Mục tiêu nghiên cứu…
Khảo sát mức độ và hàm lượng sử dụng thuốc, hóa chất trong nuôi tôm thẻ chân trắng nhằm bảo vệ môi trường và đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng an toàn, vệ sinh thực phẩm.
Xác định loại kháng sinh và mức độ tồn dư trong nuôi tôm thẻ chân trắng.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn…
Ý nghĩa khoa học
Đề tài nghiên cứu cung cấp thêm thông tin dữ liệu về số lượng thuốc, hóa chất và tồn dư kháng sinh trong nuôi tôm thẻ chân trắng.
Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn này cung cấp kiến thức quan trọng cho người nuôi tôm về việc sử dụng thuốc và hóa chất trong nuôi tôm thẻ chân trắng, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường.
Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và đề nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục luận văn gồm 3 chương:
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…
Đối tượng nghiên cứu…
Thời gian và phạm vi nghiên cứu…
9 xã nuôi tôm TCT thương phẩm tại Bình Định (được thực hiện tại 02 vùng đặc trưng là vùng nuôi trên cát và vùng đầm), cụ thể như sau:
- Huyện Hoài Nhơn: xã Hoài Mỹ (vùng Đầm Công Lương), xã Hoài Hải (vùng Kim Giao Nam), xã Tam Quan Nam (vùng Cửu Lợi Tây, Nam, Bắc)
- Huyện Phù Mỹ: xã Mỹ Thắng (thôn 8 và 9), xã Mỹ Đức (xóm mới), xã
Mỹ chánh (Cao Triều, Thượng An, Trung Xuân, An Hoan)
- Huyện Phù Cát: xã Cát Hải (thôn Chánh Oai, Tân Thắng), xã Cát Khánh (An Quang Đông), xã Cát Minh (Đức Phổ 1,2)
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khảo sát thực trạng nuôi tôm trên địa bàn 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát của tỉnh Bình Định
- Khảo sát các loại thuốc, hóa chất và tình hình sử dụng thuốc, hóa chất trong nuôi tôm
- Kiểm tra tồn dư kháng sinh trong tôm nuôi.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Hiện trạng nuôi tôm tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát của tỉnh Bình Định
Khảo sát diện tích, sản lượng và năng suất tôm nuôi của 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát được trình bày qua bảng sau:
Bảng 3.1 Năng suất tôm TCT của 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát
Theo bảng 3.1, diện tích nuôi tôm năm 2016 đã giảm so với năm 2015, với huyện Hoài Nhơn có diện tích lớn nhất là 107,1 ha và huyện Phù Cát có diện tích thấp nhất là 66,8 ha Nguyên nhân của sự giảm sút này là do tình hình dịch bệnh phức tạp và khó kiểm soát trong năm 2015, dẫn đến sản lượng nuôi không đạt yêu cầu, khiến nhiều hộ nuôi tôm quyết định ngừng hoạt động vào năm 2016.
Sau khi rút ra bài học từ năm 2015, người nuôi tôm đã cải thiện kỹ thuật nuôi tôm TCT trong năm 2016, dẫn đến sự tăng trưởng đáng kể về sản lượng và năng suất tôm so với năm trước Kết quả này được thể hiện rõ qua bảng 3.1 và đồ thị 3.1, cho thấy năng suất tôm TCT tại ba huyện trong năm 2015 và 2016.
Huyện Phù Cát năng suất tôm TCT thu được năm 2016 là 5,04 tấn/ha, tăng 22,63% so với năng suất tôm năm 2015
Huyện Phù Mỹ năng suất tôm TCT thu được năm 2016 là 8,40 tấn/ha, tăng 18,31% so với năm 2015
Huyện Hoài Nhơn, năng suất tôm TCT năm 2016 là 7,68 tấn/ha tăng
4,77% so với năng suất năm 2015
Mức tăng năng suất ở các huyện trong những năm qua có sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, huyện Phù Mỹ dẫn đầu về mức tăng năng suất, tiếp theo là huyện Hoài Nhơn, và huyện Phù Cát đứng ở vị trí thứ ba.
3.1.2 Trình độ văn hóa người nuôi tôm Điều tra trình độ văn hóa của người nuôi tôm ở 90 hộ nuôi tôm (30 hộ/huyện) ở 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát Kết quả như sau:
Bảng 3.2 Trình độ văn hóa và khả năng áp dụng kiến thức tập huấn chuyên môn vào nghề nuôi tôm TCT tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát
93,33 96,67 100,00 Áp dụng kiến thức tập huấn vào ao nuôi
Theo thống kê, tỷ lệ người dân áp dụng kiến thức nuôi tôm vào thực tế rất cao, dao động từ 80,00% đến 96,67%.
