Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của thông tin báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM.
Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu là:
- Tìm hiểu thực trạng độ tin cậy BCTC của các Công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK TP.HCM
Các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM hiện nay bao gồm chất lượng kiểm toán, quy trình quản lý tài chính, tính minh bạch trong báo cáo, và sự tuân thủ các quy định pháp lý Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao độ tin cậy của BCTC, từ đó tạo niềm tin cho nhà đầu tư và các bên liên quan.
Mô hình nghiên cứu được đề xuất nhằm phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính tại các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh Nghiên cứu này sẽ tập trung vào việc xác định các yếu tố chính như quy trình kiểm toán, chất lượng thông tin tài chính và sự tuân thủ các quy định pháp lý, từ đó nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính trong bối cảnh thị trường hiện nay.
Câu h ỏ i nghiên c ứ u
Để đạt đƣợc mục tiêu nghiên cứu, luận văn cần tập trung giải quyết các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Thực trạng độ tin cậy BCTC của các Công ty niêm yết có vốn đầu tƣ nước ngoài trên Sở GDCK Tp HCM như thế nào?
Độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK Tp HCM chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố quan trọng Các yếu tố như quy định pháp lý, chất lượng kiểm toán, và minh bạch thông tin đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo tính chính xác của BCTC Hơn nữa, sự ổn định kinh tế và môi trường kinh doanh cũng tác động mạnh mẽ đến độ tin cậy này Mức độ tác động của các nhân tố này không chỉ ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư mà còn quyết định sự phát triển bền vững của công ty trong thị trường.
Chất lượng của công ty kiểm toán, lợi nhuận trên cổ phiếu, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nước ngoài và doanh thu là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
Quy mô công ty, được xác định qua tổng tài sản, có vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính Đặc biệt, tại các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh, việc này càng trở nên cần thiết để đảm bảo tính minh bạch và chính xác trong thông tin tài chính Sự lớn mạnh về tài sản không chỉ giúp nâng cao uy tín mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút nhà đầu tư và duy trì sự ổn định trên thị trường.
Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Bài luận văn nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Mục tiêu của luận văn là xác định và phân tích các yếu tố tác động đến độ tin cậy của BCTC trong bối cảnh này.
Bài viết này tập trung vào việc kiểm toán các báo cáo tài chính (BCTC) qua các năm và công bố báo cáo thường niên của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh.
Phạm vi về không gian: Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu của 166 công ty niêm yết trên sàn HOSE có vốn đầu tư nước ngoài trên 5%
Phạm vi về thời gian: các số liệu thống kê và khảo sát đƣợc thực hiện từ năm 2016 đến 2017.
Phương pháp nghiên cứ u
Phân tích tổng hợp thông tin từ những nguồn tài liệu có sẵn về các nội dung liên quan đến đối tƣợng nghiên cứu Bao gồm:
Báo cáo tài chính của các công ty trong các năm 2016-2017 cung cấp dữ liệu quan trọng về các biến như lợi nhuận sau thuế, doanh thu, tổng tài sản, các khoản tiền và tương đương tiền, nợ phải trả, và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn Ngoài ra, thông tin về tên công ty chịu trách nhiệm kiểm toán cũng được ghi nhận để đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy của báo cáo.
- Báo cáo thường niên năm 2016-2017 của các công ty để thu thập dữ liệu về tỷ lệ sở hữu cổ phần
- Lấy số liệu cho chỉ số EPS và thông tin khác trên web www.cophieu68.vn, www.vietstock.vn
Tác giả tiến hành nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) tại các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh Qua việc thu thập, phân tích và so sánh dữ liệu, bài viết đánh giá vai trò của các nhân tố này đối với chất lượng BCTC.
Phương pháp thực hiện o Phương pháp xử lý dữ liệu:
Thực hiện phân tích thống kê và mô tả, chúng tôi áp dụng mô hình hồi quy logit để kiểm định mức độ tương quan giữa các biến Qua đó, chúng tôi đưa ra kết quả cụ thể cho đề tài nghiên cứu.
Tác giả áp dụng phần mềm Stata 14 để phân tích mô hình định lượng, tập trung vào tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc thông qua phân tích hồi quy Cụ thể, nghiên cứu sử dụng các phương pháp thống kê mô tả, phân tích ma trận hệ số tương quan, hồi quy tuyến tính, kiểm tra đa cộng tuyến, kiểm định Wald-test và phân tích dự báo chính xác của mô hình Ngoài ra, tác giả cũng thực hiện khảo sát và thu thập dữ liệu cần thiết cho nghiên cứu.
