1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành an toàn vệ sinh lao động phòng ngừa một số vấn đề sức khỏe.. tại hai quận thành phố Hà Nội, năm 2017 - 2019 (FULL TEXT)

198 44 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Can Thiệp Nâng Cao Kiến Thức, Thực Hành An Toàn Vệ Sinh Lao Động Phòng Ngừa Một Số Vấn Đề Sức Khỏe
Tác giả Đỗ Thị Thu Hà
Trường học Trường Đại Học Y Tế Công Cộng
Chuyên ngành Y Tế Công Cộng
Thể loại Luận Án Tiến Sỹ
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 198
Dung lượng 14,95 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: TỔNG QUAN (11)
    • 1.7. Một số biện pháp can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành của công nhân thu (38)
  • Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (50)
    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu (50)
    • 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu (50)
      • 2.2.1. Thời gian (50)
      • 2.2.2. Địa điểm (51)
    • 2.3. Thiết kế nghiên cứu (51)
    • 2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu (51)
      • 2.4.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu cho nghiên cứu định tính (53)
    • 2.5. Phương pháp thu thập số liệu và các chỉ số, biến số (55)
    • 2.6. Phương pháp phân tích số liệu (64)
    • 2.7. Sai số của nghiên cứu và biện pháp khắc phục (66)
    • 2.8. Đạo đức nghiên cứu (66)
  • Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU (68)
    • 3.1. Một số vấn đề sức khỏe thường gặp, kiến thức và thực hành về an toàn vệ (68)
      • 3.1.1. Đặc điểm công nhân thu gom chất thải rắn đô thị trong nghiên cứu (68)
      • 3.1.2. Một số vấn đề sức khỏe thường gặp của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại hai quận Hai Bà Trưng và Ba Đình, năm 2017 (72)
    • 3.2. Các hoạt động can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống rối loạn cơ xương nghề nghiệp của công nhân thu gom rác thải rắn đô thị (94)
    • 3.3. Kết quả can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống rối loạn cơ xương của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại quận Ba Đình, năm 2017-2019 (103)
      • 3.3.1. Kết quả cải thiện kiến thức, thực hành chung về an toàn vệ sinh lao động của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại quận Ba Đình sau can thiệp (103)
      • 3.3.2. Kết quả cải thiện kiến thức, thực hành về phòng chống rối loạn cơ xương của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại quận Ba Đình sau can thiệp (109)
      • 3.3.3. Kết quả cải thiện tình trạng sức khoẻ sau ca lao động của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại quận Ba Đình sau can thiệp (113)
      • 3.3.4. Tính duy trì, bền vững của can thiệp (116)
  • Chương 4: BÀN LUẬN (118)
    • 4.1. Một số vấn đề sức khỏe thường gặp, kiến thức và thực hành về an toàn vệ (118)
      • 4.1.1. Thông tin chung về công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tham gia nghiên cứu (118)
      • 4.1.2. Một số vấn đề sức khỏe thường gặp của công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại hai quận Hai Bà Trưng và Ba Đình, năm 2017 (120)
      • 4.1.3. Kiến thức, thực hành về an toàn vệ sinh lao động, phòng chống rối loạn cơ xương của công nhân thu gom rác thải rắn đô thị tại hai quận Hai Bà Trưng và Ba Đình, năm 2017 (123)
    • 4.3. Đánh giá kết quả can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành về an toàn vệ sinh (134)
    • 4.4. Bàn luận về phương pháp nghiên cứu (138)
  • KẾT LUẬN (142)

