MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài nghiờn cứu
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, các quốc gia cần liên tục đổi mới để phát triển nền kinh tế, nhằm thích ứng và chủ động hội nhập với kinh tế toàn cầu Để vượt qua nền kinh tế lạc hậu và kém phát triển, cần thiết phải xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa Điều này đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có chiến lược phát triển kinh tế hợp lý, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách bền vững và có tầm nhìn dài hạn.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII xác định quy hoạch các vùng, đặc biệt là các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt và khu công nghiệp tập trung Nghị quyết Đại hội VIII năm 1996 nhấn mạnh việc hình thành các khu công nghiệp tạo điều kiện cho việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới, phát triển công nghiệp nông thôn và ven đô Các thành phố cần cải tạo cơ sở công nghiệp hiện có, di dời các cơ sở gây ô nhiễm ra ngoài khu dân cư và hạn chế xây dựng mới Hội nghị lần 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII xác định hướng phát triển khu công nghiệp là nâng cao hiệu quả hoạt động Đến nay, cả nước có 43 khu kinh tế ven biển, 267 khu công nghiệp và hơn 800 cụm công nghiệp, thu hút trên 40% tổng vốn FDI, đóng góp hơn 30% giá trị sản xuất công nghiệp và trên 20% kim ngạch xuất khẩu hàng năm, tạo việc làm cho khoảng 15% lao động cả nước và cải thiện hạ tầng địa phương Khu kinh tế và khu công nghiệp cũng thể hiện cơ chế quản lý Nhà nước theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính với cơ chế "một cửa, tại chỗ".
Sự hình thành và phát triển các khu công nghiệp phụ thuộc vào chính sách chung của Chính phủ, cùng với đó là sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ các chính sách và tổ chức địa phương.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu về công tác quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) ở Bắc Ninh, nơi có diện tích tự nhiên 802 km² và dân số khoảng 1.038.229 người vào cuối năm 2010 Từ khi tách tỉnh vào năm 1997, Bắc Ninh chủ yếu phát triển nông nghiệp và sản xuất tiểu thủ công nghiệp KCN đầu tiên tại đây được hình thành từ năm 1998 và chính thức hoạt động vào cuối năm 2000 Mặc dù công tác quản lý Nhà nước đã có nhiều cải tiến, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như tình trạng thu hút đầu tư thấp và tỷ lệ lấp đầy KCN chưa cao Để đạt được mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020, Bắc Ninh cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với các KCN Luận văn với đề tài “Công tác quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp ở Bắc Ninh: thực trạng và giải pháp” sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề này.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với các khu công nghiệp tại Bắc Ninh và đề xuất các giải pháp đổi mới nhằm hoàn thiện công tác quản lý, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của các khu công nghiệp ở Bắc Ninh trong những năm tới.
- Gúp phần hệ thống hoỏ một số vấn ủề lý luận và thực tiễn cơ bản về quản lý Nhà nước ở KCN
- Phõn tớch thực trạng quản lý Nhà nước ủối với cỏc KCN ở Bắc Ninh
Trường ðại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế ……… xii
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng và các thuận lợi khó khăn trong công tác QLNN ủối với cỏc KCN ở Bắc Ninh
- ðề xuất phương hướng và giải phỏp ủổi mới quản lý Nhà nước ủối với cỏc KCN ở Bắc Ninh trong thời gian tới.
đóng góp của ựề tài
- Bổ sung cỏc vấn ủề lý luận về quản lý nhà nước của chớnh quyền cấp tỉnh ủối với KCN
- Tổng kết một số mặt quản lý nhà nước của chớnh quyền tỉnh Bắc Ninh ủối với KCN ở Bắc Ninh
- ðưa ra một số giải phỏp về quản lý nhà nước ủể gúp phần cho sự phỏt triển nhanh hiệu quả và bền vững ủối với cỏc KCN.
ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 ðối tượng nghiên cứu ðối tượng nghiờn cứu là hoạt ủộng quản lý của cỏc cấp chớnh quyền tỉnh Bắc Ninh (UBND tỉnh và cỏc Sở, ban ngành cú liờn quan) ủối với cỏc KCN xõy dựng trờn ủịa bàn tỉnh Bắc Ninh ủược Chớnh Phủ thành lập và cỏc KCN sẽ ủược thành lập trong tương lai nằm trong quy hoạch ủó ủược duyệt
Luận văn nghiên cứu về công tác quản lý của chính quyền cấp tỉnh, đặc biệt trong khuôn khổ các chính sách và chế độ quản lý các KCN của Nhà nước Nghiên cứu sẽ tập trung vào chủ thể quản lý của chính quyền tỉnh Bắc Ninh, đồng thời xem xét chế độ chính sách chung của cả nước như một môi trường pháp lý cho việc quản lý KCN.
Luận văn phân tích thực trạng quá trình hoạt động xây dựng và phát triển các khu công nghiệp (KCN) tại Bắc Ninh, đồng thời xem xét vấn đề quản lý nhà nước đối với các KCN Nghiên cứu dựa trên số liệu giai đoạn 2006 - 2010 và chiến lược phát triển của tỉnh đến năm 2020.
Trường ðại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế ……… 13
TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái niệm về Khu công nghiệp
KCN hình thành và phát triển ở các nước tư bản vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhưng chưa có một định nghĩa thống nhất về KCN Các tổ chức quốc tế và quốc gia đưa ra nhiều quan niệm khác nhau Tại Việt Nam, KCN được nhắc đến từ thời kỳ miền Bắc xây dựng khu Gang thép Thái Nguyên và miền Nam với KCN Biên Hòa Tuy nhiên, khái niệm KCN chỉ chính thức được nêu ra trong Luật Đầu tư nước ngoài (1986), tại Khoản 14&15, Điều 2, xác định KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng công nghiệp.
Theo Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm theo Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ, KCN được định nghĩa tại Khoản 2&3, Điều 2 như sau: KCN là khu vực tập trung các doanh nghiệp sản xuất hàng công nghiệp và cung cấp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng và không có dân cư sinh sống; việc thành lập KCN do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định, trong đó có thể bao gồm doanh nghiệp chế xuất.
Theo Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005, khu công nghiệp (KCN) là khu vực chuyên sản xuất hàng công nghiệp và cung cấp các dịch vụ liên quan đến sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định và được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Mặc dự cú nhiều ủịnh nghĩa khỏc nhau về KCN, nhưng khỏi quỏt lại, cú thể hiểu KCN theo 2 cách:
Khu công nghiệp (KCN) là một khu vực được quy hoạch nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng và pháp lý phù hợp với sản xuất công nghiệp Trong KCN, có thể phát triển thêm các doanh nghiệp dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ phục vụ sản xuất công nghiệp, cũng như các dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí cho người lao động, khu thương mại, văn phòng và nhà ở cho công nhân Thực chất, KCN đóng vai trò như một khu hành chính kinh tế đặc biệt, tương tự như KCN Batam tại Indonesia và các công viên công nghiệp khác.
Trường ðại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế ……… 14
Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu, khu kinh tế mở Chu Lai, Dung Quất ở Việt Nam
Khu công nghiệp (KCN) là khu vực có ranh giới rõ ràng, tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống Mô hình này đã được phát triển tại nhiều quốc gia như Malaysia, Indonesia, Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc và Việt Nam.
Khu công nghiệp (KCN) là một khu vực có ranh giới địa lý xác định, được thiết lập với các điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp, bao gồm cơ sở hạ tầng phù hợp, quản lý nhà nước hiệu quả, và tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp cũng như các doanh nghiệp dịch vụ liên quan đến hoạt động công nghiệp.