Mẫu khảo sát là 166 Công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK TP HCM
Sau khi thu thập, toàn bộ dữ liệu sẽ được xử lý và làm sạch bằng Microsoft Office Excel 2010 Tiếp theo, dữ liệu sẽ được đưa vào phân tích thống kê mô tả nhằm xác định các đặc điểm của mẫu nghiên cứu.
Ý nghĩa nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP HCM Qua việc phân tích dữ liệu, bài viết đánh giá các nhân tố nào có tác động lớn nhất đến độ tin cậy của BCTC, từ đó cung cấp những thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư và các bên liên quan.
Nghiên cứu này cung cấp cơ sở cho việc khám phá những lợi ích quan trọng trong việc nâng cao mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến độ tin cậy và chất lượng báo cáo tài chính của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK TP HCM.
Các Nhà đầu tư, nhà quản trị công ty và các cơ quan nhà nước có thể đưa ra những đánh giá chính xác hơn về việc sử dụng thông tin từ báo cáo tài chính của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK.
TP HCM cung cấp cái nhìn tổng quan cho các đối tượng liên quan đến thông tin kế toán, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng thông tin.
Kết cấu của luận văn
Phần này trình bày lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu, xác định mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, mô tả phương pháp nghiên cứu, cùng với ý nghĩa của nghiên cứu.
Chương 1: Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Các nghiên cứu toàn cầu và trong nước về các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài đã chỉ ra rằng có nhiều nhân tố quyết định Những yếu tố này bao gồm chất lượng kiểm toán, tính minh bạch trong quản lý tài chính, và sự tuân thủ các quy định pháp lý Việc nâng cao độ tin cậy của BCTC không chỉ giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán Các nghiên cứu cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực tài chính kế toán để cải thiện chất lượng báo cáo.
Sở GDCK Tp HCM và thực trạng của việc đƣa ra các nhận x t đánh giá đó trên cơ sở đó đƣa ra các kết quả đạt đƣợc
Chương 2: Cơ sở lý thuyết
Bao gồm trình bày các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu, các lý thuyết đƣợc sử dụng trong nghiên cứu
Chương 3: Thiết kế nghiên cứu
Nội dung bài viết tập trung vào việc trình bày và phát triển các giả thuyết nghiên cứu, xây dựng mô hình nghiên cứu, lựa chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, thiết lập quy trình nghiên cứu rõ ràng, cùng với cách thu thập và phân tích dữ liệu hiệu quả.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Nghiên cứu này trình bày kết quả phân tích và đánh giá về độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK TP HCM Bài viết thảo luận về các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của BCTC, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố quyết định đến tính chính xác và minh bạch trong báo cáo tài chính của các doanh nghiệp này.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
Nghiên cứu này đã tổng hợp và đưa ra kết luận về vấn đề nghiên cứu, đồng thời nêu rõ hàm ý của đề tài Bên cạnh đó, các hạn chế của nghiên cứu cũng được chỉ ra, tạo cơ sở cho việc định hướng các nghiên cứu trong tương lai.
TỔ NG QUAN CÁC NGHIÊN C ỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Các nghiên cứu ở nước ngoài
Chất lượng báo cáo tài chính đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là độ tin cậy của chất lượng lợi nhuận trong BCTC Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng BCTC bao gồm cả nhân tố nội bộ và ngoại bộ Một số nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm các công trình của Healy (1985), Gaver và cộng sự (1995), Holthausen và cộng sự (1995), Habib và Azim (2008), Jamaluddin và cộng sự (2009), Klai (2011), Radzi và cộng sự (2011), cùng với các nghiên cứu của Dechow và cộng sự.
(2011), Abed và các cộng sự (2012), Chalaki và các cộng sự (2012), Waweru và Riro (2013),Hassan (2013), Ahmed (2013), Alves (2014), …
Previous global studies related to the quality of financial reports include the research by Dimitropoulos and colleagues (2009), which examines the value relevance of financial statements and their influence on stock prices.
“Evidence from Greece” International Journal of Economics and Finance, 248-
265, về mối quan hệ giữa thông tin trên BCTC và giá cổ phiếu thực hiện trên TTCK
Nghiên cứu tại Hy Lạp dựa trên dữ liệu của 101 công ty phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán Athens từ năm 1995 đến 2004, sử dụng mô hình hồi quy OLS Kết quả cho thấy tỷ lệ vốn lưu động trên tổng tài sản và lợi nhuận ròng bán hàng có tác động tiêu cực đến lợi nhuận chứng khoán, trong khi tỷ lệ lợi nhuận ròng trên tổng tài sản và doanh thu trên tổng tài sản lại có ảnh hưởng tích cực Hơn nữa, các điều kiện kinh doanh và biện pháp can thiệp quản lý được xác định là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính thông qua sự thay đổi thu nhập trên cổ phiếu.
