linh, Lê Nguyễn Hồng Loan, Nguyễn Lê Diệu Ly, Bùi Thị Xuân Mai, Bùi Huy Minh, Phạm Nguyễn Nhật Minh, Đặng Kiều My
Trường học Trường Đại Học Luật Tp.Hcm
Chuyên ngành Luật Dân Sự
Thể loại buổi thảo luận
Định dạng
Số trang 39
Dung lượng 318,37 KB

Cấu trúc

  • Bài tập 1

    • 1.1. Trường hợp đại diện hợp lệ

    • 1.2. Trường hợp đại diện không hợp lệ

  • Bài tập 2

    • 2.1. Hình thức sở hữu tài sản

    • 2.2. Diện thừa kế

    • Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản

    • 2.3. Thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc

  • Bài tập 3

    • Quyết định số 619/2011DS-GĐT ngày 18/08/2011

    • Quyết định số 767/2011/DS-GĐT ngày 17/10/2011

    • Quyết định số 194/2012/DS-GĐT ngày 23/04/2012 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao

    • Quyết định số 363/2013/DS-GĐT ngày 28/08/2013 của Tòa án dân sự Tòa án nhân dân tối cao

  • Bài tập 4

  • Bài tập 5

Nội dung

Trường hợp đại diện hợp lệ

Câu 1: Điểm mới của BLDS 2015 (so với BLDS 2005) về người đại diện.

Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về người đại diện được nhóm chúng em xét trên 09 khía cạnh sau đây:

 Căn cứ pháp lý: Điều 139 BLDS 2005 và Điều 134 BLDS 2015.

 BLDS 2015 thêm “pháp nhân” là người đại diện thay vì chỉ có cá nhân (là

Theo Bộ luật Dân sự 2005, đại diện là hành động mà cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác Điều này có nghĩa là người đại diện không thể thực hiện giao dịch dân sự cho người khác nếu pháp luật yêu cầu họ phải tự mình thực hiện Bên cạnh đó, điều kiện về người đại diện đã được điều chỉnh từ việc yêu cầu "có năng lực hành vi dân sự đầy đủ" sang "phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập".

- Căn cứ xác lập quyền đại diện:

 Căn cứ pháp lý: Khoản 3 Điều 139 BLDS 2005 và Điều 135 BLDS 2015.

 Tách Điều 135 BLDS 2015 (căn cứ xác lập quyền đại diện) ra từ Khoản 3 Điều 139 BLDS 2005 BLDS 2015 thêm 2 căn cứ xác lập quyền đại diện là

Quyền đại diện được xác lập thông qua ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện, được quy định bởi quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật Các hình thức đại diện này bao gồm đại diện theo ủy quyền và đại diện theo pháp luật.

- Đại diện theo pháp luật:

 Căn cứ pháp lý: Điều 141 BLDS 2005 và Điều 136, 137 BLDS 2015.

Điều 141 BLDS 2005 được chia thành hai điều mới: Điều 136 quy định về đại diện theo pháp luật của cá nhân và Điều 137 quy định về đại diện theo pháp luật của pháp nhân Đồng thời, quy định liên quan đến chủ hộ gia đình và tổ trưởng tổ hợp tác đã bị bãi bỏ.

Theo Điều 137 Bộ luật Dân sự 2015, một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật Mỗi người đại diện này có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật.

- Đại diện theo ủy quyền:

 Căn cứ pháp lý: Điều 142, 143 BLDS 2005 và Điều 138 BLDS 2015

 Gộp Điều 142 và Điều 143 BLDS 2005 thành Điều 138 BLDS 2015 Thay

Pháp nhân có thể được coi là một chủ thể của pháp luật, cho phép cá nhân hoặc pháp nhân ủy quyền cho cá nhân hoặc pháp nhân khác thực hiện và xác lập giao dịch dân sự.

- Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện:

 Căn cứ pháp lý: Khoản 4 Điều 139 BLDS 2005 và Điều 139 BLDS 2015.

Điều 139 BLDS 2015 đã được phát triển thành một điều luật riêng, thay vì chỉ gói gọn trong Khoản 4 như trước đây Sự thay đổi này mở rộng các hậu quả pháp lý của hành vi đại diện, nâng cao tính rõ ràng và chi tiết trong quy định pháp luật.

“Người được đại diện có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập” thành 3 trường hợp:

Giao dịch dân sự được thực hiện bởi người đại diện với bên thứ ba trong phạm vi quyền hạn của mình, từ đó phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện.