Nội dung

ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, quá trình đô thị hóa nhanh chóng, mật độ dân cư tại các khu vực thành thị tăng nhanh khiến lượng chất thải phát sinh tại các đô thị ngày càng lớn. Tại Việt Nam, ở hầu hết tất cả các thành phố, thị xã, việc thu gom, phân loại, vận chuyển và xử lý chất thải do các công ty môi trường đô thị (MTĐT) thực hiện. Trong đó, quá trình thu gom chất thải rắn đô thị (TGCTRĐT) vẫn được thực hiện bằng sức người với các thiết bị thô sơ và mang tính chất thủ công. Với các thiết bị thu gom, vận chuyển thô sơ, công nhân TGCTRĐT phải làm việc ngoài trời, trên đường phố, chịu tác động trực tiếp của các yếu tố thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Hơn nữa, “chất thải không được phân loại đúng tại nguồn, không được xử lý ban đầu một cách phù hợp đã khiến cho công nhân TGCTRĐT phải tiếp xúc trực tiếp nhiều hơn với bụi bẩn, các vật sắc nhọn, các sinh vật lây nhiễm và các yếu tố độc hại khác”. Những yếu tố này khiến cho công nhân TGCTRĐT có nguy cơ cao mắc phải những vấn đề về sức khỏe như bệnh về đường hô hấp, tiêu hóa, cơ xương, da liễu, tai nạn thương tích, rối loạn cơ xương (RLCX) (1-7) và bệnh nghề nghiệp (8). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy các RLCX là một trong những rối loạn phổ biến mà công nhân TGCTRĐT gặp phải. Tỷ lệ công nhân TGCTRĐT mắc RLCX khá cao dao động với tỷ lệ khoảng 45%-92,5% (2, 9-11). Trong đó, tỷ lệ RLCX ở công nhân TGCTRĐT cao nhất là 92,5% trong nghiên cứu của tác giả Ziaei và cộng sự năm 2018 tại Iran (11), 72,2% trong nghiên cứu Hàn Quốc (12) và 71% tại Ấn Độ (2). Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng, tỷ lệ công nhân TGCTRĐT có các chấn thương vùng thắt lưng dao động trong khoảng 16% đến 74% (13, 14). Tại Hà Lan, cứ 10.000 công nhân MTĐT thì có 19 người có nguy cơ mắc rối loạn cơ xương nghề nghiệp và con số này là 35 người đối với nhóm công nhân TGCTRĐT (15). Bên cạnh các nguy cơ RLCX, công nhân TGCTRĐT còn có nguy cơ mắc các bệnh khác. Tác giả Rachiotis G. và cộng sự năm 2012 đã chỉ ra tỷ lệ nhiễm viêm gan A ở những người TGCTRĐT là 61% (3). Nghiên cứu của tác giả Eskezia (2016) cho thấy hàng năm, tỷ lệ công nhân TGCTRĐT có ít nhất một chấn thương nghề nghiệp là 34,3% (95%CI: 29,52 - 39,10) (5). Trong nghiên cứu của tác giả Hala Samir Abou-AlWafa tại Ai Cập năm 2011, nhóm công nhân TGCTRĐT thường xuyên phải tiếp xúc với khói diesel do làm việc gần nơi có nhiều phương tiện qua lại, nên tỷ lệ mắc các bệnh đường hô hấp cao hơn hẳn so với nhóm công nhân dịch vụ (25% so với 12,2%) (16). Tại Việt Nam, kết quả khám sức khỏe định kỳ của Công ty Môi trường đô thị Hà Nội năm 2016 cho thấy có tới 42% công nhân TGCTRĐT xếp loại sức khỏe loại III, IV, V là do mắc các bệnh về hô hấp, răng miệng, da liễu (17). Kết quả các nghiên cứu về điều kiện lao động và vấn đề sức khỏe của công nhân MTĐT cho thấy do môi trường lao động (MTLĐ) có nhiều yếu tố bất lợi nên công nhân có nhiều vấn đề sức khỏe cần quan tâm như các rối loạn cơ xương, bệnh đường hô hấp, các bệnh da liễu hay tai nạn lao động, tai nạn thương tích… Tuy nhiên cho đến nay các nghiên cứu về vấn đề sức khoẻ và biện pháp nâng cao sức khoẻ cho công nhân TGCTRĐT còn hạn chế, đặc biệt ở Việt Nam. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là công nhân TGCTRĐT thường gặp vấn đề sức khoẻ nào liên quan đến nghề nghiệp? Kiến thức và thực hành phòng chống vấn đề sức khoẻ đó như thế nào? Cần làm gì để cải thiện sức khoẻ cho họ? Việc quan tâm, cải thiện điều kiện lao động, hạn chế các bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp, thực hiện các biện pháp nâng cao sức khỏe cho công nhân MTĐT, trong đó có công nhân TGCTRĐT, là vấn đề hết sức cần thiết. Nghiên cứu: “Nghiên cứu can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành an toàn vệ sinh lao động phòng ngừa một số vấn đề sức khỏe thường gặp ở công nhân thu gom chất thải rắn đô thị tại hai quận thành phố Hà Nội, năm 2017-2019” được thực hiện để trả lời các câu hỏi nghiên cứu ở trên.

TỔNG QUAN

Một số biện pháp can thiệp nâng cao kiến thức, thực hành của công nhân thu

1.7.1 Biện pháp thông tin, truyền thông, giáo dục sức khoẻ

Thông tin, truyền thông và giáo dục sức khoẻ cho người lao động (NLĐ) là biện pháp quan trọng được khuyến cáo bởi nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước Những hoạt động này không chỉ nâng cao kiến thức mà còn thay đổi thái độ và hành vi của NLĐ, giúp đảm bảo an toàn và vệ sinh trong lao động Qua đó, biện pháp này góp phần giảm thiểu rủi ro, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cho NLĐ cũng như cho doanh nghiệp và cơ sở.