Nghiên cứu của McNichols và Stubben (2008) chỉ ra rằng quản lý lợi nhuận có ảnh hưởng đến độ tin cậy và chất lượng của báo cáo tài chính Những nghiên cứu trước đây trên thế giới đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo độ tin cậy trong báo cáo tài chính để phản ánh chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Bài viết "Quản lý thu nhập có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các công ty?" đăng trên The Accounting Review, tháng 11 năm 2008, phân tích tác động của việc thao túng kết quả tài chính đến quyết định đầu tư của các công ty Nghiên cứu được thực hiện trên một lượng lớn công ty đại chúng từ năm 1978 đến 2002, cho thấy rằng các công ty bị SEC điều tra về bất thường kế toán, bị cổ đông kiện vì sai sót kế toán, và đã thu hồi báo cáo tài chính do thông tin sai lệch, có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ Đặc biệt, quản lý thu nhập, thường nhắm đến các bên bên ngoài, cũng tác động đến quyết định nội bộ, trong đó độ tin cậy của báo cáo tài chính đóng vai trò quan trọng Sự thay đổi trong các khoản phải thu theo sự tăng trưởng doanh thu cũng góp phần giải thích độ tin cậy này.
Bài viết tháng 11 năm 2008, Vol 83, No 6, pp 1571-1603 đã giới thiệu một thước đo mới về chất lượng thu nhập và thu nhập từ vốn lưu động, nhấn mạnh việc điều chỉnh ghi nhận dòng tiền theo thời gian để cải thiện việc đo lường hiệu suất công ty Tuy nhiên, việc tính toán các khoản tích lũy yêu cầu giả định và ước tính về các dòng tiền trong tương lai Nghiên cứu cho thấy độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) được xác định bởi sự thay đổi trong vốn lưu động và dòng tiền hoạt động.
Nghiên cứu của Cutillas Gomariz và các cộng sự (2014) trong bài viết "Chất lượng báo cáo tài chính, thời hạn nợ và hiệu quả đầu tư" đăng trên tạp chí Journal of Banking & Finance đã phân tích 1.039 quan sát từ các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Madrid trong giai đoạn 1998-2008 Sau khi loại bỏ các doanh nghiệp không phù hợp, dữ liệu còn lại là 500 doanh nghiệp tài chính được chọn lọc dựa trên tiêu chí chất lượng báo cáo của Dechow và Dichev (2002) Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng chất lượng báo cáo tài chính có thể giảm đáng kể nếu mức đầu tư vượt quá khả năng.
Nợ thấp có thể nâng cao hiệu quả đầu tư, giảm thiểu tình trạng đầu tư quá mức và đầu tư thiếu hiệu quả Vì vậy, báo cáo tài chính đáng tin cậy giúp hạn chế các vấn đề liên quan đến đầu tư không hợp lý.
Nghiên cứu của Celine Michailesco (2010) đã khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC) của hơn 100 doanh nghiệp niêm yết tại Pháp từ năm 1991 đến 1995 Qua phân tích dữ liệu định lượng, tác giả đã kiểm tra mối liên hệ giữa các yếu tố và thực hiện hồi quy để đánh giá kết quả Mô hình nghiên cứu cho thấy hệ số R2 dao động từ 10.82% đến 22.13% theo từng năm, đồng thời chỉ ra rằng sự phân bố quyền sở hữu có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin BCTC.
Nghiên cứu của Jan Barton và Paul J Simko (2002) với tựa đề: “The Balance
Nghiên cứu "Bảng cân đối kế toán dưới sự ràng buộc của thu nhập" nhằm kiểm tra tính trung thực của báo cáo tài chính (BCTC) dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận, đồng thời phân tích ảnh hưởng của các biến như EPS (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu), quy mô công ty, lợi nhuận và quy mô công ty kiểm toán đến độ tin cậy của BCTC Nghiên cứu được thực hiện thông qua khảo sát 3,649 doanh nghiệp trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến 1999.
Theo Shaw (1980) và Campell (1985), kiểm toán độc lập đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao độ tin cậy của báo cáo tài chính doanh nghiệp, đồng thời giúp giảm thiểu rủi ro gian lận nghiêm trọng.