2 Người đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết để đạt được mục đích của việc đại diện.

Trong trường hợp người đại diện nhận thức được hoặc có lý do để biết rằng hành vi đại diện được thực hiện do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép, thì hành vi đó sẽ không phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được đại diện Tuy nhiên, điều này không áp dụng nếu người được đại diện cũng biết hoặc phải biết về tình huống này mà không có sự phản đối.

 Căn cứ pháp lý: Điều 147, 148 BLDS 2005 và Điều 140 BLDS 2015

 Gộp Điều 147 (chấm dứt đại diện của cá nhân) và Điều 148 (chấm dứt đại diện của pháp nhân) của BLDS 2005 thành Điều 140 (thời hạn đại diện) (BLDS 2015).

 Căn cứ pháp lý: Điều 144 BLDS 2005 và Điều 141 BLDS 2015

Khoản 1 Điều 141 BLDS 2015 đã hạn chế quyền của người đại diện trong việc thực hiện giao dịch dân sự, khác với quy định của BLDS 2005, khi người đại diện theo pháp luật có quyền thực hiện mọi giao dịch vì lợi ích của người được đại diện, trừ khi pháp luật có quy định khác.

Người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi được quy định bởi các căn cứ như quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân, nội dung ủy quyền và các quy định khác của pháp luật.

Theo Khoản 3 Điều 141 BLDS 2015, một cá nhân hoặc pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau Tuy nhiên, họ không được thực hiện giao dịch dân sự nhân danh người được đại diện với chính mình hoặc với bên thứ ba mà họ cũng là người đại diện, trừ khi có quy định khác của pháp luật.

- Hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực

 Căn cứ: Điều 145 BLDS 2005 và Điều 142 BLDS 2015.

Khoản 1 Điều 142 BLDS 2015 quy định rằng giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện thực hiện sẽ không phát sinh nghĩa vụ đối với người được đại diện.

Khoản 4 Điều 142 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp lý trong trường hợp không có quyền đại diện Cụ thể, nếu người đại diện cố ý xác lập và thực hiện giao dịch dân sự gây thiệt hại cho bên được đại diện, thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường.

- Hậu quả của giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện

 Căn cứ pháp lý: Điều 146 BLDS 2005 và Điều 143 BLDS 2015.

Khoản 4 Điều 143 BLDS 2015 quy định rằng người đại diện và người đã giao dịch sẽ phải chịu trách nhiệm nếu cố ý thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện, gây thiệt hại cho người được đại diện.

Câu 2: Trong quyết định số 08, đoạn nào cho thấy ông Mạnh đại diện cho Hưng Yên xác lập hợp đồng với Vinausteeel?

Vào ngày 16/01/2007, ông Lê Văn Mạnh, Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (bên A), đã đại diện ký Hợp đồng mua bán phối thép số 01/HĐPT/2007/VA-HY với Vinausteel (bên B).

Câu 3: Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh có trách nhiệm gì với Vinausteel không?

Theo Hội đồng thẩm phán, ông Mạnh không có trách nhiệm gì với Vinausteel.

Trường hợp đại diện không hợp lệ

Trong Quyết định số 10, đoạn thể hiện rõ rằng người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không được Vinaconex ủy quyền, tức là họ không có thẩm quyền đại diện để thực hiện việc xác lập hợp đồng này.

Trích từ phần Xét thấy của Quyết định: “Công ty xây dựng số II Nghệ An có

Công văn số 064CV/XDII.TCKT gửi Chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An đề nghị không cho các Xí nghiệp thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An vay vốn khi chưa có bảo lãnh từ Công ty kể từ ngày 06/4/2001 Tất cả các văn bản liên quan đến vay vốn trước ngày này đều bị bãi bỏ Tuy nhiên, vào ngày 14/5/2001, Ngân hàng vẫn ký Hợp đồng tín dụng số 01/HĐTD cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay tiền, cho thấy rằng người xác lập hợp đồng với Ngân hàng không tuân thủ quy định đã nêu.

Vinaconex ủy quyền (không có thẩm quyền đại diện để xác lập).

Câu 2: Trong vụ việc trên, theo Tòa giám đốc thẩm, Vinaconex có chịu trách nhiệm với Ngân hàng về hợp đồng trên không?

Theo Tòa giám đốc thẩm, Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex phải chịu trách nhiệm thanh toán khoản nợ gốc và lãi tổng cộng 1.382.040.000 đồng cho Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm.

Tòa giải thích như sau:

Xí nghiệp xây dựng 4 đã sử dụng khoản tiền nhận được để mua máy móc phục vụ công việc được giao, và Ban giám đốc Công ty luôn nắm rõ việc vay vốn Ngân hàng của Xí nghiệp thông qua báo cáo tài chính định kỳ Ngày 28/10/2002, Công ty xây dựng số II Nghệ An đã có Công văn số 44 QĐ/CTII điều chuyển một số máy móc và phương tiện vận tải từ Xí nghiệp xây dựng 4 về văn phòng để phục vụ thi công các công trình của Công ty, trong đó bao gồm cả thiết bị hình thành từ vốn vay Ngân hàng.

Vào ngày 29/10/2004, Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex đã gửi thư xác nhận số dư tới Ngân hàng Công thương Nghệ An, yêu cầu xác nhận công nợ của Xí nghiệp xây dựng 4 tính đến ngày 30/6/2004 Ngân hàng đã xác nhận rằng Xí nghiệp xây dựng 4 còn nợ 1.731.000.000 đồng Điều này cho thấy Công ty xây dựng số II Nghệ An đã biết về khoản vay của Xí nghiệp xây dựng 4 và không phản đối, vì vậy Công ty xây dựng số II Nghệ An (hiện là Công ty cổ phần xây dựng 16 - Vinaconex) có trách nhiệm thanh toán khoản nợ này.

Câu 3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.

Xét trong mối quan hệ với Điều 92 BLDS 2005:

Theo Khoản 3, Điều 92 BLDS 2005, Xí nghiệp số 4 thuộc Công ty xây dựng số II Nghệ An có trách nhiệm thực hiện chức năng của pháp nhân Do đó, việc ông Tâm, Giám đốc Xí nghiệp 4, ký hợp đồng với Ngân hàng nhằm mục đích đầu tư mua sắm máy móc thiết bị để nâng cao năng lực thi công là hoàn toàn hợp lý.

Theo Khoản 5, Điều 92 BLDS 2005, Công ty xây dựng số II có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do chi nhánh xác lập Cụ thể, công ty có quyền quyết định cho chi nhánh số 4 vay vốn Trong bản án, Công ty xây dựng số II Nghệ An đã ban hành quyết định số 02/QĐ-CT ngày 9/2/2001 phê duyệt dự án và đề nghị của Xí nghiệp số 4 Ngày 25/2/2001, Tổng Công ty xây dựng số II Nghệ An đã gửi văn bản số 23 CV/TCT thông báo cho chi nhánh Ngân hàng Công thương Nghệ An về việc công ty đồng ý cho Xí nghiệp xây dựng 4 vay vốn trực tiếp tại chi nhánh Do đó, trách nhiệm của Công ty xây dựng số II là hợp lý.

Trong mối quan hệ với Điều 144 Bộ luật Dân sự 2005, ông Tâm được xác định là người đại diện cho công ty trong việc thực hiện giao dịch nhằm nâng cao năng lực thi công Do đó, quyết định của Tòa án trong trường hợp này là hợp lý.

Trong mối quan hệ với Điều 145 BLDS 2005, ông Tâm được xác định là người đại diện không hợp lệ; tuy nhiên, trong quá trình vay vốn, ông đã nhận được sự đồng ý từ công ty xây dựng số II Bản án không làm rõ liệu ông Tâm có nhận được công văn phản đối từ ông Thuận hay không, nhưng vào ngày 14/5/2001, ngân hàng đã ký hợp đồng tín dụng cho xí nghiệp.

4 vay tiền, thời điểm này ông Tâm là đại diện không hợp lệ Nhưng xét 3 trường hợp:

- Trường hợp 1: Nếu ông Tâm và ngân hàng đều không nhận được công văn phản đối thì quyết định của Tòa là hợp lí.

Trong trường hợp ông Tâm nhận công văn phản đối từ cấp trên nhưng vẫn ký hợp đồng với ngân hàng mà ngân hàng không hay biết, thì cả ông Tâm và ông Toản sẽ phải chịu trách nhiệm.

- Trường hợp 3: Nếu cả 2 bên cùng biết về công văn phản đối mà vẫn xác lập thì đại diện chi nhánh số 4 và ngân hàng liên đới giải quyết.

Nếu Ngân hàng phản đối hợp đồng dựa trên lý do người đại diện của Vinaconex không có quyền đại diện, cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng trong bối cảnh Quyết định số 10 Việc hủy bỏ hợp đồng sẽ phụ thuộc vào việc xác định quyền hạn của người đại diện và các điều khoản đã thỏa thuận giữa các bên Điều này nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của Ngân hàng và tránh rủi ro pháp lý cho Vinaconex.

Trong trường hợp Ngân hàng phản đối hợp đồng như trong quyết định số 10, yêu cầu hủy bỏ hợp đồng do người đại diện Vinaconex không có quyền đại diện, cần căn cứ vào Điều 142 BLDS 2015 để xem xét hai tình huống khác nhau.

Nếu công ty Vinaconex đã xác nhận giao dịch hoặc biết nhưng không phản đối trong thời gian hợp lý, hoặc có lỗi khiến người giao dịch không nhận thức được rằng 8 người thực hiện giao dịch dân sự với mình không có quyền đại diện, thì Vinaconex phải chịu trách nhiệm và bồi thường cho Ngân hàng.

Nếu Vinaconex không công nhận hoặc phản đối giao dịch, người đại diện không có quyền của Vinaconex sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Ngân hàng.

Bản án số 2493/2009/DS-ST liên quan đến cụ Khánh, người có 03 người con: bà Khót và ông Tâm là con chung với cụ Lầm, và ông Nhật là con với cụ Ngọt Cụ Khánh để lại di chúc cho ông Nhật toàn bộ căn nhà, được xác định là tài sản riêng của cụ Ông Tâm và bà Khót yêu cầu được hưởng thừa kế theo quy định pháp luật, mặc dù di chúc đã chỉ định ông Nhật Nguyên đơn lập luận rằng bà Khót đã 71 tuổi, không còn khả năng lao động, trong khi ông Tâm 68 tuổi, là thương binh mất 72% khả năng lao động Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án đã không chấp nhận yêu cầu của họ về việc thừa kế không phụ thuộc vào di chúc.

Hình thức sở hữu tài sản

Câu 1: Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về hình thức sở hữu tài sản.

Bộ luật hiện hành quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung, thay thế cho sáu hình thức sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005 Các hình thức sở hữu trước đây bao gồm sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung, cùng với sở hữu của các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội, cũng như tổ chức xã hội - nghề nghiệp.

Hình thức sở hữu toàn dân được quy định trong Chương XIII Phần thứ hai của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, bao gồm 8 điều từ Điều 197 đến Điều 204 Một điểm mới quan trọng là tên gọi của hình thức sở hữu này đã được đổi từ “sở hữu nhà nước” trong BLDS năm 2005 thành “sở hữu toàn dân” Nội dung của hình thức sở hữu toàn dân vẫn kế thừa các quy định trước đó của BLDS năm 2005 về sở hữu nhà nước.

Hình thức sở hữu riêng được quy định tại Điều 205 và 206 trong BLDS năm 2015, xác định chủ thể là cá nhân hoặc pháp nhân Luật không liệt kê cụ thể các loại tài sản thuộc sở hữu riêng như BLDS năm 2005, mà chỉ quy định nguyên tắc bảo vệ tài sản hợp pháp của chủ sở hữu Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của mình, miễn là không vi phạm pháp luật, không gây thiệt hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định về hình thức sở hữu chung trong 14 điều, từ Điều 207 đến Điều 220 thuộc Chương XIII, Phần thứ hai Nhiều quy định về sở hữu chung đã kế thừa các quy định cơ bản từ BLDS năm 2005, trong đó nêu rõ "sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản" và phân loại sở hữu chung thành sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất (Điều 207 BLDS năm 2015).

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt có được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm hay không? Để tìm hiểu câu trả lời, cần xem xét đoạn nào trong Quyết định số 377 (gọi tắt là Quyết định 377) đề cập đến vấn đề này.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt được ông Lưu xây dựng trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm Thông tin này được nêu rõ trong đoạn thứ tư của phần Xét thấy trong Quyết định số 377.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang được ông Lưu xây dựng trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm Tuy nhiên, từ năm

Năm 1975, ông Lưu chuyển vào miền Nam làm việc và tự lập nên nguồn thu nhập của mình; bà Thẩm không có đóng góp về kinh tế hay công sức trong việc xây dựng căn nhà này, vì vậy ông Lưu có quyền quyết định về căn nhà đó.