Trình độ văn hóa của người nuôi tôm ở ba huyện chủ yếu là tốt nghiệp cấp II, trong đó huyện Phù Mỹ có trình độ cấp III cao nhất, còn huyện Hoài Nhơn có trình độ thấp nhất Mặc dù trình độ chuyên môn giữa các huyện tương đương, chủ yếu do đào tạo từ các lớp tập huấn, nhưng việc áp dụng kiến thức này vào ao nuôi lại khác nhau Huyện Phù Cát có tỷ lệ áp dụng thấp nhất, trong khi Phù Mỹ đạt tỷ lệ cao nhất, dẫn đến sản lượng và năng suất tôm ở huyện Phù Cát thấp hơn so với hai huyện Hoài Nhơn và Phù Mỹ.
Theo điều tra, người nuôi tôm chủ yếu là nam giới trong độ tuổi lao động từ 42 đến 45, với độ tuổi thấp nhất là 22 và cao nhất là 76 Những người trong độ tuổi từ 28 đến 42 thường đạt tỷ lệ thành công cao hơn so với những người trẻ tuổi hoặc lớn tuổi hơn Lý do là ở độ tuổi này, họ có sức khỏe tốt và sẵn sàng đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật mới trong nuôi tôm Ngược lại, người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm, còn người lớn tuổi thường bảo thủ và khó thay đổi kỹ thuật, dẫn đến việc chỉ áp dụng kinh nghiệm nuôi tôm sú vào nuôi tôm thẻ chân trắng, làm giảm khả năng thành công.
Do trình độ văn hóa không đồng đều nên việc tiếp thu và áp dụng những kiến thức kỹ thuật vào thực tế còn có hạn chế nhất định
Theo số liệu điều tra, trong những năm đầu nuôi tôm TCT, hình thức nuôi chủ yếu là TC và BTC tại các vùng cát và đầm Sau đó, người dân chuyển sang nuôi tôm TCT theo hình thức QCCT, kết hợp với các đối tượng khác như cá và cua, mang lại hiệu quả cao Tỷ lệ diện tích nuôi TC và BTC đã giảm từ 35,9%.
33,01%, tỷ lệ diện tích nuôi QCCT tăng chậm từ 64,10% đến 66,99% (Kết quả điều tra thể hiện ở bảng 3.3 và đồ thị 3.2)
Năm 2016, diện tích nuôi tôm QCCT thân thiện với môi trường (TTMT) tại huyện Phù Mỹ đã tăng nhanh chóng, với việc thực hiện trên diện tích rộng và mật độ nuôi tương đối cao, góp phần nâng cao sản lượng và năng suất thu hoạch tôm Trong khi đó, diện tích nuôi tôm QCCT TTMT ở huyện Hoài Nhơn cũng có sự gia tăng, nhưng không đáng kể bằng huyện Phù Mỹ, và huyện Phù Cát ghi nhận mức tăng thấp nhất.
Bảng 3.3 Các hình thức nuôi tôm TCT
BTC QCCT TC-BTC QCCT
Năm 2016, tại Bình Định, 82,36% ao nuôi tôm thẻ chân trắng không có ao lắng và xử lý nước thải, trong khi chỉ có 8,33% số hộ có ao lắng và xử lý nước thải với diện tích chiếm khoảng 1/5 đến 1/4 diện tích ao nuôi Thực trạng này gây khó khăn trong việc quản lý ao nuôi và giảm thiểu bệnh dịch hàng năm.
Hiện nay, nhiều người nuôi thủy sản lấn chiếm đất để xây dựng ao nuôi mà không tuân thủ quy hoạch, dẫn đến việc chất thải được xả thẳng vào nguồn nước, gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường Mặc dù một số khu vực có hệ thống chứa và xử lý nước thải, nhưng theo thời gian, các hệ thống này đã xuống cấp và không đủ khả năng chứa nước thải cho toàn bộ vùng nuôi.