2.1.2 ðặc ủiểm, vai trũ và phõn loại khu cụng nghiệp
2.1.2.1 ðặc ủiểm KCN a ðặc ủiểm tự nhiờn của khu cụng nghiệp
KCN thường được xây dựng ở vị trí địa lý thuận lợi như gần các đường giao thông, trung tâm kinh tế lớn, cảng biển và sân bay Để đảm bảo hiệu quả, các KCN cần có diện tích lớn, tập trung tại một địa điểm có địa hình bằng phẳng, gần nguồn nước và hạ tầng phù hợp Tuy nhiên, việc xây dựng KCN thường lấn chiếm quỹ đất nông nghiệp và đất đô thị, gây áp lực và xung đột với nhu cầu đất ở của cư dân Do đó, việc phát triển KCN cần tuân thủ quy hoạch tổng thể, hài hòa giữa các khu vực sinh hoạt, nông nghiệp, thủy sản và KCN.
Khu công nghiệp (KCN) thường tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghiệp khác nhau, dẫn đến việc sử dụng lượng lớn nguyên liệu, năng lượng và thải ra khối lượng chất thải lớn Sự tập trung sản xuất công nghiệp ở mật độ cao tạo ra những vấn đề kinh tế - kỹ thuật đặc thù cho các KCN Đồng thời, các đặc điểm chính trị - xã hội của khu công nghiệp cũng có những nét riêng biệt cần được quan tâm.
Trường ðại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế ……… 15
Khu công nghiệp (KCN) sử dụng lượng lao động lớn, dẫn đến nhiều hậu quả xã hội, đặc biệt là vấn đề người lao động ngụ cư Những người này thường không có nhà ở, thiếu sự hỗ trợ từ gia đình và gặp khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, gây khó khăn trong quản lý Hơn nữa, sự biến động của lượng lao động ngụ cư có thể tạo sức ép lên hệ thống giáo dục, y tế và nhà ở của địa phương Do đó, khi xây dựng các KCN, địa phương cần lường trước các yếu tố phát sinh này.
Trong quá trình vận hành các khu công nghiệp, thường xảy ra xung đột giữa người sử dụng lao động và người lao động, dễ dẫn đến đình công và bãi công lớn do tính chất lây truyền và sự gần gũi của các doanh nghiệp Nếu các tổ chức chính trị, xã hội không khéo léo giải quyết những xung đột này, có thể gây ra bất ổn cho cả khu vực.
Khu công nghiệp (KCN) cần có sự quản lý và điều hành hiệu quả từ cơ quan chức năng để giải quyết các vấn đề trong khu vực Nếu cơ quan này không được thiết kế và vận hành tốt, hiệu quả hoạt động của KCN sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Khu công nghiệp (KCN) là một thực thể độc lập với đặc điểm sản xuất công nghiệp tập trung cao, nhưng cũng có mối quan hệ chặt chẽ với các khu vực khác về đầu vào, đầu ra và các yếu tố ngoại sinh Để đảm bảo các quá trình kinh tế, xã hội và tự nhiên diễn ra thuận lợi trong và ngoài KCN, việc giải quyết yêu cầu này là nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
2.1.2.2 Vai trò của các khu công nghiệp
Trong thực tiễn hoạt ủộng của mỡnh, KCN thường cú cỏc vai trũ sau ủõy:
Khu công nghiệp (KCN) là phương thức phát triển công nghiệp hiệu quả, đặc biệt cho các nước nghèo Để phát triển công nghiệp, cần một nguồn tài chính lớn, nhưng các nước đang phát triển thường thiếu thốn nguồn lực này Nguyên nhân là do thiếu các nguồn tài trợ và nhu cầu duy trì các ngành khác để tồn tại Do đó, việc xây dựng các KCN là bước đi hợp lý để tận dụng mọi nguồn lực hiện có, từ đó phát triển dần dần các ngành công nghiệp.
CN ở ủịa phương theo hướng hiện ủại ngay từ ủầu Bởi vỡ, cỏc nước cú thể tập trung
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội đang nghiên cứu về luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, tập trung vào việc phát triển nguồn lực để trang bị cho các khu công nghiệp Nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng hiện tại và các điều kiện thuận lợi, đồng thời đề xuất một cơ chế quản lý và chế độ ưu đãi riêng nhằm khuyến khích các chủ đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất công nghiệp tại đây.