Câu hỏi đặt ra là căn nhà mà bà Thẩm nhắc đến có phải là tài sản chung của vợ chồng bà hay là tài sản riêng của ông Lưu Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, cần xem xét đoạn nào trong Quyết định 377 cung cấp câu trả lời cho câu hỏi trên.

Căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, với diện tích 101 m2, được bà Thẩm khẳng định là tài sản chung của vợ chồng bà, do đó bà không đồng ý với yêu cầu của bà Xê.

Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà thuộc sở hữu chung của ông Lưu và bà Thẩm, không phải sở hữu riêng của ông Lưu Đoạn trong Quyết định 377 cung cấp câu trả lời cho vấn đề này.

Theo Tòa án nhân dân tối cao, căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt, phường 6, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang thuộc sở hữu riêng của ông Lưu Quyết định 377 nêu rõ rằng căn nhà được ông Lưu tạo lập trong thời kỳ hôn nhân với bà Thẩm, nhưng từ năm 1975, ông Lưu đã chuyển vào miền Nam công tác và căn nhà được hình thành từ nguồn thu nhập của ông Bà Thẩm không có đóng góp kinh tế hay công sức nào trong việc xây dựng căn nhà này, do đó, ông Lưu có quyền quyết định về căn nhà.

Câu 5: Anh/chị có suy nghĩ gì về giải pháp trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao?

Theo nhóm em thì giải pháp của Toà dân sự Toà án nhân dân tối cao đưa ra là chưa hoàn toàn hợp lí.

Căn cứ theo Khoản 2 và Khoản 3 Điều 219 BLDS 2005 quy định về Sở hữu chung của vợ chồng:

Vợ chồng cùng nhau xây dựng và phát triển tài sản chung thông qua nỗ lực của cả hai; họ có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng và quyết định về tài sản chung.

3 Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”.

Ông Lưu và bà Thẩm có quyền ngang nhau đối với căn nhà 150/6A Lý Thường Kiệt, do đó ông Lưu không thể tự ý định đoạt toàn bộ căn nhà Nếu Tòa án xử lý theo hướng này, quan điểm của chúng tôi cho rằng điều đó chưa hợp lý, bởi vì ông Lưu và bà Thẩm vẫn là vợ chồng hợp pháp Bà Thẩm đã đóng góp công sức nuôi dưỡng các con chung trong nhiều năm với vai trò là người mẹ, nên cần đảm bảo sự công bằng tương đối trong mối quan hệ gia đình.

Nếu căn nhà là tài sản chung của ông Lưu và bà Thẩm, ông Lưu không thể tự ý di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà mà không có sự đồng ý của bà Thẩm Theo quy định tại Bộ luật Dân sự, tài sản chung phải được sự đồng thuận của các bên sở hữu khi có ý định chuyển nhượng hoặc định đoạt Do đó, việc di chúc toàn bộ căn nhà chỉ thuộc quyền của ông Lưu là không hợp pháp.

Nếu căn nhà trên là tài sản chung của ông Lưu, bà Thẩm thì ông Lưu không thể di chúc định đoạt toàn bộ căn nhà này.

Căn cứ theo Khoản 2 và 3 Điều 219 BLDS 2005 quy định về Sở hữu chung của vợ chồng:

Diện thừa kế

Câu 1: Bà Thẩm, chị Hương và bà Xê có thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu không ? Vì sao?

Bà Thẩm và chị Hương là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu, theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 Bà Thẩm là vợ hợp pháp của ông Lưu, trong khi chị Hương là con đẻ của ông, do đó họ đều có quyền thừa kế tài sản của ông Lưu.

Những người thừa kế theo pháp luật được phân chia thành các hàng, trong đó hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ và con nuôi của người đã mất.

Bà Xê không phải là vợ hợp pháp của ông Lưu, theo chứng minh của Tòa án, do đó, bà không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Lưu Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS 2005, bà Xê không có quyền thừa kế từ ông Lưu.

Câu 2: Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 thì câu trả lời cho câu hỏi trên có khác không? Vì sao?

Nếu ông Lưu và bà Xê kết hôn vào năm 1976, bà Xê sẽ được công nhận là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990, tại Khoản 4, điểm a, quy định về quyền thừa kế, nếu một người có nhiều vợ trước các mốc thời gian quy định (miền Bắc trước ngày 13/01/1960 và miền Nam trước ngày 25/03/1977), thì tất cả các người vợ sẽ là người thừa kế hàng thứ nhất của chồng Ngược lại, người chồng cũng là người thừa kế hàng thứ nhất của tất cả các người vợ.