3.1.4 Mùa vụ thả nuôi Điều tra khảo sát mùa vụ thả nuôi tôm của 90 hộ, ở 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát (30 hộ/huyện, vùng trên cát 30 hộ, vùng trên đầm 60 hộ) Kết quả như sau:
Bảng 3.4 Mùa vụ thả nuôi tôm TCT của 3 huyện
Kết quả điều tra cho thấy mùa vụ thả nuôi tôm TCT khác nhau ở từng vùng, với 17,78% hộ nuôi 01 vụ/năm, 53,33% hộ nuôi 02 vụ/năm và 28,89% hộ nuôi 03 vụ/năm trở lên Một số ao nuôi có thể thả đến 4 - 5 vụ/năm, thường ở huyện Phù Mỹ và Phù Cát, với thời gian nuôi từ 2 - 2,5 tháng/vụ Thời gian cải tạo ao ngắn (7 - 10 ngày) dẫn đến việc diệt khuẩn không hiệu quả và môi trường nước dễ ô nhiễm, làm tăng nguy cơ dịch bệnh ở các vùng nuôi nhiều vụ/năm.
Theo đồ thị 3.3, vùng nuôi tôm trên cát có sản lượng cao nhất với ba vụ mỗi năm, trong khi vùng đầm chủ yếu chỉ nuôi tôm hai vụ Cả hai khu vực này đều tham gia vào hoạt động nuôi tôm.
Nuôi tôm trên đầm cát có nhiều lợi thế hơn so với đầm vùng, với khả năng thực hiện từ 3 vụ nuôi mỗi năm do không bị ngập lụt và dễ dàng cải tạo ao Điều này giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị ao nuôi, cho phép người nuôi tôm tối ưu hóa sản lượng.
Khảo sát mật độ thả tôm của 90 hộ, ở 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát (30 hộ/huyện, vùng trên cát 30 hộ, vùng trên đầm 60 hộ) Kết quả như sau:
Tình hình bệnh và sử dụng thuốc hóa chất điều trị
3.3.1 Kết quả điều tra tình hình bệnh Điều tra khảo sát tình hình bệnh tôm của 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát kết quả như sau:
Tình hình dịch bệnh trên tôm TCT tập trung chủ yếu là bệnh đốm trắng do virus và bệnh môi trường (xem phụ lục 4, 5 và 10 kèm theo)
Kết quả từ bảng 3.14 cho thấy huyện Hoài Nhơn có diện tích bệnh tôm lớn nhất, với 10,41 ha vào năm 2015 và 4,7 ha vào năm 2016 Huyện Phù Mỹ theo sau với diện tích bệnh tôm là 1,33 ha năm 2015 và 1,9 ha năm 2016, trong khi huyện Phù Cát không ghi nhận diện tích tôm bệnh nào Nguyên nhân là do huyện Phù Cát chủ yếu nuôi tôm trong ao lót bạt, giúp công tác cải tạo, phòng bệnh và kiểm soát bệnh dễ dàng hơn Ngược lại, huyện Hoài Nhơn và Phù Mỹ chủ yếu nuôi tôm trong đầm, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm soát mầm bệnh, và công tác phòng trị bệnh cho tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố môi trường.
Bảng 3.14 Tình hình dịch bệnh tôm TCT tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát
DT bệnh cả năm (ha) DT bệnh cả năm (ha)
Từ đồ thị 3.7, chúng tôi nhận thấy rằng tỷ lệ bệnh tôm ở ba huyện không đồng đều, dẫn đến sự khác biệt về năng suất tôm Cụ thể, huyện Phù Cát có quản lý phòng bệnh tốt, không có diện tích tôm bị bệnh; tuy nhiên, do thiếu chuyên môn và kỹ thuật chăm sóc, sản lượng tôm thu được ở đây thấp nhất trong ba huyện, chỉ đạt từ 4,11 - 5,04 tấn/ha.
Năm 2016, huyện Phù Mỹ ghi nhận tỷ lệ bệnh tôm là 2,51%, tăng 96,09% so với năm 2015, cho thấy quản lý bệnh tôm tại đây còn nhiều hạn chế và tình hình dịch bệnh chưa được cải thiện Tuy nhiên, nhờ áp dụng kỹ thuật tập huấn và tuân thủ lịch thời vụ nuôi tôm, sản lượng tôm thu được đạt mức cao nhất trong ba huyện, với năng suất 8,40 tấn/ha/năm.
Năm 2016, huyện Hoài Nhơn ghi nhận tỷ lệ bệnh tôm chỉ còn 4,39%, giảm 120,27% so với năm 2015, trong khi năng suất tôm tăng từ 7,1 đến 7,68% Đây là một bước tiến quan trọng trong nghề nuôi tôm TCT tại huyện, cho thấy người dân đã nâng cao ý thức trong việc phòng chống dịch bệnh và áp dụng kỹ thuật chuyên môn một cách hiệu quả.
