Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, Hiệp định Genève được ký kết, đất nước ta được công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.. Tuy nhiên
Trang 1So sánh chủ trương đường lối của Đảng trong
giai đoạn 1954-1964 và giai đoạn 1965-1975.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, Hiệp định Genève được ký kết, đất nước ta được công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước Tuy nhiên không lâu sau ngày Hiệp định được ký kết, đế quốc Mỹ gạt thực dân Pháp, trực tiếp chi viện cho chính quyền Sài Gòn cả về nhân lực lẫn vật lực hòng chia cắt nước ta, biến Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn
cứ quân sự của Mỹ, ngăn sự phát triển của Chủ nghĩa Xã hội tới khu vực Đông Nam Á Trước tình đó, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống lại đế quốc Mỹ - một kẻ thù có tiềm lực mạnh về kinh tế, quân sự hàng đầu, Đảng ta đã đề ra đường lối trong hai giai đoạn 1954-1964 và giai đoạn 1965-1975 để lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến hành sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo
vệ miền Bắc, thống nhất Tổ quốc Phân tích chủ trương trong hai giai
đoạn trên sẽ thấy những điểm tương đồng nhất định.
Thứ nhất, cách mạng Việt Nam trong hai giai đoạn trên đều
được tiến hành khi hệ thống xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh, phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển và phong trào hòa bình dân chủ lên cao; nhân dân ta từ Bắc chí Nam đều sục sôi ý chí độc lập, thống nhất Tổ quốc Tuy nhiên, vẫn còn có những khó khăn khi mà đế quốc Mỹ với tiềm lực kinh tế hùng mạnh bước vào thời kỳ chạy đua vũ trang đối đầu với phe chủ nghĩa xã hội Ngoài ra, bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc trong hai giai đoạn này không hề
có lợi cho cách mạng Việt Nam
Thứ hai, về nội dung của đường lối, Đảng ta luôn có những
nhận định kịp thời và đúng đắn từ đó đưa ra những chủ trương vừa phù hợp với tình hình trong nước, vừa phù hợp với xu thế thời đại
Trang 2Điều đó được thể hiện qua việc xác định và phân chia nhiệm vụ hai miền, đặc biệt là trong Hội nghị Trung Ương lần thứ 15 (01 1959), Đại hội III (9-1960), Hội nghị Trung Ương lần thứ 11 (03-1965) và lần thứ 12 (12- 1965) đều đã thống nhất điều cốt lõi là ra sức củng cố xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân giành chính quyền tại miền Nam với nhận định miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất, miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp ( Đại hội III) và miền Bắc là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyến lớn ( Hội nghị Trung Ương lần thứ 11 (03-1965) và lần thứ 12)
Ngoài những điềm tương đồng, đường lối cách mạng ở hai giai
đoạn cũng có những điểm khác biệt để phù hợp với tình hình, diễn
biến của cuộc chiến tranh
Thứ nhất, giai đoạn 1954-1964 đường lối đưa ra mặt trận chủ
yếu là ở miền Nam thì đến giai đoạn 1965-1975, đường lối kháng chiến cứu nước chỉ đạo trên phạm vi cả nước
Thứ hai, trong giai đoạn 1965-1975, ngoài nhiệm vụ nhiệm vụ
xây dựng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế, là hậu phương vững chắc cho miền Nam, miền Bắc còn thêm một nhiệm vụ nữa đó là phải củng cố cả quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, chuẩn bị lực lượng đánh bại địch trong trường hợp chúng liều lĩnh mở rộng “ Chiến tranh cục bộ” ra cả nước
Thứ ba, trong giai đoạn 1954-1964 có đề cập đến việc “đấu
tranh để thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ và phương pháp hòa bình” tuy nhiên chủ trương này vẫn chưa được rõ ràng, bên cạnh đó là đẩy mạnh đấu tranh chính trị đồng thời phát triển đấu tranh vũ trang, thực hành kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh
vũ trang Đến giai đoạn 1965-1975, 23 đến 26/1, Hội nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam quyết định nâng hoạt động ngoại giao thành một mặt trận để phối hợp với mặt trận quân sự và chính trị và tại Hội nghị Trung Ương lần thứ 9 (11- 1963), Đảng chủ trương xác định hướng đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
Trang 3mạnh thời đại, nói cách khác là kết hợp đấu tranh chống Mỹ trên cả
ba mặt trận quân sự-chính trị-ngoại giao
Có thể nói cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta
là cuộc kháng chiến toàn diện và thắng lợi trên cả ba mặt trận quân
sự, chính trị, ngoại giao Trong đó mặt trận quân sự là mặt trận có tính quyết định nhất đến thắng lợi này Vì đây vẫn là một cuộc chiến tranh nên quá trình tổ chức, xây dựng quân đội, huy động lực lượng thực hành các phương thức tác chiến,… là vô cùng quan trọng, nó tạo đà, tạo thế, hậu thuẫn cho các mặt trận khác Bởi chỉ khi thất bại cay đắng trên bầu trời Hà Nội, Mỹ mới chịu ngồi xuống đặt bút ký vào Hiệp định Paris sau những lần trì hoãn và đàm phán thiếu thiện chí phía chính phủ Hoa Kỳ Cũng phải nói thêm rằng, "Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại", quân sự mà không đấu tranh ngoại giao cũng không có được sự công nhận, thắng lợi không chỉ dựa vào vũ lực Bởi vậy kết hợp được cả ba mặt trận là một thành công lớn quyết định đến chiến thắng của cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược