Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mặc dù đã xuất hiện gần ba thập kỷ, HIV/AIDS vẫn là một thách thức lớn cho các nhà khoa học và bác sĩ do tốc độ lây lan nhanh chóng và nguy cơ tử vong cao Vì lý do này, việc nghiên cứu và phát triển thuốc điều trị cho căn bệnh này luôn được đặt lên hàng đầu.
Trong thế kỷ này, công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS đã trở thành ưu tiên hàng đầu nhằm giảm thiểu tốc độ lây lan và ảnh hưởng đến xã hội Bài viết tập trung vào việc nghiên cứu và đánh giá tác động của truyền thông đại chúng trong công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS, đặc biệt là đối với trẻ vị thành niên và cộng đồng nói chung trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu đánh giá kiến thức, thái độ và hành vi của trẻ vị thành niên về HIV/AIDS trong bối cảnh thông tin bùng nổ hiện nay Mục tiêu là tìm hiểu xem giới trẻ có nhận thức đầy đủ về cách tự bảo vệ bản thân trước đại dịch AIDS hay không.
- Tìm hiểu tần suất và tính chất của các loại hình tuyên truyền kiến thức về
HIV trên các phương tiện truyền thông đại chúng
Nghiên cứu này nhằm thu thập ý kiến đánh giá của trẻ vị thành niên về các hình thức và nội dung tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông đại chúng khác nhau Qua đó, so sánh hiệu quả của ba loại phương tiện: truyền thanh, truyền hình và báo in trong công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS cho đối tượng trẻ vị thành niên.
Truyền thông đại chúng và mô hình tuyên truyền đồng đẳng hay truyền thông trực tiếp đều là những hình thức thông tin quan trọng hiện nay Trong khi truyền thông đại chúng tiếp cận một lượng lớn khán giả, mô hình tuyên truyền đồng đẳng lại cho phép sự tương tác trực tiếp và cá nhân hóa thông điệp Sự hiệu quả của từng phương thức này phụ thuộc vào mục tiêu truyền thông và đối tượng tiếp nhận thông tin Việc so sánh hai hình thức này giúp xác định cách thức tối ưu để truyền tải thông điệp đến công chúng.
Nghiên cứu "hố chênh lệch kiến thức" trong việc tiếp nhận thông điệp truyền thông giữa nhóm trẻ vị thành niên trong trường học và trẻ vị thành niên trong cộng đồng là rất quan trọng Điều này cũng bao gồm việc so sánh sự khác biệt trong nhận thức giữa các trẻ vị thành niên ở hai quận khác nhau Việc hiểu rõ những yếu tố này sẽ giúp cải thiện cách thức truyền thông và tăng cường hiệu quả giao tiếp trong giới trẻ.
- Đề xuất các khuyến nghị liên quan nhằm đẩy mạnh loại hình truyền thông phù hợp.
Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào tác động của truyền thông đại chúng, cụ thể là ba loại hình truyền thông chính: truyền thanh, truyền hình và báo in Mặc dù có xem xét các hình thức truyền thông khác, nhưng chúng chỉ được sử dụng để so sánh và đối chiếu với ba loại hình chính này.
- Khách thể nghiên cứu là trẻ vị thành niên trong độ tuổi từ 14 đến 17 trong trường học và ngoài cộng đồng
Đề tài nghiên cứu được thực hiện tại Quận Gò Vấp và Quận 6, hai khu vực có tốc độ đô thị hóa nhanh chóng và sự dịch chuyển lao động mạnh mẽ, đồng thời đang phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến tệ nạn xã hội.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Đến nay, các nghiên cứu về HIV/AIDS chủ yếu tập trung vào khía cạnh y khoa, nhằm khám phá các biểu hiện lâm sàng và vấn đề y tế liên quan Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ cũng thực hiện nghiên cứu để nâng cao nhận thức xã hội về đại dịch HIV/AIDS, đồng thời đánh giá nhu cầu thực tế tại từng khu vực nhằm đưa ra những can thiệp kịp thời và phù hợp.
Đề tài nghiên cứu này áp dụng các phương pháp xã hội học để đánh giá vấn đề HIV/AIDS, nhằm làm phong phú thêm lý luận và hiểu biết thực tiễn của trẻ vị thành niên về bệnh này Ngoài ra, nghiên cứu cũng sẽ đóng góp vào kho dữ liệu của các công trình nghiên cứu liên quan đến HIV/AIDS.
Đề tài này sẽ cung cấp nguồn tư liệu quý giá cho các trường học, giúp họ nhận diện rõ hơn mối quan tâm của học sinh về các vấn đề xã hội Nó cũng hỗ trợ trong việc thiết kế và triển khai các hình thức tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS, từ đó giúp nắm bắt tâm lý và nguyện vọng của học sinh, đảm bảo hướng truyền thông hiệu quả và thiết thực.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định tính
5.1.1 Phân tích tư liệu sẵn có
Việc sử dụng tư liệu có sẵn như số liệu thống kê, văn bản, bài báo, tạp chí và kết quả nghiên cứu trước đây giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quát về vấn đề đang nghiên cứu Điều này không chỉ hỗ trợ trong việc đánh giá so sánh với các công trình nghiên cứu trước đó mà còn làm phong phú thêm cho đề tài.
Chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn sâu với 6 đối tượng vị thành niên tại hai quận, sử dụng bảng phỏng vấn bán cấu trúc Trong quá trình phỏng vấn, người thực hiện đã linh hoạt thay đổi trật tự câu hỏi để phù hợp với từng đối tượng, đồng thời khai thác thông tin sâu hơn bằng cách đi xa hơn các vấn đề chính dựa trên tâm lý và trạng thái của người trả lời.
Phương pháp nghiên cứu định lượng
Ngoài hai phương pháp đã đề cập, nghiên cứu còn áp dụng phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi đối với 240 trẻ vị thành niên từ 14 đến 17 tuổi, được thực hiện trong các trường học và cộng đồng tại Quận 6 và Quận Gò Vấp.
Công cụ thu thập thông tin bằng bảng hỏi cho phép tiếp cận đối tượng đông đảo và thu thập dữ liệu nhanh chóng Bên cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu định tính mang lại cái nhìn sâu sắc và đa dạng về đối tượng cũng như vấn đề cần tìm hiểu.
Phương pháp xử lý thông tin
Thông tin thu thập từ các nguồn được chia thành hai loại: thông tin định lượng và thông tin định tính Đối với thông tin định lượng, chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS trong nghiên cứu khoa học xã hội để xử lý dữ liệu đã mã hóa Chúng tôi chủ yếu áp dụng bảng tần suất và bảng tổng hợp để thống kê các câu trả lời và so sánh các nội dung liên quan Ngoài ra, các câu hỏi mở trong bảng hỏi cũng được mã hóa và xử lý như thông tin định lượng.
Thông tin định tính được tổng hợp và phân loại dựa trên nội dung nghiên cứu, sử dụng hai phương pháp phân tích: phương pháp khái quát, tổng hợp, so sánh, đối chiếu và phương pháp mô tả, thống kê, phân tích tương quan giữa các biến số.
Các phỏng vấn sâu được ghi âm và xử lý như thông tin định tính, với dữ kiện thu được được khái quát và phân loại Thông tin này không chỉ minh họa mà còn làm rõ thêm cho các số liệu định lượng Bên cạnh đó, những câu trả lời hay sẽ được trích dẫn để tăng tính thuyết phục cho lập luận.