A T Craswell's 1995 study, "Auditor Brand Name Reputations and Industry Specializations," published in the Journal of Accounting and Economics, analyzed the financial reports of 1,484 publicly listed companies in Australia The research highlights how the quality of audits conducted by reputable firms influences investor decision-making Similar findings are echoed in other studies, such as Chow's 1983 research, reinforcing the significance of auditor reputation in financial reporting.
Chee W Chow and Steven J Rice (1982) conducted a study published in The Accounting Review, analyzing 127 out of 373 companies in the oil and gas sector Their research highlights that the acceptance of audit opinions by management significantly enhances the reliability of financial statements.
Các nghiên cứu trong nước
Nghiên cứu của Nguyễn Phúc Sinh (2008) chỉ ra rằng hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, dẫn đến báo cáo tài chính (BCTC) chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin chất lượng và đáng tin cậy Các yếu tố môi trường cũng ảnh hưởng đến khả năng cung cấp thông tin kế toán, làm cho BCTC chưa thực sự phục vụ tốt cho các đối tượng sử dụng thông tin trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam.
Nghiên cứu của Phạm Quốc Thuần (2016) trong bài viết “Tác động của các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp đến tính thích đáng của chất lượng thông tin kế toán trên báo cáo tài chính” đã chỉ ra rằng chất lượng thông tin báo cáo tài chính chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố Các nhân tố bên trong doanh nghiệp như hành vi quản trị lợi nhuận, sự hỗ trợ từ quản lý, đào tạo nhân viên, chất lượng phần mềm kế toán, hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ và năng lực nhân viên kế toán đều đóng vai trò quan trọng Bên cạnh đó, các yếu tố bên ngoài như áp lực từ thuế và sự kiểm toán độc lập cũng tác động đáng kể Đặc biệt, hành vi quản trị lợi nhuận và tác động từ thuế có xu hướng dẫn đến gian lận trong báo cáo tài chính.
Nghiên cứu của Phan Thị Hằng Nga và Phan Thị Trà Mỹ (2017) trong bài viết “Các yếu tố ảnh hưởng đến công bố thông tin trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp” đăng trên Tạp chí Tài chính đã xác định 17 nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin kế toán Những yếu tố này bao gồm quyền sở hữu vốn của nước ngoài và tổ chức, sự kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị và tổng giám đốc, tính độc lập của hội đồng quản trị, chuyên môn tài chính, kế hoạch thưởng, đòn bẩy tài chính, khả năng thanh toán, quy mô doanh nghiệp, thời gian niêm yết, tình trạng niêm yết, loại công ty kiểm toán, sự trì hoãn của báo cáo tài chính, loại hình kinh doanh, chỉ tiêu lợi nhuận, khả năng phát triển và chính sách chia cổ tức.
Nghiên cứu của Phạm Thị Bích Vân (2013) trong bài viết “Các cách đo lường sự trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận” trên Tạp chí doanh nghiệp với ngân hàng đã chỉ ra bốn phương pháp đo lường độ trung thực của chỉ tiêu lợi nhuận trong báo cáo tài chính Kết quả nghiên cứu khuyến nghị rằng các bên liên quan nên áp dụng đầy đủ cả bốn phương pháp này hoặc cần thận trọng hơn trong việc đưa ra quyết định, đồng thời thực hiện điều tra, phân tích và đánh giá sâu hơn để đảm bảo tính chính xác của chỉ tiêu lợi nhuận.
Khe hổng nghiên cứu
Qua việc xem xét các nghiên cứu trước đây cả ở trong nước và quốc tế liên quan đến độ tin cậy của báo cáo tài chính, tác giả nhận thấy rằng đây là một chủ đề quan trọng Các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để hiểu rõ hơn về vấn đề Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình nghiên cứu.
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện bởi các tác giả khác nhau trên cùng một chủ đề, mỗi người áp dụng những cách tiếp cận riêng để đo lường vấn đề này.
Nhiều nghiên cứu đã kế thừa quy trình từ các công trình trước đó, áp dụng các phương pháp định lượng và lý thuyết nền tảng để xây dựng và kiểm định mô hình nghiên cứu Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường được thực hiện riêng lẻ, tập trung vào một số yếu tố nhất định, thậm chí chỉ 1 hoặc 2 yếu tố Tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu mới chỉ chú ý đến chất lượng thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC), tính minh bạch của BCTC, và một số nghiên cứu về mức độ công bố thông tin BCTC.
Nghiên cứu tại Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực độ tin cậy của thông tin Các công trình nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc nâng cao hiểu biết và ứng dụng của thông tin trong các lĩnh vực khác nhau.