Theo Ramaswamy P, người sử dụng lao động cần tổ chức huấn luyện ATVSLĐ cho công nhân TGCTRĐT Điều này giúp công nhân hiểu rõ hơn về cách tự chăm sóc sức khỏe và hạn chế các bệnh liên quan đến môi trường làm việc Đặc biệt, việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng PTBVCN là cần thiết để khuyến khích công nhân áp dụng các biện pháp bảo vệ cá nhân trong suốt quá trình làm việc.

Theo Nguyễn Thị Bích Hạnh (2016), doanh nghiệp cần thường xuyên tuyên truyền và hướng dẫn NLĐ về ATVSLĐ bằng nhiều hình thức phong phú như phổ biến, huấn luyện, đào tạo cấp chứng chỉ, tổ chức hội thảo và khen thưởng Việc chuyển giao công nghệ sạch và không ô nhiễm, cùng với việc thay thế nguyên liệu và năng lượng không gây ô nhiễm, cũng rất quan trọng Doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản lý ATVSLĐ, hướng dẫn NLĐ sử dụng công nghệ và phương pháp làm việc tiên tiến, cùng với việc hiểu rõ nội quy và chính sách mới Đặc biệt, NLĐ cần thành thạo kỹ năng vận hành máy móc an toàn qua các đợt kiểm tra và thi tay nghề.

Mặc dù Luật ATVSLĐ quy định việc thông tin, truyền thông và giáo dục sức khỏe cho người lao động tại nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, nhưng nhiều doanh nghiệp và cơ sở sử dụng lao động vẫn thực hiện các quy định này một cách hình thức và chiếu lệ Trình độ học vấn của người lao động không đồng đều và còn nhiều hạn chế, do đó cần tiếp tục nâng cao nhận thức của họ về việc tự thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe trong quá trình lao động.

1.7.2 Biện pháp y tế, tổ chức lao động

Nhóm biện pháp y tế và tổ chức lao động đóng vai trò quan trọng trong quản lý và thực hiện các quy định về an toàn vệ sinh lao động (ATVSLĐ) tại các cơ sở sử dụng lao động Những biện pháp này không chỉ gián tiếp cải thiện sức khoẻ của người lao động (NLĐ) thông qua việc nâng cao điều kiện làm việc, mà còn đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ của họ và khuyến khích NLĐ thực hành an toàn và vệ sinh lao động.

Theo Sudhir Nayak, việc tăng cường kiểm tra sử dụng PTBVCN trong công việc của công nhân TGCTRĐT là cần thiết Đồng thời, việc phân loại chất thải tại nguồn và sử dụng túi với mã màu khác nhau sẽ giúp nâng cao tỷ lệ sử dụng PTBVCN, đồng thời giảm thiểu nguy cơ phơi nhiễm các yếu tố có hại cho công nhân.

Nghiên cứu của Athanasiou M và cộng sự tại Keratsini, Ấn Độ nhấn mạnh rằng ngành y tế cần chú trọng hơn đến sức khỏe nghề nghiệp của người lao động (NLĐ) Công nhân làm việc trong môi trường độc hại nên được khám sàng lọc trước khi tuyển dụng và thực hiện khám sức khỏe định kỳ hàng năm Những công nhân có vấn đề về đường hô hấp hoặc chức năng phổi suy giảm cần được chuyển sang các bộ phận khác trong công ty Nghiên cứu cũng đề xuất các sáng kiến khuyến khích công nhân áp dụng kỹ thuật quản lý chất thải an toàn và sử dụng hợp lý các phương tiện bảo vệ cá nhân Hệ thống giám sát sức khỏe cho công nhân, bao gồm khám sức khỏe trước tuyển dụng và định kỳ, sẽ giúp xác định rủi ro và bảo vệ NLĐ có triệu chứng tiền rối loạn hô hấp hoặc nhạy cảm với tác nhân gây bệnh, như được chỉ ra trong nghiên cứu của Zuskin E.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Bích Hạnh tại Hà Nội chỉ ra rằng cần thiết phải xây dựng quy chế và quy chuẩn về ATVSLĐ, đồng thời hoàn chỉnh những điều còn thiếu và kiểm tra định kỳ an toàn lao động Để bảo vệ người lao động và đảm bảo điều kiện làm việc, cần nâng cao năng lực của tổ chức Công đoàn trong công ty, cải thiện kiến thức và thực hành ATVSLĐ cho NLĐ Mặc dù đây là biện pháp quan trọng giúp phòng chống bệnh nghề nghiệp, nhưng áp lực công việc cao, thu nhập thấp và chi phí đầu tư máy móc khiến doanh nghiệp dè dặt trong việc chăm sóc sức khỏe NLĐ Do đó, hiệu quả của các biện pháp này vẫn còn hạn chế.