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới và khu vực châu Á - Thái
Thế giới đã chú ý đến HIV/AIDS từ những năm 80, tập trung chủ yếu vào mại dâm và quan hệ tình dục đồng giới Gần đây, nghiên cứu đã chuyển sang sinh bệnh học và phác đồ điều trị HIV, đặc biệt là tại Hội nghị lần thứ 4 về HIV/AIDS diễn ra tại Sydney, Australia, với sự tham gia của hơn 5.000 đại biểu từ 133 quốc gia Tại hội nghị, các chuyên gia đã trình bày nhiều nghiên cứu mới về điều trị và phòng ngừa HIV, đặc biệt nhấn mạnh việc áp dụng các kết quả này ở các quốc gia đang phát triển, nơi dịch bệnh đang hoành hành nghiêm trọng Ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương, mặc dù cách đây vài năm AIDS được coi là còn ở giai đoạn phôi thai, nhưng số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV đang gia tăng liên tục, do đây là khu vực có nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ đói nghèo cao và là nơi sản xuất ma túy lớn.
Tình hình hiện tại khiến nhiều người lo lắng và tìm hiểu sâu về căn bệnh AIDS từ nhiều góc độ khác nhau Một số nghiên cứu tại châu Á chủ yếu tập trung vào những thay đổi kinh tế vĩ mô (Bunna và Myers 1999; Bloom và Godwin 1997; Godwin 1997; Viravaidya và đồng nghiệp, 1992, theo Wijingaarden và Shaeffer, tr.2) Những nghiên cứu này dường như nhằm hỗ trợ các nỗ lực thuyết phục nhà chính sách chú ý đến vấn đề AIDS Bên cạnh đó, một số nghiên cứu khác, chủ yếu do các tổ chức phi chính phủ (NGO) thực hiện, đã xem xét ảnh hưởng của AIDS ở tầm vi mô.
Sean Devine đã nghiên cứu tác động tâm lý - xã hội của dịch AIDS đối với trẻ em trong các gia đình bị ảnh hưởng Ông chỉ ra rằng nhiều cha mẹ Thái tự cách ly khỏi con cái khi biết mình nhiễm HIV, do sợ lây bệnh cho trẻ Họ thường không tiết lộ tình trạng sức khỏe của mình, khiến trẻ cảm thấy bị bỏ rơi và thiếu yêu thương Sau khi có người thân qua đời, trẻ em và gia đình không có cơ hội tổ chức tang lễ phù hợp Do sự kỳ thị và nỗi nhục liên quan đến AIDS, trẻ em thường được khuyên lờ đi và quên đi sự việc, dẫn đến các vấn đề tâm lý trong tương lai (Devine 2001, theo Wijingaarden và Shaeffer, tr.2).
Nghiên cứu "Giấc mơ bé nhỏ ngoài tầm với" của Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh (SC-UK) tập trung vào cuộc sống của trẻ em và thanh niên di cư dọc biên giới Trung Quốc, Miến Điện và Thái Lan Nghiên cứu này nhằm khám phá những thách thức mà nhóm đối tượng này phải đối mặt và tìm hiểu về những ước mơ, khát vọng của họ trong bối cảnh di cư.
Công trình nghiên cứu của Wijingaarden và Shaeffer mang tên “Điểm lại các nghiên cứu và ý nghĩa quan trọng đối với ngành giáo dục tại châu Á” tổng quan về tác động của dịch AIDS đối với trẻ em trong khu vực Nghiên cứu này tổng hợp từ các tài liệu trước đó về HIV/AIDS tại châu Á, tập trung vào ảnh hưởng của đại dịch đối với trẻ em từ 0-18 tuổi Các tác giả đã xem xét kỹ lưỡng một số nghiên cứu đã được tiến hành ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong nhiều năm, với mục tiêu làm rõ tác động của HIV/AIDS đến ngành giáo dục, đặc biệt là đối với trẻ em.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu về HIV/AIDS và vị thành niên ở Việt
Việt Nam ghi nhận trường hợp nhiễm HIV đầu tiên vào năm 1990, muộn hơn so với nhiều quốc gia khác, dẫn đến sự quan tâm và nghiên cứu về bệnh này cũng chậm hơn Kể từ khi Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 52 CT/TW vào ngày 11 tháng 3 năm 1995 về công tác phòng chống HIV/AIDS, vấn đề này mới thực sự thu hút sự chú ý và nghiên cứu từ các cơ quan chức năng Tuy nhiên, tương tự như tình hình toàn cầu, chúng ta vẫn chủ yếu tập trung vào các khía cạnh vĩ mô và những tác động của dịch bệnh.
Theo Nguyễn Thị Ngân Hoa, ở vùng Nam bộ từ năm 1995 đến nay có bốn nhóm nghiên cứu chính về HIV/AIDS, đó là:
1 Mô tả và dự báo xu hướng phát triển của dịch bệnh HIV/AIDS,
2 Hiểu biết về HIV/AIDS trong các cộng đồng,
3 Các cộng đồng và các hành vi nguy cơ cao, và
4 Các cản ngại hay những thách thức đối với những người nhiễm HIV/AIDS [43] Đây cũng là bốn khuynh hướng nghiên cứu chính về HIV/AIDS ở nước ta nói chung Có thể nói rằng, có không nhiều tác giả và công trình nghiên cứu đi sâu tìm hiểu vai trò của truyền thông đại chúng đối với việc nâng cao nhận thức cho trẻ vị thành niên về HIV/AIDS, dù ai cũng biết truyền thông là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh chưa có thuốc chữa này
Từ những đề tài đã tham khảo, có thể chia thành các nhóm nội dung sau:
Các nghiên cứu trên diện rộng về vị thành niên, thanh niên và HIV/AIDS nói chung trên phạm vi toàn quốc, có thể kể đến:
♦ Điều tra mẫu các chỉ tiêu dân số và AIDS năm 2005 do Tổng cục
Thống kê và Viện vệ sinh Dịch tễ Trung ương tiến hành Điều tra
Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam được thực hiện vào năm 2003 với sự phối hợp của Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, Tổ chức Y tế Thế giới và Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), và đã được công bố vào năm 2005.
Cả hai cuộc điều tra đều sử dụng giàn mẫu của Tổng cục Thống kê với quy mô lớn và phạm vi toàn quốc.
Hai cuộc điều tra này nhằm cung cấp thông tin chiến lược cho các nhà quản lý chương trình và nhà lập chính sách về HIV/AIDS, hỗ trợ họ trong việc lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá các can thiệp hiệu quả trong tương lai.
Điều tra mẫu các chỉ tiêu dân số và AIDS năm 2005 tập trung vào hành vi tình dục và hiểu biết về HIV/AIDS ở độ tuổi từ 13-50, đặc biệt tại thành phố Hải Phòng, nơi thu thập mẫu máu để ước lượng mức nhiễm HIV Cuộc Điều tra Quốc gia về Vị thành niên và Thanh niên Việt Nam là nghiên cứu đầu tiên về thanh thiếu niên từ 14-25 tuổi, nhằm cung cấp thông tin cho các chương trình phát triển thanh thiếu niên trong các lĩnh vực sức khỏe, giáo dục, việc làm, văn hóa thông tin và vai trò gia đình Nghiên cứu của các tổ chức phi chính phủ cũng hỗ trợ cho các dự án can thiệp trong cộng đồng.