Tình hình bệnh tôm diễn biến phức tạp qua các năm, gây thiệt hại lớn cho người nuôi tôm Năng suất tôm không chỉ phụ thuộc vào dịch bệnh mà còn vào trình độ chuyên môn và kỹ thuật chăm sóc của người nuôi Do đó, ý thức cộng đồng và trình độ chuyên môn của người nuôi tôm là rất quan trọng.
3.3.2 Các loại bệnh phổ biến trên tôm TCT Điều tra về các loại bệnh phổ biến của 90 hộ nuôi tôm (30 hộ/huyện) ở
3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát Kết quả như sau:
Bảng 3.15 Các loại bệnh trên tôm TCT tại 3 huyện Chỉ tiêu
Tên bệnh Dấu hiệu bệnh lý và tác hại Số hộ Tỷ lệ
Khi xuất hiện đốm trắng tròn đều dưới vỏ tôm, thường ở khu vực giáp đầu ngực, tỷ lệ tôm chết có thể lên tới 70-100% trong vòng 5-7 ngày sau khi xuất hiện dấu hiệu bệnh lý Đối với tôm còn nhỏ, phần lớn sẽ bị xả bỏ hoàn toàn.
Tôm vào bờ thường gặp tình trạng gan teo nhỏ, chỉ còn 1/3 thể tích bình thường, và trong một số trường hợp, gan có thể bị nhũn rữa, chuyển sang màu trắng đục Tình trạng này dẫn đến việc tôm bỏ ăn và có thể chết rải rác, với tỷ lệ tử vong từ 20-70% trong vòng 4-7 ngày sau khi xuất hiện dấu hiệu bệnh.
Bệnh Đen mang, vàng mang
Mang tôm có thể mất màu trắng ngà và chuyển sang vàng, nâu hoặc đen Khi bệnh nặng, hầu hết các tơ mang đều bị đen và xuất hiện hiện tượng rách nát, dẫn đến tình trạng chết rải rác, thậm chí có thể gây chết hàng loạt và giảm chất lượng tôm.
Vùng mềm vỏ kitin xuất hiện, tạo thành các điểm nâu và đen ở các phần như râu, đuôi phụ và đuôi tôm, dẫn đến hiện tượng mòn râu và cụt đuôi Đuôi tôm có thể phồng lên rồi dần dần mòn cụt, với màu đen ở các chỗ mòn, khiến tôm bỏ ăn Nếu bệnh nặng, tôm sẽ yếu, bỏ ăn và chết, trong khi nếu bệnh nhẹ, chất lượng tôm thương phẩm sẽ bị giảm.
Cuối hướng gió, xuất hiện các đoạn phân trắng nổi lên mặt nước Tôm có dấu hiệu bất thường với đuôi phân màu trắng đục, đường ruột bị đứt quãng hoặc trống rỗng, dẫn đến tình trạng giảm ăn và chậm lớn.
Bệnh co rút, Bệnh đục thân
(hoại tử cơ do yếu tố vô sinh)
Bệnh tôm có dấu hiệu co rút cứng ngay cả khi tôm vẫn còn sống, với đuôi cong về phía bụng và khó khăn trong việc vận động Tôm không thể bẻ tay ra, gặp khó khăn khi bắt mồi và thường chết rải rác.
- Phần giữa thân tôm có màu trắng đục, hoạt động yếu, kém ăn hay bỏ ăn, chết rải rác
Tôm mắc bệnh thường có màu sắc cơ thể nhợt nhạt, với phần giáp đầu ngực phồng lên và chuyển sang màu vàng Mang tôm bị bệnh có thể xuất hiện màu trắng, vàng nhạt hoặc nâu, trong khi gan tôm có màu vàng nhạt Tỷ lệ chết của tôm khi nhiễm bệnh này có thể lên đến 100%.
Theo bảng 3.15, bệnh trên tôm TCT tại ba huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và Phù Cát có sự phức tạp và đa dạng cao Trong đó, bệnh đốm trắng chỉ chiếm tỷ lệ 8,90%, phần lớn còn lại là do các yếu tố môi trường.
Các bệnh môi trường phổ biến nhất bao gồm bệnh đầu vàng với tỷ lệ 53,33%, tiếp theo là bệnh teo gan và sưng gan chiếm 23,33% Ngoài ra, còn một số bệnh khác như bệnh phân trắng, đốm đen và hoại tử cơ cũng thường gặp nhưng với tỷ lệ thấp hơn.