Nếu ông Lưu kết hôn với bà Xê vào cuối năm 1976 tại Tiền Giang, trước ngày 25/03/1977, thì bà Xê sẽ được công nhận là vợ hợp pháp và thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

Câu 3: Trong vụ việc này, chị Hương có được chia di sản của ông Lưu không? Vì sao?

Trong vụ việc này, chị Hương không được thừa hưởng di sản của ông Lưu vì ông đã để lại di chúc hợp pháp, chỉ định bà Xê là người thừa kế toàn bộ căn nhà số 150/6A Lý Thường Kiệt Di chúc của ông Lưu đã xác định rõ ràng tài sản là của riêng ông, do đó, các quy định về thừa kế theo pháp luật không áp dụng trong trường hợp này, theo Điều 650 BLDS 2015 Chị Hương cũng không thuộc nhóm người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo Khoản 1 Điều.

Chị Hương, sinh năm 1965, đã đủ 39 tuổi vào thời điểm bà Xê nộp đơn khởi kiện năm 2004, đồng thời là con đã thành niên và có khả năng lao động bình thường.

Theo pháp luật hiện hành, người thừa kế có quyền sở hữu đối với tài sản di sản do người quá cố để lại kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người để lại di sản qua đời Cơ sở pháp lý cho quy định này được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015, cụ thể tại Điều 611, nêu rõ quyền và nghĩa vụ của người thừa kế đối với di sản.

Theo Điều 614 Bộ luật Dân sự 2015, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế bắt đầu phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, tức là khi người chết để lại tài sản Những người thừa kế sẽ có quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản mà người đã khuất để lại.

Theo Quyết định số 08, người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà ở và đất có tranh chấp khi bản án có hiệu lực pháp luật Điều này xảy ra sau khi các thủ tục pháp lý liên quan được hoàn tất, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người thừa kế.

Ông Hà qua đời vào ngày 12/05/2008, do đó, theo Khoản 1 Điều 611 Bộ luật Dân sự 2015, đây được xem là thời điểm mở thừa kế Vợ ông, bà Lý Thị Ơn, cùng các con của ông đã được thừa kế và quyền sở hữu nhà ở cùng quyền sử dụng đất đã được chuyển giao cho bà Lý Thị Ơn.

Theo Điều 614 BLDS 2015, từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế sẽ có quyền đối với tài sản do người chết để lại Trong trường hợp của ông Hà, do không để lại di chúc, di sản của ông sẽ được thừa kế theo quy định pháp luật tại Điểm a Khoản 1 Điều 650 BLDS 2015.

Như vậy, tại thời điểm ngày 12/5/2008 thì người thừa kế của ông Hà có quyền sở hữu nhà đất tranh chấp.

Nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản

Câu 1: Theo BLDS, những nghĩa vụ nào của người để lại di sản được ưu tiên thanh toán?

Căn cứ theo Điều 658 BLDS 2015, những nghĩa vụ của người để lại di sản được thanh toán theo thứ tự quy định tại các khoản sau đây sau đây:

1 Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng.

2 Tiền cấp dưỡng còn thiếu.

4 Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ.

6 Tiền bồi thường thiệt hại.

7 Thuế và các khoản phải nộp khác vào ngân sách nhà nước.

8 Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân.

10 Các chi phí khác. Ông Lưu và chị Hương là quan hệ cha con do chị Hương là con chung của ông Hương và bà Thẩm.

Căn cứ theo Khoản 2 Điều 69 và khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia đình năm

Kể từ năm 2014, cha mẹ có trách nhiệm ngang nhau trong việc nuôi dưỡng con chưa thành niên, đồng thời đây cũng là quyền lợi của họ Do đó, ông Lưu có nghĩa vụ nuôi dưỡng chị Hương cho đến khi cô đủ tuổi trưởng thành theo quy định của pháp luật.

Câu 3: Đoạn nào của Quyết định cho thấy bà Thẩm tự nuôi dưỡng chị Hương từ khi còn nhỏ đến khi trưởng thành?

Trong Quyết định đoạn, có nêu rõ rằng trong suốt thời gian ông Lưu công tác tại miền Nam, bà Thẩm đã đảm nhận vai trò nuôi dưỡng con chung của họ từ khi còn nhỏ cho đến khi trưởng thành.

Ngày đăng: 16/08/2021, 06:27

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w