Le Vinh and Dang Le Hanh Dung (2003), Survey Report:
Knowledge, Attitude, Practice of Adolescents and Children on HIV/AIDS and Sex Education, Reported to Save The Children UK and European Union
Khảo sát kiến thức, thái độ và hành vi liên quan đến HIV/AIDS của trẻ em trong và ngoài trường học là một nghiên cứu quan trọng Nghiên cứu này cũng nhằm đánh giá nhu cầu của trẻ em bị nhiễm và chịu ảnh hưởng bởi HIV/AIDS tại các quận Bình Thạnh, Gò Vấp và Hóc Môn Việc hiểu rõ các khía cạnh này sẽ giúp cải thiện các chương trình hỗ trợ và can thiệp cho trẻ em trong cộng đồng.
(2006) do Trung tâm Sức khỏe Cuộc sống (Life) thực hiện cho dự án của Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh
Các công trình này đều nhằm mục đích nghiên cứu kiến thức, thái độ và thực hành của trẻ em và vị thành niên liên quan đến HIV/AIDS và sức khỏe sinh sản, phục vụ cho việc xây dựng dự án của Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh.
Cuộc khảo sát đầu tiên tập trung vào đánh giá hiệu quả của chương trình giáo dục đồng đẳng sau khi thực hiện chương trình thí điểm, trong khi khảo sát thứ hai nhấn mạnh nhu cầu và ảnh hưởng của HIV/AIDS đối với trẻ em Nhóm nghiên cứu đã thực hiện các nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm tìm hiểu hiểu biết về HIV/AIDS và sức khỏe sinh sản, đồng thời đề cập đến các nguồn thông tin liên quan.
Khảo sát kiến thức, thái độ, lòng tin và thực hành về AIDS của học sinh cấp III tỉnh Bạc Liêu (Võ Minh Phúc, 2005)
Quan tâm của sinh viên đối với HIV/AIDS qua các loại hình truyền thông (Ngô Thanh Thủy, 2005)
Nghiên cứu của Nguyễn Đức Trí Dũng trong Luận văn Thạc sĩ Y dược chuyên ngành Sản - phụ khoa tập trung vào kiến thức, thái độ và hành vi tình dục của học sinh phổ thông trung học tại TP.HCM.
- Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Hoàng Thủy
Các lý thuyết được sử dụng trong nghiên cứu
Theo lý thuyết chức năng, xã hội được xem như một tổng thể gồm nhiều bộ phận liên kết, trong đó truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng Quan điểm này nhấn mạnh "nhu cầu" của xã hội, cho thấy truyền thông đại chúng là một định chế xã hội cần thiết để duy trì sự ổn định và liên tục, đồng thời hỗ trợ cá nhân trong quá trình hội nhập và thích nghi.
Theo Robert Merton, việc đánh giá ảnh hưởng xã hội của các phương tiện truyền thông đại chúng không thể chỉ dựa vào tuyên bố và ý định công khai của các tổ chức Merton nhấn mạnh rằng mỗi hoạt động xã hội cần được xem xét một cách toàn diện để hiểu rõ hơn về tác động của nó.
* Lý thuyết này được trích lược lại từ tác phẩm Xã hội học Báo chí (2006) của Trần Hữu Quang
Merton phân loại các hiệu quả thành hai loại: chức năng công khai (manifest) là những kết quả mà con người mong muốn đạt được, trong khi chức năng tiềm ẩn (latent) là những hiệu quả không lường trước được.
Còn theo Charles Wright, người ta có thể liệt kê ra 5 chức năng của truyền thông đại chúng như sau:
Chức năng đầu tiên và rõ ràng nhất của truyền thông là cảnh báo cộng đồng về các mối nguy hiểm, giúp mọi người đối phó hiệu quả Đặc biệt, truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc "báo động" cho trẻ vị thành niên và toàn xã hội về đại dịch HIV/AIDS Qua đó, nó góp phần nâng cao nhận thức của mọi người về vấn đề này và khuyến khích hành động tích cực nhằm phòng tránh lây nhiễm.
Chức năng thứ hai là đáp ứng nhu cầu thực tế hàng ngày của người dân trong xã hội
Theo Charles Wright, chức năng thứ ba của truyền thông đại chúng là củng cố uy tín của những người theo dõi tin tức thời sự Những người nắm vững thông tin thường được kính nể và có uy tín, và họ đóng vai trò là “lãnh đạo dư luận” trong các nhóm xã hội như gia đình, bạn bè và đồng nghiệp.
Chức năng thứ tư là nâng cao một hình ảnh xã hội nào đó, hay hợp thức hóa (legitimation) một vị trí xã hội nào đó
Chức năng thứ năm của truyền thông là củng cố kiểm soát xã hội và thúc đẩy tôn trọng quy tắc, chuẩn mực xã hội Việc công khai thông tin về các trường hợp nhiễm HIV/AIDS giúp tạo ra áp lực xã hội đối với những hành vi có nguy cơ lây nhiễm, từ đó hình thành rào cản hiệu quả cho cá nhân tránh xa các hành vi tương tự Nhờ vậy, truyền thông đại chúng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hành vi cá nhân, góp phần hạn chế những hành vi lệch chuẩn.
Trong nghiên cứu chức năng luận, lối tiếp cận “sử dụng và hài lòng” (use and gratification) đặt ra câu hỏi về cách công chúng tương tác với các phương tiện truyền thông đại chúng, thay vì chỉ xem xét những gì mà các phương tiện này đã làm cho họ Jean Cazeneuve nhấn mạnh rằng tác động của thông điệp phụ thuộc vào mức độ tiếp nhận của người nhận, vì vậy cần khảo sát sự tiếp nhận và những mong đợi, yêu cầu của công chúng đối với các phương tiện truyền thông, cũng như khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của chúng.
Elihu Katz nhấn mạnh rằng công chúng không chỉ là những người tiếp nhận thông tin một cách thụ động từ các phương tiện truyền thông đại chúng, mà họ còn là những tác nhân xã hội có khả năng chọn lọc và sử dụng thông tin Các nhóm công chúng có thể hiểu và tiếp nhận cùng một sản phẩm thông tin hoặc thông điệp một cách khác nhau Nghiên cứu này tập trung vào việc khảo sát mức độ chú ý của công chúng, cách họ lựa chọn chương trình, cũng như cách họ hiểu và chấp nhận thông tin.
Trong lý thuyết chức năng của Robert Merton, "chức năng" là yếu tố giúp một hệ thống duy trì và vận hành hiệu quả, trong khi "phản chức năng" là những yếu tố cản trở quá trình này Một hoạt động có thể đồng thời mang cả chức năng lẫn phản chức năng Ví dụ, thông điệp tuyên truyền về HIV/AIDS với hình ảnh đầu lâu và dòng chữ “HIV/AIDS - hiểm họa của thế kỷ” có thể giúp cảnh báo mọi người về sự nguy hiểm của bệnh, nhưng cũng có thể dẫn đến sự kỳ thị và xa lánh những người nhiễm bệnh, làm trầm trọng thêm tình trạng của họ và đồng hóa AIDS với "tệ nạn xã hội".