Hiện tại, bệnh đốm trắng chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, vì vậy việc phòng ngừa là rất quan trọng Các biện pháp phòng bệnh bao gồm lựa chọn con giống chất lượng, cải tạo ao nuôi và bổ sung hóa chất để tăng cường sức đề kháng Tuy nhiên, do không thể loại bỏ hoàn toàn mầm bệnh trong môi trường nuôi, tỷ lệ mắc bệnh vẫn ở mức cao.
3.3.3 Kết quả điều tra phòng bệnh Điều tra về biện pháp phòng bệnh của 90 hộ nuôi tôm (30 hộ/huyện) ở
3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát Kết quả như sau:
Bảng 3.16 Kết quả điều tra các biện pháp phòng bệnh trên tôm TCT ở 3 huyện năm
1 Định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng men vi sinh 6,67 3,33 6,67 5,56
2 Cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt, định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng khoáng và men vi sinh
3 Cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt, thay nước, định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng khoáng và men vi sinh
Kết quả kiểm tra tồn dư kháng sinh trong tôm nuôi
Chúng tôi đã hợp tác với Chi cục Quản lí chất lượng Nông, Lâm sản và Thủy sản để thực hiện hoạt động tăng cường hệ thống thú y thủy sản trong khuôn khổ Dự án Nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững (CRSD) tại tỉnh Bình Định Trong quá trình này, chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu giám sát kiểm tra dư lượng kháng sinh cấm như Chloramphenicol và Nitrofurans trong tôm nuôi tại ba huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ và Phù Cát Chi phí cho một đợt lấy mẫu giám sát là 93.201.000 VNĐ, một khoản chi không đáng kể so với thiệt hại do dịch bệnh trên tôm gây ra và so với lợi nhuận mà người dân thu được từ việc xuất khẩu tôm chất lượng cao ra nước ngoài.
Kết quả từ bảng 3.18 cho thấy, trong giai đoạn 2015-2016, phân tích CRSD không phát hiện dư lượng kháng sinh trong tôm TCT, bao gồm các nhóm Tetracyclines, độc tố nấm mốc, Chloramphenicol, thuốc diệt nấm, ký sinh trùng và thuốc nhuộm Malachite green Điều này chứng tỏ rằng người dân không sử dụng kháng sinh cấm trong nuôi trồng thủy sản.
Bảng 3.18 Kết quả phân tích tồn dư kháng sinh trong tôm TCT tại 3 huyện năm 2015-2016[9], [10]
Dư lượng tối đa (MRL)(ppb)
Thông tư số 15/2009/TT- BNN
Số lượng mẫu Kết quả phân tích Số lượng mẫu Kết quả phân tích
Kháng sinh cấm sử dụng
(không phát hiện) 6 KPH (không phát hiện)
Ciprofloxacin, Sarafloxacin, Flumequin) 1 KPH 1 KPH
Nhóm Sulfornamide(Sul) (Sulfadimethoxazole, Sulfadiazine, Sulfachoropyridazine, Sulfadimidine)
Dư lượng tối đa (MRL)(ppb)
Thông tư số 15/2009/TT- BNN
Kết quả phân tích Số lượng mẫu Kết quả phân tích
Kháng sinh cấm sử dụng
Dư lượng tối đa (MRL)(ppb)
Thông tư số 15/2009/TT- BNN
Số lượng mẫu Kết quả phân tích Số lượng mẫu Kết quả phân tích
Kháng sinh cấm sử dụng
Ciprofloxacin, Sarafloxacin, Flumequin) 1 KPH 1 KPH
Nhóm Tetracyline (Tet) (Oxytetracyline, 100 KPH KPH
Tetracyline, Doxycycline) Nhóm Sulfornamide(Sul) (Sulfadimethoxazole, Sulfadiazine, Sulfachoropyridazine, Sulfadimidine)
Trong thời gian qua, tôm nuôi ở Bình Định đã được xuất khẩu sang các thị trường lớn như Châu Âu, Châu Mỹ, Úc và Nhật Các quốc gia này thực hiện kiểm tra nghiêm ngặt về nguồn gốc và dư lượng kháng sinh, đảm bảo rằng tôm nuôi của Việt Nam không chứa kháng sinh cấm Chi cục Quản lý chất lượng Nông, Lâm sản và Thủy sản của Sở NNPTNT cũng thường xuyên kiểm tra và lấy mẫu tôm nuôi để kiểm soát dư lượng kháng sinh Qua đó, người nuôi tôm ngày càng nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của an toàn thực phẩm, giúp hạn chế dịch bệnh, tăng sản lượng và giá trị tôm, đồng thời phát triển nghề nuôi tôm một cách bền vững.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Qua kết quả điều tra 90 hộ nuôi tôm tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát chúng tôi sẽ rút ra được một số kết luận:
Năm 2016, năng suất tôm TCT tại ba huyện đã tăng so với năm 2015 Đối với trình độ văn hóa của người nuôi tôm, phần lớn là tốt nghiệp trung học cơ sở, trong khi đó, chuyên môn chủ yếu đến từ các lớp tập huấn đã qua.