1.7.3 Trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân phù hợp

Biện pháp sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (PTBVCN) là rất quan trọng đối với người lao động, đặc biệt là công nhân môi trường đô thị Việc sử dụng khẩu trang giúp bảo vệ đường hô hấp và giảm tiếp xúc với bụi khi quét đường Quần áo bảo hộ phản quang không chỉ giúp dễ nhận diện mà còn bảo vệ khỏi nắng nóng và vi khuẩn Giày và găng tay cần thiết để hạn chế tai nạn do vật sắc nhọn và giảm tiếp xúc với bề mặt bẩn Theo quy định pháp luật về an toàn vệ sinh lao động, chính quyền địa phương và các tổ chức liên quan phải trang bị đầy đủ PTBVCN cho công nhân, và công nhân cần tuân thủ việc sử dụng các phương tiện này trong quá trình làm việc.

Nghiên cứu can thiệp trên toàn cầu đã chỉ ra rằng việc sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (PTBVCN) có thể cải thiện điều kiện lao động và sức khỏe của công nhân trong môi trường làm việc Cụ thể, nghiên cứu của Zuskin E cho thấy quần áo bảo hộ, găng tay, giày và khẩu trang giúp ngăn ngừa gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh đường hô hấp cấp tính và mạn tính, cũng như các vấn đề sức khỏe khác Tương tự, tác giả Yogesh D Sabde khuyến nghị công nhân tại Nagpur, Ấn Độ nên tăng cường sử dụng PTBVCN như khẩu trang, kính bảo hộ, găng tay và giày ủng để giảm tiếp xúc với bụi và các yếu tố độc hại trong môi trường lao động.

Một nghiên cứu bán thực nghiệm năm 2012 tại Thái Lan đã so sánh hai nhóm người nhặt rác: nhóm can thiệp và nhóm đối chứng Chương trình can thiệp bao gồm đào tạo, hướng dẫn thực hành, thu gom và phân loại chất thải, cùng với hỗ trợ sử dụng ba loại trang thiết bị bảo vệ cá nhân (găng tay, ủng cao su và khẩu trang) Kết quả cho thấy nhóm can thiệp có sự cải thiện rõ rệt về kiến thức, thực hành và tình trạng sức khoẻ so với nhóm đối chứng.

Giải pháp sử dụng PTBVCN là biện pháp phòng ngừa phổ biến, đơn giản và hiệu quả cao nhất Để thực hiện hiệu quả, không chỉ doanh nghiệp mà mỗi cá nhân cũng cần nâng cao nhận thức và hành động phù hợp.

1.7.4 Một số mô hình can thiệp nâng cao kiến thức và thực hành về ATVSLĐ Để góp phần cải thiện các vấn đề sức khỏe cho công nhân MTĐT có rất nhiều hướng tiếp cận, có thể tiếp cận từ phía doanh nghiệp để cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện MTLĐ, gánh nặng tâm lý lao động hoặc tiếp cận theo hướng từ chủ quan NLĐ để họ tự thay đổi, khắc phục các yếu tố bất lợi của nghề nghiệp Tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này, có một số nghiên cứu trên thế giới đã được tiến hành tác động trực tiếp vào kiến thức, thực hành của công nhân.

Một nghiên cứu bán thực nghiệm tại Thái Lan vào năm 2012 đã phân chia 88 người nhặt rác thành hai nhóm: nhóm can thiệp với 44 người được đào tạo về thu gom và phân loại chất thải, cùng với việc hỗ trợ sử dụng thiết bị bảo vệ cá nhân (PTBVCN) như găng tay, ủng cao su và khẩu trang, và nhóm đối chứng với 44 người từ các địa điểm khác Kết quả cho thấy, sau can thiệp, sức khỏe thể chất của nhóm can thiệp đã cải thiện đáng kể so với nhóm đối chứng, cùng với sự gia tăng rõ rệt trong việc sử dụng PTBVCN.

Nghiên cứu của James Paul Kretchy năm 2014 tại Ghana cho thấy công nhân môi trường đô thị (MTĐT) sử dụng phương tiện bảo vệ cá nhân (PTBVCN) như găng tay, áo bảo hộ và ủng Wellington cao hơn ở nhóm công nhân nhặt rác so với nhóm công nhân quét rác và những người xử lý chất thải khác (p

Ngày đăng: 11/08/2021, 17:39

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w