1.2.2 Giả thuyết về “hố chênh lệch kiến thức”
Truyền thông đại chúng có thể dẫn đến sự gia tăng khoảng cách về kiến thức giữa các tầng lớp xã hội, theo giả thuyết "hố chênh lệch kiến thức" của P.J Tichenor và cộng sự Họ chỉ ra rằng các nhóm có vị trí kinh tế - xã hội cao thường tiếp nhận thông tin nhanh chóng và nhiều hơn so với các nhóm có vị trí thấp hơn, từ đó làm gia tăng sự chênh lệch kiến thức Điều này không có nghĩa là các tầng lớp thấp hoàn toàn thiếu thông tin, mà là lượng kiến thức mà họ tiếp nhận tăng trưởng chậm hơn so với các tầng lớp cao Nhiều nghiên cứu khác cũng xác nhận mối liên hệ chặt chẽ giữa vị trí kinh tế - xã hội và khả năng tiếp cận thông tin.
Giả thuyết “hố chênh lệch kiến thức” được áp dụng để phân tích sự khác biệt trong việc tiếp nhận thông tin truyền thông giữa trẻ vị thành niên tại trường học và ngoài cộng đồng, cũng như giữa hai quận Gò Vấp và Quận 6 Sự khác biệt này xuất phát từ khả năng nhận thức và thẩm thấu thông tin của từng cá nhân, cũng như từ các hình thức truyền thông và lượng thông tin mà họ tiếp cận được tại khu vực cư trú Bài viết không đề cập đến sự khác biệt về tình hình kinh tế và hoàn cảnh gia đình của các vị thành niên.
1.2.3 Lý thuyết hành vi lựa chọn hợp lý
Lý thuyết này xuất phát từ lý thuyết hành vi do Coleman khởi xướng
Lý thuyết này giải thích rằng khi nhận được các kích thích từ bên ngoài, cá nhân sẽ không phản ứng ngay lập tức mà sẽ chọn lọc những kích thích phù hợp với bản thân, trong khi loại bỏ những kích thích không mang lại lợi ích Cơ chế “lựa chọn hợp lý” này ảnh hưởng đến cách vị thành niên tiếp nhận các thông điệp truyền thông về HIV/AIDS từ các phương tiện truyền thông khác nhau Mỗi vị thành niên có phản ứng khác nhau khi tiếp nhận thông tin do tác động của nhiều yếu tố như tâm lý, kiến thức, hoàn cảnh gia đình và nhóm bạn bè, từ đó giúp họ đưa ra quyết định phù hợp.
Các khái niệm liên quan
Truyền thông, hiểu theo nghĩa chung nhất và trừu tượng nhất, là quá trình “truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng” [19, tr 2]
Truyền thông có thể được định nghĩa ngắn gọn là quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin, nhằm thiết lập mối liên hệ giữa con người Quá trình này diễn ra trong không gian, kết nối người với người hoặc tổ chức với tổ chức ở những địa điểm khác nhau, và cũng diễn ra trong thời gian, cho phép thông tin được lưu trữ và truyền tải từ thế hệ này sang thế hệ khác qua các phương tiện như sách, hình vẽ, ảnh chụp và băng ghi âm.
Hành vi truyền thông không chỉ được thể hiện qua ngôn ngữ nói và viết, mà còn qua động tác, cử chỉ và điệu bộ để bộc lộ cảm xúc Do đó, có thể phân chia truyền thông thành hai loại: truyền thông bằng ngôn từ (verbal) và truyền thông không bằng ngôn từ (non-verbal).
* Phần này được trích lược lại từ tác phẩm Xã hội học Báo chí (2006)của Trần Hữu Quang
Khi nói tới truyền thông, người ta hình dung ba loại, đó là: truyền thông liên cá nhân (giữa người này với người khác), truyền thông tập thể
(trong nội bộ một công ty, một hiệp hội hay một lớp học chẳng hạn), và truyền thông đại chúng [19, tr 4]
Truyền thông thường được hiểu qua công thức nổi tiếng của Harold D Laswell: “Ai nói cái gì, cho ai, bằng kênh nào, và có hiệu quả gì?” Công thức này cung cấp một khung phân tích hữu ích, giúp xác định các yếu tố cần xem xét trong nội dung bản tin và lĩnh vực nghiên cứu Cụ thể, nó bao gồm nghiên cứu về nguồn tin (control analysis), phân tích nội dung thông tin (content analysis), khảo sát đối tượng độc giả hoặc khán giả (audience analysis), và đánh giá tác động của truyền thông (effect analysis).
Mặc dù công thức truyền thông mô tả quá trình như một đường thẳng giữa người phát tin và người nhận tin, nó có thể dẫn đến việc coi người nhận tin chỉ là một đối tác thụ động trong giao tiếp.
Sơ đồ 1 Mô hình truyền thông theo Laswell
Người phát tin Người nhận tin
Truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt thông tin rộng rãi đến xã hội thông qua các phương tiện như báo chí, phát thanh và truyền hình Cần phân biệt giữa hai thuật ngữ: “truyền thông đại chúng” (mass communication) chỉ quá trình xã hội truyền tải thông tin, trong khi “các phương tiện truyền thông đại chúng” (mass media) đề cập đến các công cụ và kênh cần thiết để thực hiện quá trình này.
Truyền thông đại chúng là một quá trình xã hội đặc thù bao gồm ba thành tố:
Hoạt động truyền thông bao gồm nhiều bước quan trọng như đi săn tin, quay phim, chụp hình, viết bài, biên tập và cuối cùng là xuất bản, phát hành hoặc phát sóng nội dung.
- các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông như các tờ báo, đài phát thanh, đài truyền hình… và các phóng viên, biên tập viên…),
- và công chúng, độc giả hoặc khán thính giả
1.3.3 Phương tiện truyền thông đại chúng
Trong tiếng Anh, thuật ngữ "mass media" được sử dụng để chỉ các phương tiện truyền thông đại chúng, bao gồm từ "mass" có nghĩa là "đại chúng" và "media", xuất phát từ tiếng La-tinh "medium" với nghĩa là trung gian, ám chỉ các công cụ và phương tiện truyền thông.
Theo nhà nghiên cứu truyền thông Charles Wright, phương tiện truyền thông đại chúng được định nghĩa là các kênh thông tin hướng đến một công chúng rộng rãi, đa dạng và không có mối quan hệ trực tiếp với nhà truyền thông Nội dung thông tin được phát tán công khai, và việc phát hành ấn phẩm hay giờ phát sóng được tính toán để tiếp cận số lượng lớn người xem Nhà truyền thông thường hoạt động trong một tổ chức chính thức với cấu trúc phức tạp và yêu cầu đầu tư lớn.
Ngày nay, truyền thông đại chúng bao gồm các hoạt động chính như báo chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và xuất bản Một số tác giả còn mở rộng khái niệm này để bao gồm cả sản xuất băng đĩa âm nhạc.
Hiện nay, Internet đã trở thành một phương tiện truyền thông quan trọng Đề tài luận văn này sẽ tập trung vào ba hình thức truyền thông chính: truyền thanh, truyền hình và sách báo.
Kiến thức là sự hiểu biết tích lũy từ quá trình học hỏi và trải nghiệm cá nhân Nó phụ thuộc vào thời gian tiếp nhận và khả năng tiếp thu của mỗi người Đặc biệt, kiến thức về HIV/AIDS bao gồm hiểu biết của thanh thiếu niên về các đường lây truyền và biện pháp phòng tránh, giúp họ tự bảo vệ mình khỏi nguy cơ lây nhiễm căn bệnh nguy hiểm này.
Thái độ được định nghĩa là tâm trạng bên trong, thể hiện qua hành động, cử chỉ và cách ứng xử với người khác, sự kiện, quan điểm và bản thân Nó đóng vai trò là giai đoạn trung gian giữa trạng thái tiềm ẩn và việc thực hiện đầy đủ một ý nghĩa hay ý định trong thực tế.