Hiện nay, xu hướng nuôi tôm TCT đang gia tăng theo phương pháp nuôi QCCT TTMT, nhằm giảm thiểu mầm bệnh Mật độ nuôi tôm chủ yếu dao động từ 80 - 120 con/m², với 2 vụ nuôi mỗi năm là chính.
Tình hình dịch bệnh ở ba huyện đang diễn ra phức tạp với sự xuất hiện của bảy loại bệnh, trong đó bệnh môi trường, đặc biệt là bệnh hoại tử gan, chiếm tỷ lệ lớn Tất cả các hộ dân đều sử dụng thuốc và hóa chất để phòng ngừa và điều trị bệnh cho tôm, với kháng sinh phổ biến nhất là Bay Met và Leader Các hóa chất thường được sử dụng bao gồm vôi đá, vôi nung, saponin, phân lân, vitamin C và một số loại men vi sinh Mặc dù tỷ lệ điều trị bệnh bằng kháng sinh rất cao, nhưng hiệu quả điều trị lại không đạt yêu cầu.
Các hộ nuôi tôm TCT thường sử dụng kháng sinh để điều trị bệnh, nhưng kết quả điều tra hàng năm cho thấy không có dư lượng kháng sinh trong tôm nuôi Điều này chứng tỏ người dân tuân thủ quy định về liều lượng thuốc và không sử dụng các loại thuốc nằm trong danh mục cấm.
- Chi phí thuốc là một trong ba khoản chi phí chiếm tỷ lệ cao nhất hằng năm
- Lựa chọn tôm giống đạt chất lượng Thả giống với mật độ phù hợp với đặc điểm ao nuôi
- Hạn chế việc sử dụng thuốc hóa chất, nên tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học trong quá trình nuôi tôm
Sở NNPTNT và Chi cục Quản lý Chất lượng Nông, Lâm sản và Thủy sản Bình Định cần tăng cường công tác kiểm tra định kỳ dư lượng kháng sinh trên địa bàn tỉnh để đảm bảo chất lượng sản phẩm nông sản và thủy sản.
[1] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2009), Thông tư số 15/2009/TT-BNN PTNT ngày 17/03/2009, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn
[2] Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2016), Thông tư số 10/2016/TT-BNN PTNT ngày 01/06/2016, Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn
[3] Bộ Thủy sản (1999), Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2000
[4] Bộ Thủy sản (2006), NAFIQUAVED- Kết quả kiểm soát dư lượng các chất độc hại trong sản phẩm Thủy sản nuôi tháng 2/2007
[5] Chi cục Chăn nuôi - Thú y Bình Định, báo cáo tổng kết tình hình dịch bệnh của thủy sản tôm nước lợ năm 2015
[6] Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Bình Định, báo cáo tổng kết sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2015
[7] Chi cục Nuôi trồng Thủy sản Bình Định, báo cáo tổng kết sản xuất nuôi tôm nước lợ năm 2016
[8] Chi cục Thú y Bình Định, báo cáo tổng kết tình hình dịch bệnh của thủy sản tôm nước lợ năm 2016
[9] Chi cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản Bình Định
(2015), Báo cáo tổng kết DA CRSD năm 2015
[10] Chi cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản Bình Định
(2016), Báo cáo tổng kết DA CRSD năm 2016
[11].Chi cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản Bình Định
(2016), Báo cáo kết quả thực hiện chương trình kiểm soát dư lượng các chất độc hại trong Động vật và Thủy sản nuôi năm 2016
[12].Cục Quản lý Chất lượng Nông Lâm sản và Thủy sản (2008), Sổ tay thực hiện chương trình kiểm soát dư lượng
[13].Thái Bá Hồ và Ngô Trọng Lư (2004), Kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng,
Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội
[14] Nguyễn Khắc Hường (2007), Sổ tay kỹ thuật nuôi trồng Thủy hải sản, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Hà Nội, tr.84-90
[15] TS Trần Viết Mỹ (2009), Cẩm nang nuôi tôm chân trắng (Pennaeus vannmei), Trung tâm khuyến nông, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tp Hồ Chí Minh, 30 trang
[16] Nguyễn Văn Năm, Phạm Văn Ty (2007), Vai trò chế phẩm sinh học trong nuôi trồng Thủy sản, Thông tin khoa học công nghệ, Kinh tế
Thủy sản số 3/2007, Bộ Thủy sản
Nguyễn Thị Phương Nga (2004) đã thực hiện một nghiên cứu về tình hình phân phối và sử dụng thuốc trong ngành thủy sản tại các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau Luận văn Thạc sĩ của bà được thực hiện tại Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, nhằm phân tích các vấn đề liên quan đến việc quản lý và sử dụng thuốc trong nuôi trồng thủy sản.