Thứ hai, KCN tạo không gian áp dụng chính sách ưu tiên cho phát triển
Áp dụng nhiều chính sách mới một cách đồng loạt trên diện rộng gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi Nhà nước thiếu nguồn lực hoặc chưa chuẩn bị đầy đủ Khu công nghiệp (KCN) là nơi lý tưởng để thử nghiệm các chính sách kinh tế mới, đặc biệt là các chính sách liên quan đến thuế, đầu tư và xuất khẩu.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thực trạng phát triển các KCN ở trên thế giới và Việt Nam
2.2.1.1 Chắnh sách phát triển Khu công nghiệp, Khu chế xuất ở đài Loan
Để thực hiện chính sách phát triển công nghiệp và quản lý môi trường, Đài Loan đã phát triển các khu chế xuất (KCX) và khu công nghiệp (KCN) từ những năm đầu Năm 1960, Chính phủ Đài Loan ban hành Bộ luật Khuyến khích đầu tư và sau đó là Bộ luật nâng cấp sản nghiệp Trong hơn 30 năm qua, Đài Loan đã quy hoạch 95 KCN và KCX với tổng diện tích hơn 13.000 ha đã hoàn thành và 19 KCN với tổng diện tích hơn 19.800 ha đang trong quá trình xây dựng Các KCN hoàn thành đã thu hút gần 9.400 nhà máy và tạo ra hơn 350.000 lao động, đóng góp quan trọng cho sự tăng trưởng sản xuất công nghiệp Đặc biệt, các KCX như Cao Hùng (60 ha), Nam Tử (98 ha) và Đài Trung (25 ha) đã mang lại 20 tỷ USD lợi nhuận và tạo việc làm cho 96.000 lao động sau 27 năm hoạt động.
Trường ðại học Nông Nghiệp Hà Nội – Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế ……… 35
Các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) sẽ nhận được nhiều ưu đãi về tài chính và quản lý Cơ quan quản lý KCX tại Đài Loan áp dụng cơ chế dịch vụ một cửa để xử lý các thủ tục từ phê duyệt đầu tư đến cung cấp dịch vụ Tuy nhiên, hiện nay, vấn đề lao động, công nghệ và ô nhiễm môi trường trong các KCN, KCX đang khiến các nhà đầu tư chuyển dịch các ngành sử dụng nhiều lao động, công nghệ thấp và dễ gây ô nhiễm sang các quốc gia khác Điều này nhằm phát triển các ngành có hàm lượng chất xám cao, công nghệ tiên tiến và sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế lớn.
Tại Đài Loan, có cơ quan chuyên trách nghiên cứu quy hoạch, xây dựng và phát triển khu công nghiệp (KCN) của quốc gia Các chính sách hướng dẫn về phát triển đất đai được cung cấp rất chi tiết, giúp tối ưu hóa quy trình phát triển KCN.
Lập quy hoạch khu công nghiệp (KCN) cần đảm bảo đáp ứng các yêu cầu thiết yếu, đồng thời lựa chọn các loại hình công nghiệp phù hợp để đầu tư Việc xác định vị trí và quy mô hợp lý là rất quan trọng để phát triển KCN một cách bền vững.
- Cỏc cụng việc ủược thực hiện ủồng bộ từ việc thủ tục ủến thiết kế quy hoạch, thiết kế xây dựng, bảo trì và phát triển KCN
Để thu hút các nhà đầu tư vào khu công nghiệp (KCN), cần tạo điều kiện thuận lợi bằng cách giải quyết đồng bộ các khâu liên quan đến thủ tục pháp lý, tài chính và phát triển đầu tư kinh doanh.
2.2.1.2 Chính sách phát triển Khu công nghiệp ở Malaysia
Chính phủ Malaysia đã thực hiện chính sách phát triển theo quy hoạch từ năm 1970, với việc hình thành các khu công nghiệp (KCN) Đến năm 1997, đã có 206 KCN và 14 khu tự do được thành lập, tổng diện tích vượt quá 30.000 ha Chính phủ cũng khuyến khích khu vực tư nhân tham gia phát triển thêm 24 khu công nghiệp Quy hoạch phát triển KCN được các cơ quan Trung ương đảm nhận, trong đó Bộ Tài chính đóng vai trò quyết định địa điểm xây dựng.