Gurvitch trong nghiên cứu về thái độ nhấn mạnh tầm quan trọng của thái độ tập thể, cho rằng chúng là những biểu hiện xã hội phản ánh trạng thái tâm lý và hành vi thể hiện sự tán đồng hoặc phản đối (Vũ Toản, 2007).
Nghiên cứu này xem xét thái độ đối với HIV/AIDS qua hành vi ứng xử, từ sự thờ ơ với thông tin tuyên truyền đến mong muốn tìm hiểu để trang bị kỹ năng cần thiết Thái độ còn thể hiện qua cách đánh giá những người nhiễm HIV, góp phần kéo dài hoặc rút ngắn khoảng cách phân biệt đối xử Thái độ tích cực của thanh thiếu niên trước thông tin tuyên truyền là yếu tố quan trọng trong nỗ lực truyền thông xã hội, giúp giảm tốc độ lây lan của căn bệnh nguy hiểm này.
Hành vi là việc áp dụng kiến thức và kỹ năng vào thực tiễn, đồng thời phản ánh cách ứng xử trong những tình huống cụ thể qua lời nói, cử chỉ và hành động.
Nội dung nghiên cứu
- Tìm hiểu kiến thức, thái độ và hành vi về HIV/AIDS của vị thành niên trên địa bàn nghiên cứu
- Những tác động của truyền thông đại chúng đến kiến thức, thái độ và hành vi của vị thành niên ở thành phố Hồ Chí Minh về HIV/AIDS
Truyền thông đại chúng và mô hình truyền thông đồng đẳng/truyền thông trực tiếp đều có vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền phòng chống HIV/AIDS Trong khi truyền thông đại chúng tiếp cận một lượng lớn người dân và tạo ra nhận thức chung, thì truyền thông đồng đẳng/truyền thông trực tiếp lại mang lại sự tương tác cá nhân và khả năng truyền tải thông điệp một cách hiệu quả hơn Sự kết hợp giữa hai phương thức này có thể tối ưu hóa hiệu quả tuyên truyền, giúp nâng cao hiểu biết về HIV/AIDS và khuyến khích hành vi phòng ngừa trong cộng đồng.
- Chỉ ra vai trò của truyền thông đại chúng trong công tác phòng chống
HIV/AIDS trong giai đoạn hiện nay
- Đề xuất các khuyến nghị.
Các giả thuyết nghiên cứu
Với những mục tiêu và nội dung nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ tập trung tìm câu trả lời từ thực tiễn cho các giả thuyết dưới đây:
1 Truyền thông đại chúng tác động tích cực đến kiến thức, thái độ và hành vi về HIV/AIDS của vị thành niên giúp họ biết cách tự bảo vệ mình và không phân biệt đối xử với những người nhiễm và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS
2 Các phương tiện truyền thông khác nhau có tác động không đều đến các nhóm vị thành niên khác nhau Trong ba loại hình truyền thông: truyền thanh, truyền hình và báo in thì truyền hình tỏ ra chiếm ưu thế
3 Truyền thông đại chúng có tác động không đều đối với các nhóm vị thành niên khác nhau (trong trường học và ngoài cộng đồng) so với hình thức giáo dụng đồng đẳng / truyền thông trực tiếp Từ đó dẫn đến sự khác nhau về việc tiếp nhận thông tin và thay đổi kiến thức, thái độ và hành vi về HIV/AIDS của hai nhóm này.
Cách thức chọn mẫu và thu thập thông tin
Mẫu nghiên cứu được chọn ngẫu nhiên từ các trường học ở quận Gò Vấp và Quận 6, tập trung vào đối tượng trẻ vị thành niên từ 14 đến 17 tuổi Thời điểm phỏng vấn diễn ra trong học kỳ 1, với đối tượng là học sinh từ lớp 8 đến lớp 12 Tại quận Gò Vấp, chúng tôi đã lựa chọn Trường THCS Lý Tự Trọng và Trường THPT Nguyễn.
Chúng tôi đã xin phép Ban Giám hiệu nhà trường để tiến hành phỏng vấn học sinh, với nội dung được duyệt qua Bảng hỏi gồm 28 câu hỏi nhằm đánh giá kiến thức của vị thành niên về các nguồn lây nhiễm HIV/AIDS, cũng như thái độ và hành vi của họ đối với thông tin và trường hợp nhiễm HIV Ngoài ra, bảng hỏi còn khai thác các nguồn thông tin tuyên truyền về HIV mà học sinh tiếp cận, bao gồm cả hình thức tuyên truyền đồng đẳng và tư vấn.
Để tiếp cận đối tượng vị thành niên trong cộng đồng, nhóm nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn ngẫu nhiên tại các điểm sinh hoạt cộng đồng, do khó khăn trong việc tiếp cận tại nhà Chúng tôi đã đến Trung tâm Văn hóa Thể dục Thể thao của Quận 6 và Quận Gò Vấp để gặp gỡ các em ở độ tuổi tương ứng Đối tượng vị thành niên ở đây được xác định là những em không được phỏng vấn trực tiếp tại trường học.
Bảng 1 tóm tắt số lượng và cách thức phân phối mẫu phỏng vấn tại hai địa bàn nghiên cứu
Bảng 1: Bảng phân phối mẫu phỏng vấn
Phỏng vấn bảng hỏi Phỏng vấn sâu (PVS)
Tổng cộng 120 phiếu 120 phiếu 3 PVS 3 PVS
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU I KẾT QUẢ ĐIỀU TRA THỰC NGHIỆM VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG ĐẾN KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI CỦA TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRÊN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VỀ HIV/AIDS
Tổng quan tình hình phát triển HIV/AIDS và những nỗ lực của nhà nước và cộng đồng
I.1.1 Chính sách và chương trình can thiệp phòng chống AIDS
Từ những năm đầu của đại dịch HIV/AIDS tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đặc biệt đến vấn đề này Các văn bản và chỉ thị đã được ban hành sớm nhằm cảnh báo xã hội về một đại dịch mới đang đe dọa cuộc sống của nhiều người, đồng thời nâng cao nhận thức của cộng đồng để tự bảo vệ mình khỏi căn bệnh thế kỷ.
Một số văn bản pháp quy quan trọng liên quan đến công tác phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam đã được xác định (thông tin chi tiết có thể tham khảo trong bảng Các văn bản pháp quy về phòng chống HIV/AIDS ở phần phụ lục).
- Ngày 11 tháng 3 năm 1995, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị về lãnh đạo công tác phòng chống HIV/AIDS
- Tháng 5 năm 1995, Pháp lệnh phòng chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) được Ủy ban
- Ngày 24 tháng 2 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số 02/2003/CT-TTg về tăng cường công tác phòng chống HIV/AIDS
- Ngày 17 tháng 3 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 36/2004/ QĐ-TTg phê duyệt chiến lược quốc gia phòng chống HIV/AIDS tính đến năm 2010 và tầm nhìn 2020
Luật phòng, chống nhiễm vi rút HIV/AIDS, số 64/2006/QH11, được Quốc hội Việt Nam ban hành vào ngày 29 tháng 6 năm 2006, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Quốc hội đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiếp nhận các báo cáo liên quan và Ủy ban các vấn đề xã hội đã tổ chức nhiều cuộc họp nhằm thảo luận về các chính sách hiệu quả trong công tác phòng, chống HIV/AIDS, đồng thời tăng cường chức năng giám sát của Quốc hội đối với lĩnh vực này.
Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản quốc tế quan trọng về HIV/AIDS, bao gồm Tuyên bố Thiên niên kỷ với sự đồng thuận của 189 nguyên thủ quốc gia vào tháng 9 năm 2000, trong đó phòng, chống HIV/AIDS được xác định là một trong những mục tiêu phát triển thiên niên kỷ Ngoài ra, Việt Nam cũng đã cam kết trong tuyên bố về HIV/AIDS tại khóa họp đặc biệt của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc về HIV/AIDS (UNGASS) vào tháng 6 năm 2001.
Năm 2001, Việt Nam đã gửi báo cáo quốc gia về việc thực hiện tuyên bố cam kết về HIV/AIDS tới Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Đất nước đã hợp tác chặt chẽ với các nước láng giềng và trong khu vực để phòng chống HIV/AIDS.
Nghị định số 108/2007/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành đã quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống nhiễm vi rút HIV-AIDS Nghị định này góp phần giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tế, từ đó nâng cao hiệu quả của các biện pháp can thiệp giảm tác hại và dự phòng lây nhiễm HIV.
Các văn bản pháp quy đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phong trào tuyên truyền HIV/AIDS trên toàn quốc Tất cả các cơ quan, ban ngành và đoàn thể đều tham gia vào công tác phòng chống AIDS, biến đây thành nhiệm vụ chung của toàn xã hội và cộng đồng Sự chung tay của mọi người và các ngành nghề nhằm giảm thiểu tác hại của HIV/AIDS đối với đời sống xã hội là rất cần thiết.
Trong cuốn sách "Những người kỳ quặc" của nhà báo Thủy Cúc, Thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh nhấn mạnh rằng AIDS đã gián tiếp làm thay đổi cục diện xã hội Để chiến đấu hiệu quả với dịch bệnh này, cần có sự thay đổi từ mỗi cá nhân, cộng đồng đến quốc gia.
Cuộc chiến chống AIDS đã tạo ra sự liên kết mạnh mẽ giữa các ngành và thành phần xã hội, cùng nhau nỗ lực để ngăn chặn sự lây lan của bệnh trong cộng đồng Chính quyền và nhân dân quận Gò Vấp và Quận 6 đã triển khai các chương trình truyền thông tại từng khu phố, tổ dân phố và trường học để nâng cao nhận thức về căn bệnh nguy hiểm này Trong cuộc chiến này, các tổ chức như Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, và Đoàn Thanh niên đã đóng vai trò tiên phong với các hoạt động thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ cũng thực hiện những chương trình can thiệp riêng, như Tổ chức Cứu trợ Trẻ em Anh, góp phần quan trọng vào nỗ lực chống lại đại dịch.
Mọi tổ chức và cá nhân đều đóng góp vào công tác tuyên truyền phòng chống AIDS, giúp nâng cao nhận thức về căn bệnh này, đặc biệt là trong giới trẻ - những thế hệ tương lai của đất nước Mặc dù chưa hoàn toàn khống chế được tác hại của AIDS, nhưng những nỗ lực này đã mang lại hiệu quả đáng kể trong việc giáo dục cộng đồng.
I.1.2 Vài nét về quận Gò Vấp
Quận Gò Vấp nằm ở vành đai phía bắc thành phố, với diện tích 19,74 km 2 , chia thành 17 phường Năm 1984 điều chỉnh địa giới còn lại 12 phường:
Vào tháng 7 năm 1976, Gò Vấp được công nhận là quận nội thành, nhưng vẫn được gọi là quận ven do mức độ đô thị hóa còn thấp Đến năm 1997, chương trình phân chia địa giới hành chính của thành phố đã chính thức công nhận Gò Vấp là một quận nội thành thực sự.
Quận Gò Vấp có diện tích lớn phù hợp cho việc xây dựng nhà máy sản xuất công nghiệp Kể từ những năm 80, khu vực này đã trải qua nhiều thay đổi quan trọng về cơ cấu kinh tế - xã hội Tốc độ đô thị hóa ở Gò Vấp diễn ra nhanh chóng, có thời điểm đạt mức không thể kiểm soát.
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã khiến Gò Vấp trở thành một trong ba quận có tốc độ tăng dân số cơ học cao nhất tại thành phố, với sự gia tăng dân số đáng kể từ năm 1976.
Gò vấp có 144 ngàn dân thì năm 1995 đã có 223 ngàn người, năm 2000 là
Dân số Gò Vấp đã tăng mạnh từ 231 nghìn người vào năm 1980 lên 455 nghìn người vào năm 2004, tương ứng với mức tăng 2,87 lần và trung bình 13,66% mỗi năm Sự gia tăng dân số này đã có ảnh hưởng lớn đến tình hình xã hội của quận, theo thông tin từ website thành phố Hồ Chí Minh.
Quận 6 là quận ven ngoại thành, nằm về phía Tây Nam thành phố Hồ Chí Minh, gồm 14 phường (74 khu phố, 1293 tổ dân phố) với tổng diện tích tự nhiên là 7,14 km 2 , chiếm 0,34% tổng diện tích tự nhiên của toàn thành phố Dân số hiện nay của quận là 247.212 người, mật độ bình quân 346 người/ha, trong đó nữ chiếm 53% Với vị trí địa lý là cửa ngõ phía Tây của thành phố
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu với 240 đối tượng, gồm 114 nam và 126 nữ, độ tuổi từ 14-17, được khảo sát từ cả hai nhóm vị thành niên trong trường học và ngoài cộng đồng tại hai quận Biểu đồ 2.1 dưới đây minh họa tỷ lệ nam nữ tham gia phỏng vấn.
Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ chia theo giới của đối tượng khảo sát bằng bảng hỏi
Kết quả nghiên cứu của đề tài được trình bày trong các bảng số liệu dưới đây Lưu ý rằng các bảng này không có nguồn trích dẫn khác ngoài kết quả nghiên cứu của đề tài.
Sáu đối tượng phỏng vấn sâu, trong đó có ba nam và ba nữ đạt tỷ lệ 50% -50% xét về mặt giới tính
Mặc dù bài viết phân biệt giữa trẻ vị thành niên trong trường học và trẻ vị thành niên trong cộng đồng, thông tin sẽ chỉ được áp dụng cho từng trường hợp phân tích cụ thể Luận văn sẽ cung cấp cái nhìn toàn diện về toàn bộ mẫu khảo sát, và chúng tôi sẽ chỉ rõ nhóm đối tượng khi trình bày các con số riêng lẻ, nhằm mục đích so sánh thông qua các số liệu nghiên cứu.
Biểu đồ 2.2 cho thấy số lượng mẫu phỏng vấn phân theo độ tuổi, với độ tuổi 14 chiếm tỷ lệ cao nhất là 37,1% Tiếp theo là độ tuổi 17 với 23,8%, trong khi độ tuổi 15 và 16 lần lượt chiếm 20,8% và 18,3%.
Biểu đồ 2.2: Tuổi của đối tượng khảo sát bằng bảng hỏi
Tuổi của các đối tượng phỏng vấn sâu cũng được trải đều từ 14-17 tuổi Trong đó, độ tuổi 14 và 16 cùng chiếm tỷ lệ 33,33%, hai độ tuổi còn lại 15 và
Nhận thức của trẻ vị thành niên trên địa bàn nghiên cứu về HIV/AIDS
I.3.1 Nhận thức của trẻ vị thành niên liên quan đến HIV/AIDS
Trong một nghiên cứu với 240 trẻ vị thành niên, tất cả đều biết hoặc đã từng nghe về HIV/AIDS, cho thấy sự gia tăng hiểu biết về căn bệnh này nhờ vào các chương trình truyền thông đa dạng trên toàn quốc Mặc dù quy mô nghiên cứu nhỏ, kết quả đạt được tương ứng với cuộc Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam, khi 100% đối tượng tham gia đều khẳng định đã nghe nói về HIV/AIDS.