TS Vũ Dũng Tiến, ThS Bùi Đức Quý, ThS Trần Thị Bưởi và ThS Nguyễn Trần Tho (2013) đã biên soạn tài liệu "Hướng dẫn sử dụng thuốc kháng sinh, sản phẩm xử lý và cải tạo môi trường trong nuôi trồng thủy sản" Tài liệu này được phát hành bởi Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nhằm cung cấp kiến thức và hướng dẫn cho nông dân trong việc sử dụng thuốc và sản phẩm cải tạo môi trường hiệu quả trong ngành nuôi trồng thủy sản.
GESAMP (1997) là nhóm chuyên gia nghiên cứu các khía cạnh khoa học liên quan đến bảo vệ môi trường biển, nhằm đảm bảo việc sử dụng an toàn và hiệu quả các hóa chất trong nuôi trồng thủy sản ven biển Báo cáo này có tổng cộng 44 trang, cung cấp thông tin quan trọng về các biện pháp bảo vệ môi trường trong ngành nuôi trồng thủy sản.
[20] FAO (2004) Introductions and movement of Penaeus vannamei and Penaeus Stylirostris in Asia and the Pacifi c, Bangkok
[23] https://vi.wikipedia.org/wiki/Kháng_sinh
[24] https://en.wikipedia.org/wiki/ELISA
Phụ lục 1: Danh mục thuốc thú y cấm sử dụng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản[2]
STT Tên hóa chất, kháng sinh
1 Aristolochia spp và các chế phẩm từ chúng
9 Nitrofuran (bao gồm cả Furazolidone)
Nhóm Fluoroquinolones được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thức ăn, thuốc thú y, hóa chất, và chất xử lý môi trường Chúng cũng được áp dụng trong các sản phẩm tẩy rửa khử trùng và chất bảo quản trong nuôi trồng thủy sản, cũng như trong sơ chế và chế biến động vật thủy sản.
Phụ lục 2: Danh mục hóa chất, kháng sinh hạn chế sử dụng trong sản xuất kinh doanh thủy sản[1]
TT Tên hoá chất, kháng sinh
Dư lượng tối đa (MRL)(ppb)
Phụ lục 3 Mẫu phiếu điều tra
VỀ TÌNH HÌNH NUÔI TÔM THẺ CHÂN TRẮNG CỦA HỘ
Họ và tên chủ hộ: Giới tính:
Trình độ chuyên môn: Trình độ học vấn:
Kinh nghiệm (năm): Nghề nghiệp hiện tại:
A MỘT SỐ THÔNG TIN CHUNG
Sản lượng thu hoạch (tấn)
Mật độ thả (con/ha)
Tham gia hoạt động cộng đồng
B CÁC LOẠI HÓA CHẤT SỬ DỤNG
Mục đích Tên hóa chất Liều lượng sử dụng Lý do sử dụng
Sản phẩm cải tạo ao
Sản phẩm gây màu nước
Sản phẩm bổ sung vào thức ăn
Loại thuốc (hoặc hóa chất điều trị )
Phương thức điều trị Hiệu quả
Các loại chi phí Trung bình (triệu đồng/ha) Ghi chú
Cải tạo Con giống Thức ăn
Thuốc Điện và nhiên liệu
Phụ lục 4: Hiện trạng nuôi tôm ở 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát năm 2015 [5], [6]
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn) Diện tích bệnh ĐT(ha)
Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 TC-
(Cửu Lợi Tây, Nam , Bắc)
Phụ lục 5: Hiện trạng nuôi tôm ở 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát năm 2016[7], [8]
Diện tích (ha) Sản lượng (tấn)
Diện tích bệnh ĐT (ha)
Diện tích bệnh MT (ha)
Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 Vụ 1 Vụ 2 TC-
Hoài Hải (Kim Nam Giao) 11,00 13,00 127,4 124,00 0 0 1,10 1,10 7,60 16,40
Tam Quan Nam (Cửu Lợi Tây, Nam ,
Mỹ Chánh (Cao Triều Thượng An, Công Trung, Trung Xuân,