Mỗi bang của Malaysia thành lập Tổng công ty phát triển (SEDC) nhằm phát triển cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp, không chỉ mua sắm và xây dựng mà còn đảm nhiệm xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực và các công trình khác như nhà ở, khu vui chơi giải trí, bến cảng, hệ thống cấp điện và cấp nước Phương thức này giúp việc phát triển hạ tầng tuân thủ quy hoạch và thực hiện một cách đồng bộ.
Chính quyền địa phương các bang có trách nhiệm quản lý hoạt động của các khu công nghiệp và khu thương mại tự do, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững và hiệu quả trong hoạt động kinh tế.
Trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội cung cấp chương trình thạc sĩ khoa học kinh tế, tập trung vào quy trình thành lập doanh nghiệp và các thủ tục pháp lý cần thiết Chủ đầu tư cần đăng ký doanh nghiệp tại Bộ Công Thương, xin giấy phép đầu tư từ Uỷ ban Đầu tư (MIDA) và yêu cầu ưu đãi thuế từ Bộ Tài chính, với các cơ quan này có văn phòng đại diện tại các bang Sản phẩm được sản xuất tại các khu thương mại tự do có thể bán vào nội địa với tỷ lệ nhất định (khoảng 20%) và phải chịu thuế như hàng hóa nhập khẩu.
Kinh nghiệm về sự thành công của các Khu công nghiệp tại Malaysia
Đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật và chuẩn bị phát triển công nghiệp đồng bộ giúp giảm chi phí xây dựng nhà máy, tạo lợi thế cạnh tranh cho khu vực này so với nhiều nơi khác.
Các khu công nghiệp nên được xây dựng tại những vị trí thuận lợi cho giao thông, chẳng hạn như gần sân bay để phục vụ cho khu công nghiệp điện tử và gần bến cảng để hỗ trợ cho khu công nghiệp đóng tàu Hệ thống đường bộ và đường sắt cần phải liên kết trực tiếp với các khu công nghiệp này để đảm bảo khả năng vận chuyển hiệu quả.
- Về người lao ủộng ủược ủào tạo ủầy ủủ ủỏp ứng tốt cho cỏc nhà mỏy xớ nghiệp công nghiệp
Thời gian xây dựng các khu công nghiệp (KCN) thường gắn liền với sự phát triển mạnh mẽ của từng loại hình công nghiệp Chẳng hạn, vào những năm 70 của thế kỷ trước, ngành công nghiệp điện tử đã có sự bùng nổ đáng kể.
- Cú chớnh sỏch phỏt triển ủỳng ủắn và sự quan tõm ủng hộ mạnh mẽ của Chính phủ
2.2.1.3 Chính sách phát triển Khu công nghiệp ở Singapore
Singapore, một trong năm con rồng Châu Á, chú trọng vào việc xây dựng công nghiệp và phát triển đô thị bền vững, đồng thời đảm bảo yêu cầu bảo vệ môi trường Hai mục tiêu này được phát triển song song, với sự quan tâm ngang nhau, bao gồm phát triển kinh tế và duy trì môi trường trong sạch.
Trong những năm 1960, Singapore đã khuyến khích phát triển công nghiệp sử dụng nhiều lao động để giải quyết tình trạng thất nghiệp Đến những năm 1970, quốc gia này tập trung vào việc phát triển các ngành công nghiệp kéo sợi, may mặc và chế biến thực phẩm Vào năm 1980, Singapore tiến hành sắp xếp lại cơ cấu ngành công nghiệp theo hướng phát triển công nghiệp nặng, bao gồm đóng tàu và lọc dầu Sau đó, họ tiếp tục mở rộng các ngành công nghiệp kỹ thuật cao như luyện kim, chế tạo máy và thiết bị chính xác cao.
Xu hướng xây dựng khu công nghiệp nhẹ tại Singapore đang ngày càng phổ biến do tình trạng chật chội Các khu công nghiệp này được thiết kế đồng bộ với nhà xưởng cao tầng, tối ưu hóa diện tích sử dụng và nâng cao hiệu quả sản xuất.