Nghiên cứu về BCTC hiện còn hạn chế và chưa đi sâu vào vấn đề này, với phần lớn các công trình tập trung vào các công ty niêm yết và các lĩnh vực ngành nghề cụ thể Hiện tượng này dẫn đến sự thiếu hụt các nghiên cứu về chất lượng và độ tin cậy của báo cáo tài chính, đặc biệt là đối với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài Sự khác biệt này tạo nên điểm nhấn cho nghiên cứu của tác giả so với những công trình đã được công bố trước đó.
Định hướng nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của thông tin báo cáo tài chính và mức độ tác động của từng yếu tố đến độ tin cậy của các công ty niêm yết có vốn đầu tư nước ngoài trên Sở GDCK TP HCM Tác giả đã tổng hợp lý thuyết liên quan và phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố và độ tin cậy của báo cáo tài chính Để lượng hóa mối quan hệ này, tác giả đề xuất mô hình hồi quy logit cho nghiên cứu Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp hàm ý nghiên cứu phù hợp.
Chương 1 nêu lý do chọn đề tài, mục tiêu, câu hỏi, đối tượng, phạm vi, phương pháp cũng như ý nghĩa của nghiên cứu nhằm khái quát về vấn đề mà tác giả muốn nghiên cứu trong bài luận văn này
Bài viết tóm tắt các nghiên cứu về chất lượng và độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC), cùng với các yếu tố ảnh hưởng đến tính trung thực của BCTC ở Việt Nam và trên thế giới Tác giả đưa ra nhận xét về các nghiên cứu hiện có, xác định các khoảng trống trong nghiên cứu và tiến hành điều tra các yếu tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của BCTC tại các công ty có vốn đầu tư nước ngoài niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh.
CƠ SỞ LÝ THUY Ế T
Một số vấn đề chung về Chất lƣợng thông tin trên báo cáo tài chính và độ tin cậy
Gần đây, nhiều công ty niêm yết đã bị phát hiện công bố báo cáo tài chính không đầy đủ và thiếu trung thực, vi phạm quy định pháp luật Nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng, báo cáo tài chính chất lượng cao có thể giảm thiểu bất cân xứng thông tin và cuối cùng giúp hạ thấp chi phí sử dụng vốn.
Mendelson, 1986; Diamond và Verrecchia, 1991; Bhattachaarya và các cộng sự,
2003 và Barth và các cộng sự, 2013)
Nguyên tắc kế toán chung (GAAPs) cho phép nhà quản trị linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp và ước tính kế toán Tuy nhiên, sự linh hoạt này có thể dẫn đến việc báo cáo tài chính không phản ánh trung thực tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Điều này làm giảm độ tin cậy của báo cáo tài chính, gây ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định kinh tế của nhà quản trị và người sử dụng thông tin kế toán.
2.1.1 Một số vấn đề chung liên quan đến báo cáo tài chính
BCTC là báo cáo tổng hợp quan trọng về tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả của doanh nghiệp, phản ánh tình hình tài chính và kết quả kinh doanh trong kỳ Chúng cung cấp cái nhìn về khả năng sinh lời và thực trạng tài chính cho các bên liên quan như chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay, cơ quan thuế và các cơ quan chức năng khác Các thông tin này được kế toán viên trình bày dưới dạng bảng biểu, tạo điều kiện cho việc phân tích và ra quyết định.
Theo Hall (2011) và Gelina cùng cộng sự (1999), thông tin kế toán đóng vai trò quan trọng trong thông tin quản lý, giúp doanh nghiệp quản lý hiệu quả nguồn lực tài chính.
Nghiên cứu của Cyert và Ijiri (1974), xem x t ba đối tƣợng chính liên quan đến báo cáo tài chính:
- Doanh nghiệp, người lập ra báo cáo tài chính
- Các chuyên gia kiểm toán, người kiểm tra, và xác nhận báo cáo tài chính
- Người sử dụng, bao gồm các đối tượng khác nhau sử dụng báo cáo tài chính nhƣ nhà đầu tƣ, chủ nợ, nhà phân tích,…
Báo cáo tài chính là tài liệu quan trọng phản ánh tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm cung cấp thông tin hữu ích về tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí, lãi lỗ và các luồng tiền Mục tiêu chính của báo cáo này là hỗ trợ người sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế chính xác.