Bảng 2.1: Hiểu biết về các đường lây
Lây từ mẹ sang con 192 80,0%
Lây qua quan hệ tình dục 220 91,7%
Ghi chú: Những người trả lời có thể chọn nhiều hơn 1 phương án, do đó, tổng cộng tỷ lệ có thể vượt quá 100%
Khi đã hiểu rõ các đường lây truyền của vi rút HIV, các em có thể dễ dàng đưa ra biện pháp phòng tránh hiệu quả Cách đơn giản nhất là tránh tất cả ba đường lây để không bị nhiễm bệnh Hầu hết các em đều nắm được các phương án phòng tránh từ bảng câu hỏi gợi ý Tuy nhiên, nhiều vị thành niên, đặc biệt là các em gái lớp 8 và 9, thường ngại ngùng khi đề cập đến cụm từ “quan hệ tình dục” và thường chỉ sử dụng hai từ “quan hệ” để tránh né.
Thực trạng hiện nay cho thấy nỗ lực cung cấp kiến thức về sức khỏe sinh sản cho vị thành niên chưa đạt hiệu quả như mong đợi, khi mà nhiều người trẻ vẫn còn thiếu hiểu biết về cơ thể của mình Mặc dù sức khỏe sinh sản không phải là chủ đề chính, nhưng nó có liên quan chặt chẽ đến nghiên cứu này Chúng tôi xin trích dẫn từ kết quả cuộc nghiên cứu “Hành vi tình dục và nhận thức về sức khỏe sinh sản của thanh niên dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa” do Trung tâm Nghiên cứu về Giới và Gia đình thực hiện.
Trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay, Chính phủ và các tổ chức xã hội đang nỗ lực ngăn chặn đại dịch HIV/AIDS, kiểm soát dân số và cải thiện sức khỏe cộng đồng Khái niệm sức khỏe sinh sản ngày càng trở nên quen thuộc với người dân, đặc biệt là giới trẻ thông qua các chương trình truyền thông, giáo dục và nghiên cứu Tuy nhiên, sự quen thuộc này không đồng nghĩa với việc giới trẻ có đủ hiểu biết chính xác về các vấn đề như cơ quan sinh sản, HIV/AIDS, phương pháp phòng tránh thai và tình dục an toàn.
Nhiều đối tượng vị thành niên vẫn tin rằng vi rút HIV có thể lây qua muỗi đốt, với 37,5% trong tổng mẫu cho rằng muỗi là một trong những nguồn lây truyền HIV/AIDS Khi được hỏi về khả năng lây nhiễm từ muỗi, một số em đã ngây thơ giải thích rằng nếu muỗi chích người này rồi chích người khác, thì vi rút sẽ lây qua máu còn sót lại trên kim của muỗi.
Bảng 2.2: Muỗi chích có lây HIV không?
Tổng mẫu Trong trường học Trong CĐ
Do thiếu kiến thức đầy đủ về HIV, nhiều em có suy nghĩ sai lầm rằng virus này lây truyền qua đường máu và muỗi, giống như bệnh sốt xuất huyết hay sốt rét Các em cho rằng muỗi chích có máu sẽ truyền HIV từ người này sang người khác, dẫn đến sự hiểu lầm về cách lây nhiễm của virus này.
Tỷ lệ hiểu sai về việc muỗi truyền virus HIV ở nhóm trẻ trong cộng đồng là rất cao, với 45% trẻ em cho rằng muỗi cắn có thể lây truyền virus này.
Kết quả khảo sát cho thấy 83,3% người tham gia tin rằng một người trông khỏe mạnh vẫn có nguy cơ bị lây nhiễm HIV, cho thấy vị thành niên đã ý thức được việc tự bảo vệ mình trước bệnh AIDS Sự nhận thức này giúp giới trẻ cảnh giác hơn với các tệ nạn xã hội và có thái độ phòng bệnh tích cực Tuy nhiên, vẫn còn 13,8% cho rằng người khỏe mạnh không có nguy cơ nhiễm HIV và 2,9% không biết về vấn đề này.
Nhiều vị thành niên vẫn chưa nắm rõ các trường hợp không lây nhiễm HIV/AIDS, với 35,4% cho rằng ăn chung với người bệnh có thể lây truyền HIV, trong khi 64,6% tin rằng điều này không xảy ra Việc sử dụng chung đồ dùng đã được rửa sạch cũng cần được làm rõ để nâng cao nhận thức về cách phòng ngừa lây nhiễm.
Bảng 2.3: Người khỏe mạnh có bị nhiễm HIV/AIDS không?
Bảng 2.4: Các kiến thức liên quan khác Ăn chung với người nhiễm HIV/AIDS
Dùng chung đồ dùng với người nhiễm HIV/AIDS
Số trả lời % Số trả lời %
Kiến thức về HIV/AIDS của vị thành niên tại khu vực nghiên cứu khá tốt, với việc nắm vững các đường lây truyền và biện pháp phòng tránh Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại những hiểu lầm về cách lây nhiễm, đặc biệt là qua muỗi đốt và ăn uống Do đó, cần tăng cường truyền thông để xóa bỏ những ngộ nhận về AIDS, giúp giảm bớt thành kiến đối với bệnh và những người nhiễm bệnh.
I.3.2 Thái độ của trẻ vị thành niên liên quan đến HIV/AIDS
HIV/AIDS hiện diện rộng rãi tại hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước, thậm chí xâm nhập vào từng khu phố đô thị, khiến việc biết đến người nhiễm HIV/AIDS trở nên quen thuộc với giới trẻ Gần 50% đối tượng khảo sát cho biết họ đã từng biết ít nhất một người mang vi rút HIV, chủ yếu là hàng xóm hoặc người sống trong khu phố, và hầu hết những người này đều có tiền sử nghiện ma túy Điều này dẫn đến việc giới trẻ thường đồng nhất ma túy với HIV/AIDS, một quan niệm được củng cố bởi các hình ảnh và poster tuyên truyền về HIV/AIDS thường gắn liền với ma túy.
Janjaroen và Khamman chỉ ra rằng nỗi sợ AIDS trong cộng đồng có thể bắt nguồn từ các chiến dịch của chính phủ vào những năm 1990, khi họ sử dụng hình ảnh nạn nhân AIDS hốc hác để đe dọa dân chúng, đồng thời liên kết bệnh này với mại dâm và ma túy.
Hành vi bất lợi trong truyền thông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cẩn trọng khi xuất bản ấn phẩm có nội dung không phù hợp Những vấn đề này có thể dẫn đến những hậu quả nặng nề cho xã hội, đặc biệt trong trường hợp bệnh AIDS, nơi thông tin sai lệch làm gia tăng khoảng cách kỳ thị giữa người nhiễm HIV và cộng đồng Điều này không chỉ gây hại mà còn đi ngược lại với chính sách hỗ trợ người nhiễm HIV sống tích cực và có ích.