Phụ lục 6 Trình độ văn hóa và khả năng áp dụng kiến thức tập huấn chuyên môn vào nghề nuôi tôm TCT tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù
Các chỉ Huyện tiêu điều tra
28,00 93,33 29,00 96,67 30,00 100,00 Áp dụng kiến thức tập huấn vào ao nuôi
Phụ lục 7 Các khoản chi phí 1 vụ nuôi tôm của huyện Hoài Nhơn
Chi phí điện, nhiên liệu
Standard Deviation 40,7315559 18,23819 101,9396 52,05687786 14,09774 Sample Variance 1659,059646 332,6316 10391,67 2709,918533 198,7464 Kurtosis 1,729863223 1,11314 1,417401
Phụ lục 8: Các khoản chi phí 1 vụ nuôi tôm của huyện Phù Mỹ
Chi phí điện, nhiên liệu
Standard Deviation 54,10964488 9,763847947 183,3211 87,63999496 27,39604 Sample Variance 2927,853669 95,33272673 33606,64 7680,768716 750,5431 Kurtosis -1,01420282 0,426996024 -0,50428 1,409438012 -0,17037 Skewness -0,367876953 0,728720893 0,154616 0,98171064 0,163406
Phụ lục 9 Các khoản chi phí của 1 vụ nuôi tôm của huyện Phù Cát
Chi phí điện, nhiên liệu
Standard Deviation 111,3893165 11,17572712 232,3042482 104,6167 55,6476 Sample Variance 12407,57983 124,8968767 53965,26371 10944,66 3096,656 Kurtosis 3,9866999 0,527592973
Phụ lục 10 Diện tích dịch bệnh tôm TCT tại 3 huyện Hoài Nhơn, Phù
Mỹ, Phù Cát trên địa bàn tỉnh Bình Định năm 2016
DT bệnh cả năm (ha)
DT bệnh cả năm (ha)
(ha) ĐT MT ĐT MT ĐT MT
Phụ lục 11 Các biện pháp phòng bệnh
Các biện pháp phòng bệnh
1 Định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng men vi sinh
Cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt, định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng khoáng và men vi sinh
Cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt, thay nước, định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng khoáng và men vi sinh
Cải tạo ao kỹ, chọn giống tốt, nuôi thưa, định kỳ dùng hóa chất diệt khuẩn, sau đó dùng khoáng, men vi sinh và cho ăn thêm thuốc bổ
Phụ lục 12 Khối lượng công việc hoàn thành dự án CRSD năm
TT Nội dung Đơn vị
III Giám sát dịch bệnh thú y thủy sản Mã số:
1 Vật tư phục vụ lấy mẫu bộ 1 3.500.000
2 Chi phí mua mẫu mẫu 80 16.785.00
3 Chi phí bảo quản/cố định mẫu và gửi xe đi xét nghiệm lần 40 18.800.00
5 Chi phí xăng xe lần 80 8.866.000
6 Chi phí xét nghiệm mẫu mẫu 80 33.850.00
7 Chi phí Test kiểm tra nhanh hộp 4 2.640.000
Bằng chữ: Chín mươi ba triệu hai trăm lẻ một ngàn đồng
Hình 2 Nhóm sản phẩm cải tạo ao a) b) c) d)
Hình 3 Nhóm sản phẩm diệt tạp a) b) c) d) e)
Hình 4 Nhóm sản phẩm gây màu nước a) b) b) d) e) f) g) h) i) j) k) l) m) n) o) p) r) s)
Hình 5 Nhóm sản phẩm bổ sung vào thức ăn a) b) c) d) e) f) g) h) i) j) k)
Hình 6 Nhóm kháng sinh trị bệnh a) b)
Hình 7 Tôm bị bệnh vàng mang tại ao nuôi Mỹ Thắng, Phù Mỹ (62 ngày tuổi) tuổi)
Hình 8 Gan tôm TCT tại Hoài Mỹ - Hoài Nhơn bị hoại tử chuyển sang màu vàng nhạt (32 ngày tuổi)
Tôm nuôi thương phẩm tại Hoài Mỹ - Hoài Nhơn, 32 ngày tuổi, đang mắc bệnh đốm trắng (WSSV), với các đốm trắng tròn dày xuất hiện dưới lớp vỏ kitin của giáp đầu ngực.
Hình 10 Tôm TCT thương phẩm chết do bị bệnh đốm trắng (WSSV) tại ao nuôi ở Hoài hải, Hoài Nhơn (62 ngày tuổi) a) b) c) d) e)