Thông tin trong Bảng thuyết minh báo cáo tài chính hỗ trợ người sử dụng dự đoán các luồng tiền tương lai, đồng thời xác định thời điểm và mức độ chắc chắn của việc tạo ra các luồng tiền cùng với các khoản tương đương tiền.
Trên cơ sở xác định đối tƣợng sử dụng báo cáo tài chính, các khuôn mẫu lý thuyết xác định đƣợc mục đích của báo cáo tài chính
FASB đƣa ra mục đích của báo cáo tài chính nhƣ sau:
- Cung cấp thông tin hữu ích cho quyết định đầu tƣ vào cho vay
- Giúp người đọc đánh giá về thời gian và tính không chắc chắn của các dòng tiền
- Cung cấp các thông tin về nguồn lực kinh tế, các quyền đối với tài sản và sự thay đổi chúng
IASB xác định rằng báo cáo tài chính có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kết quả hoạt động và sự thay đổi của tình hình tài chính Những thông tin này hỗ trợ các đối tượng sử dụng khác nhau trong việc đưa ra quyết định tài chính chính xác.
Dự án hội tụ FASB-IASB xác định rằng mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp thông tin tài chính hữu ích về doanh nghiệp cho nhà đầu tư, người cho vay và các chủ nợ, giúp họ đưa ra quyết định thông minh trong vai trò là nhà cung cấp vốn.
Báo cáo tài chính rất quan trọng và cần được lập theo các chuẩn mực kế toán hiện hành Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 21 và thông tư 200/2014/TT-BTC, việc lập và trình bày báo cáo tài chính phải tuân thủ các yêu cầu cụ thể.
Báo cáo tài chính cần phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và luồng tiền của doanh nghiệp Để đảm bảo tính chính xác, các báo cáo này phải được lập và trình bày theo các chuẩn mực kế toán, chế độ kế toán và quy định hiện hành.
Doanh nghiệp cần khẳng định trong phần thuyết minh báo cáo tài chính rằng báo cáo được lập và trình bày theo chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam Để được coi là phù hợp, báo cáo tài chính phải tuân thủ tất cả các quy định của từng chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành, theo hướng dẫn thực hiện của Bộ Tài chính.
Doanh nghiệp áp dụng chính sách kế toán không phù hợp với quy định của chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam sẽ không được xem là tuân thủ các chuẩn mực hiện hành, ngay cả khi đã giải thích chi tiết trong chính sách kế toán và phần thuyết minh báo cáo tài chính.
- Để lập và trình bày báo cáo tài chính trung thực và hợp lý, doanh nghiệp phải:
Lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định;
Trình bày các thông tin, kể cả các chính sách kế toán, nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, sosánh đƣợc và dễ hiểu;
Cung cấp thông tin bổ sung là cần thiết khi các quy định trong chuẩn mực kế toán không đủ để người sử dụng hiểu rõ tác động của các giao dịch hoặc sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Liên quan đến chính sách kế toán
Doanh nghiệp cần lựa chọn và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với quy định của từng chuẩn mực kế toán để lập và trình bày báo cáo tài chính Nếu chưa có quy định cụ thể, doanh nghiệp phải dựa vào chuẩn mực chung để xây dựng các phương pháp kế toán hợp lý, đảm bảo báo cáo tài chính cung cấp thông tin đáp ứng các yêu cầu cần thiết.
+ Thích hợp với nhu cầu ra các quyết định kinh tế của người sửdụng;
Trình bày trung thực, hợp lý tình hình tài chính, tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp;
Phản ánh đúng bản chất kinh tế của các giao dịch và sự kiện không chỉ đơn thuần phản ánh hình thức hợp pháp của chúng;
Trình bày khách quan, không thiên vị;
Tuân thủ nguyên tắc thận trọng;
Trình bày đầy đủ trên mọi khía cạnh trọng yếu
Chính sách kế toán là tập hợp các nguyên tắc, cơ sở và phương pháp kế toán mà doanh nghiệp áp dụng để lập và trình bày báo cáo tài chính.
Các lý thuyết nền tảng liên quan
2.3.1 Lý thuyết đại diện (Agencytheory)
Lý thuyết người chủ - người đại diện, do Jensen và Meckling phát triển vào năm 1976, nghiên cứu mối quan hệ giữa chủ sở hữu và người lao động trong quản trị kinh doanh thông qua hợp đồng Lý thuyết này tập trung vào hành vi của cả hai bên và các vấn đề phát sinh trong việc quản lý cũng như tối ưu hóa lợi ích của họ.