Bảng câu hỏi đã kiểm tra thái độ của vị thành niên đối với những người nhiễm HIV/AIDS thông qua các tình huống cụ thể Khi được hỏi về việc có dám tiếp xúc hay chơi với người nhiễm HIV, 85,4% các em đã trả lời tự tin là "có" Tỷ lệ này cao hơn ở nhóm vị thành niên trong trường học với 90,6%, trong khi nhóm trẻ cộng đồng có tỷ lệ thấp hơn, chỉ đạt 75%.
Khi được hỏi về việc có dám mua thức ăn từ người mắc HIV, đa số các em đều không dám, với tỷ lệ trả lời “không” lên tới 54,2% Tỷ lệ này giữa nhóm vị thành niên trong trường học và trong cộng đồng cũng gần tương đương, lần lượt là 55,6% và 51,3% Chỉ có 28,8% trong tổng số người tham gia khảo sát chọn đáp án khác.
Các nguồn thông tin khác
Ngoài các nguồn thông tin về HIV/AIDS từ truyền thông đại chúng, còn có nhiều hình thức tuyên truyền khác như biểu diễn nghệ thuật (kịch, cải lương), tư vấn trực tiếp hoặc qua thư, điện thoại, và giáo dục đồng đẳng Những nguồn thông tin này được ghi nhận là gần gũi và hiệu quả đặc biệt đối với vị thành niên.
II.4.1 Gia đình là nhân tố quan trọng góp phần nâng cao nhận thức của trẻ vị thành niên liên quan đến HIV/AIDS
Gia đình là môi trường xã hội hóa đầu tiên, giúp cá nhân hòa nhập với thế giới bên ngoài và đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho các thế hệ tiếp theo Gia đình Việt Nam, mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, vẫn giữ được sự gắn kết bền vững, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục thế hệ trẻ Đặc biệt, đối với vị thành niên tại hai quận Gò Vấp và Quận 6, gia đình là yếu tố gắn kết mạnh mẽ, đặc biệt đối với các em học sinh.
Có 81 trong tổng số 240 em được phỏng vấn có đề cập đến ba mẹ như là một trong những nguồn thông tin về HIV/AIDS Ba mẹ, người thân trong gia đình chiếm vị trí thứ 5 trong tổng số 13 nguồn thông tin mà các em được tiếp cận nhiều nhất các thông tin về HIV/AIDS với 33,8% Các em chia sẻ rằng, ba mẹ thường căn dặn con cái phải cẩn thận, không ăn chơi đua đòi, dính vào ma túy để mang bệnh “sida” hủy hoại cả cuộc đời Đây cũng là một trong những nguồn thông tin các em tiếp nhận thường xuyên nhất
Biểu đồ 2.11: Mức độ tiếp nhận các thông tin về HIV/AIDS từ ba mẹ, người thân trong gia đình
Ba mẹ là những người gần gũi nhất với con cái, đặc biệt trong giai đoạn chưa trưởng thành Do đó, việc tăng cường kênh thông tin này để truyền tải kiến thức về HIV/AIDS là rất cần thiết.
II.4.2 Vai trò của nhà trường và các nhóm bạn bè
Nền giáo dục Việt Nam coi trọng vai trò của thầy cô, những người không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn giáo dục nhân cách cho học sinh, giúp các em nhận thức giá trị cuộc sống Thầy cô còn là cầu nối giúp học sinh khám phá thế giới xung quanh thông qua bài học từ sách vở và thực tế Trong công tác tuyên truyền HIV/AIDS, thầy cô đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi nhận thức của học sinh, trang bị cho các em kiến thức cần thiết về căn bệnh thế kỷ này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thầy cô và bạn bè được phân chia thành hai kênh truyền thông riêng biệt Kênh truyền thông từ thầy cô là chính thức, thể hiện sự quan tâm của nhà trường trong việc nâng cao nhận thức xã hội cho học sinh Ngược lại, nhóm bạn bè cung cấp thông tin phi chính thức, tuy không chính xác bằng, nhưng lại gần gũi và quen thuộc với các em.
Theo bảng xếp hạng các nguồn thông tin về HIV/AIDS, thầy cô và bạn bè lần lượt đứng ở vị trí thứ 3 và 4 trong việc cung cấp thông tin được theo dõi nhiều nhất.
Biểu đồ 2.12 cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong số lần tiếp nhận thông tin từ hai nguồn: thầy cô và bạn bè Tỷ lệ phản hồi từ nguồn thầy cô vượt trội hơn hẳn so với nguồn bạn bè.
Rất thường xuyên Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi Không bao giờ
Biểu đồ 2.12 cho thấy mức độ tiếp nhận thông tin về HIV/AIDS từ thầy cô và bạn bè của học sinh Vai trò của thầy cô và bạn bè trong việc cung cấp kiến thức về HIV/AIDS cho học sinh là rất quan trọng Tuy nhiên, đối với thanh thiếu niên ngoài cộng đồng, thầy cô lại không được xem là một nguồn thông tin đáng chú ý.
Mặc dù đối tượng vị thành niên ngoài trường học không hoàn toàn là trẻ không hoặc đã thôi học, nhưng kết quả phỏng vấn cho thấy sự khác biệt rõ rệt Qua các cuộc phỏng vấn sâu, học sinh trong trường đều coi thầy cô là nguồn thông tin quan trọng, trong khi đó, các vị thành niên trong cộng đồng lại không đề cập đến thầy cô.
Biểu đồ 2.13 chỉ ra sự tương quan giữa tần suất tiếp nhận và hiệu quả của hai kênh thông tin Kênh thông tin từ thầy cô có tần suất tiếp thu cao hơn, dẫn đến hiệu quả tốt hơn so với kênh bạn bè.
Không hiệu quả chút nào
Biểu đồ 2.13: Mức độ hiệu quả của truyên truyền HIV/AIDS qua thầy cô và bạn bè
II.4.3 Đặc điểm và tính ưu việc của phương pháp tuyên truyền đồng đẳng
Thuật ngữ “giáo dục đồng đẳng” được giới thiệu vào những năm 90 của thế kỷ trước bởi các tổ chức quốc tế Tại Việt Nam, giáo dục đồng đẳng đã ra đời cùng với nỗ lực của các tổ chức nước ngoài trong việc tuyên truyền về tác hại của đại dịch AIDS.
Theo tài liệu đúc kết của dự án Horizons * : Giáo dục đồng đẳng và HIV/AIDS: kinh nghiệm và định hướng tương lai (Peer Education and
HIV/AIDS: Past Experience, Future Directions), giáo dục đồng đẳng được hiểu như sau:
Giáo dục đồng đẳng đặc thù bao gồm các tập huấn viên và thành viên hỗ trợ trong một nhóm nhất định, nhằm thúc đẩy sự thay đổi tích cực giữa các thành viên Phương pháp này thường được áp dụng để tác động đến nhận thức và hành vi của các cá nhân trong cùng một nhóm.
Dự án Horizons được triển khai bởi Hội đồng Dân số, hợp tác với Trung tâm Quốc tế Nghiên cứu về Phụ nữ (ICRW), Liên minh Quốc tế về HIV/AIDS, Chương trình Kỹ thuật phù hợp trong Y tế (PATH), cùng với Đại học Alabama ở Birmingham và Đại học Tualane.
Cục Phòng chống HIV/AIDS - Bộ Y tế định nghĩa nhóm tuyên truyền đồng đẳng là những tình nguyện viên tự tổ chức để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động và hỗ trợ những người có hoàn cảnh tương tự.