Chủ sở hữu vốn và nhà quản trị thường có lợi ích đối lập; trong khi chủ sở hữu chú trọng đến giá trị công ty và giá cổ phiếu để bảo vệ quyền lợi của mình, thì nhà quản trị lại tập trung vào lợi ích cá nhân hơn là lợi ích của cổ đông.
Sự không đồng nhất lợi ích giữa cổ đông và Giám đốc dẫn đến chi phí đại diện, theo lý thuyết được nghiên cứu bởi Jensen và Meckling (1976) cùng với Myers (1977) Rủi ro đạo đức và lựa chọn đối nghịch có thể gây ra quản lý đầu tư không hiệu quả Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng cổ đông, nhà quản lý và chủ nợ đều hướng tới lợi ích chung, nhưng không phải lúc nào lợi ích cũng trùng khớp Chi phí đại diện để duy trì mối quan hệ đại diện hiệu quả bằng không khi chủ sở hữu cũng là Giám đốc Chi phí này tăng lên khi Giám đốc sở hữu ít hoặc không có cổ phiếu công ty, bao gồm chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và chi phí cơ hội.
Lý thuyết đại diện giải thích cách mà quy mô công ty và kết quả tài chính ảnh hưởng đến tính độ tin cậy của các công ty niêm yết.
2.3.2 Lý thuyết về thông tin bất cân xứng
Lý thuyết thông tin bất cân xứng được phát triển vào những năm 1970 bởi các nhà khoa học George Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz Lý thuyết này chỉ ra rằng trong các giao dịch trên thị trường, các bên tham gia thường cố tình che giấu thông tin hoặc một số bên có thể nắm giữ thông tin tốt hơn Thông tin bất cân xứng xảy ra khi một bên sở hữu thông tin mà bên còn lại không biết rõ về mức độ thông tin đó (Nguyễn Trọng Hoài, 2006) Trong thị trường chứng khoán, thông tin bất cân xứng xuất hiện khi một hoặc nhiều nhà đầu tư có được thông tin riêng biệt (Kyle, 1985 trích trong Ravi).
2005) hoặc có nhiều thông tin công bố hơn về một công ty (Kim và Verrecchia,1994 và 1977 trích trong Ravi 2005) so với các nhà đầu tƣ cònlại
Thông tin bất cân xứng có thể tác động đến chi phí huy động vốn và lựa chọn dự án Theo Stiglitz và Weiss (1981), hiện tượng chọn lọc đối nghịch xảy ra do sự thiếu hụt thông tin giữa các bên liên quan trong giao dịch Sự không đầy đủ này tạo ra bất cân xứng thông tin, dẫn đến thị trường không hoàn hảo và cản trở hiệu quả hoạt động (Myers và Majluf, 1984).
Lý thuyết thông này được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của nhân tố kết quả tài chính, hiệu quả sử dụng tài sản của các CTNY
2.3.3 Lý thuyết về hành vi gian lận
Thuyết ủy nhiệm của Jensen và Mackling (1976) cùng với lý thuyết các đối tượng có liên quan của Freeman là những lý thuyết tiêu biểu giải thích hành vi gian lận Những lý thuyết này giúp hiểu rõ hơn về động cơ và yếu tố ảnh hưởng đến hành vi gian lận trong các tổ chức.
Lý thuyết ủy nhiệm của Jensen và Mackling (1976) cho rằng cả hai bên ủy nhiệm và được ủy nhiệm đều tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình Freeman (1984) định nghĩa các đối tượng có liên quan là bất kỳ nhóm hoặc cá nhân nào có thể ảnh hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi mục tiêu của tổ chức Mâu thuẫn lợi ích cá nhân có thể dẫn đến hành vi gian lận nhằm trục lợi trong mối quan hệ với các đối tượng liên quan Một số nghiên cứu tiêu biểu về hành vi gian lận trên thế giới bao gồm công trình của Edwin H Sutherland, Donald R Cressey và D W Steven Albrecht.
Tội phạm trong doanh nghiệp được định nghĩa là hành vi vi phạm pháp luật hình sự do các thực thể kinh doanh, nhân viên hoặc đại lý thực hiện nhằm mục đích lợi ích cho doanh nghiệp Lý thuyết tam giác gian lận của Donal R Cressey cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố thúc đẩy hành vi này.
Từ năm 1919 đến 1987, tác giả đã nghiên cứu gian lận kinh tế qua việc phân tích 200 trường hợp cụ thể, tập trung vào các khía cạnh thâm ô và biển thủ Ông đã phát triển một mô hình chứng minh rằng hành vi gian lận xảy ra khi ba yếu tố: Áp lực, Cơ hội và Thái độ hội tụ Sự kết hợp này dẫn đến việc các cá nhân thực hiện hành vi gian lận trong báo cáo tài chính, từ đó làm giảm độ tin cậy của thông tin tài chính.
Mô hình tam giác gian lận đã được áp dụng rộng rãi trong các nghiên cứu và đánh giá rủi ro gian lận, đặc biệt trong lĩnh vực kiểm toán Hiện nay, mô hình này được VSA 240 và ISA 240 áp dụng để đánh giá rủi ro gian lận tại các công ty kiểm toán Lý thuyết bàn cân gian lận, do D W Steven Albrecht phát triển vào những năm 1980 sau khi phân tích 212 trường hợp gian lận, bao gồm ba yếu tố chính: áp lực, cơ hội và tính trung thực cá nhân.
Lý thuyết thông này được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của nhân tố chất lượng công ty được chọn làm kiểm toán của các CTNY
Liên quan đến lý thuyết tín hiệu có thể kể đến nghiên cứu của Miller và
Theo Modigliani (1961), giả thiết cho rằng nhà đầu tư và ban giám đốc đều sở hữu kiến thức hoàn hảo về doanh nghiệp Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng giữa nhà quản lý và nhà đầu tư luôn tồn tại khoảng cách thông tin Các nhà quản lý, những người trực tiếp kiểm soát hoạt động doanh nghiệp, nắm bắt mọi thông tin nội bộ mà nhà đầu tư khó có thể tiếp cận từ bên ngoài Theo Al-Malkawi, điều này càng làm nổi bật sự khác biệt trong hiểu biết giữa hai bên.
Vào năm 2007, để thu hẹp khoảng cách thông tin giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư, các nhà quản lý đã sử dụng cổ tức như một công cụ quan trọng để kết nối thông tin nội bộ Trong bối cảnh thông tin bất cân xứng, cổ tức không chỉ được coi là phương tiện truyền tín hiệu mà còn được nhấn mạnh trong các nghiên cứu của Gordon (1963) và Lintner (1956).
Lý thuyết thông này được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của nhân tố tỷ lệ sở hữu cổ phiếu nước ngoài của các CTNY
2.3.5 Lý thuyết lợi ích cá nhân
Lý thuyết lợi ích cá nhân giả định rằng những người có trách nhiệm trong tổ chức lập quy hành xử dựa trên lợi ích cá nhân của họ Theo lý thuyết này, thị trường các quy định hoạt động giống như thị trường vốn, nơi mà các quy định được hình thành và điều chỉnh dựa trên những lợi ích riêng của các bên liên quan.
Trên thị trường, các quy định thường bị chi phối bởi nhóm lợi ích nào trả giá cao hơn, với giá cả liên quan đến phiếu bầu và tài trợ Nghiên cứu cho thấy, doanh nghiệp là nhóm có lợi ích cao nhất nhờ khả năng thương lượng để hình thành nhóm lợi ích có tổ chức, từ đó tác động đến nhà lập quy Ngược lại, các nhóm lợi ích như khách hàng hay nhóm xã hội thường gặp khó khăn do chi phí cao hơn Trong lĩnh vực kế toán, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng quy trình ban hành chuẩn mực kế toán bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các công ty lớn.
Lý thuyết thông này được sử dụng để giải thích ảnh hưởng của nhân tố tỷ lệ sở hữu cổ phiếu nước ngoài của các CTNY
2.3.6 Lý thuyết về lợi ích và chi phí
Các nhân tố tác động đến độ tin cậy của một báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính cung cấp cái nhìn tổng quan về hoạt động kinh doanh của công ty, do đó, việc đánh giá độ tin cậy của nó là rất quan trọng Để xác định tính đáng tin cậy của báo cáo tài chính, cần xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến nó Trong chương 1, tác giả đã tổng hợp các nghiên cứu liên quan đến các nhân tố tác động đến độ tin cậy của báo cáo tài chính Từ đó, tác giả sẽ kế thừa và phát huy những kết quả này trong luận văn của mình để làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính.
2.4.1 Chất lƣợng công ty đƣợc chọn làm kiểm toán
Hoạt động kiểm toán độc lập là yếu tố thiết yếu để đảm bảo tính hữu ích và độ tin cậy của thông tin kế toán cũng như báo cáo tài chính Trong quá trình cung cấp thông tin kế toán, nhiều vấn đề như mâu thuẫn lợi ích, khác biệt về nhu cầu sử dụng thông tin và quy trình kế toán phức tạp có thể dẫn đến sự không đáng tin cậy và chứa đựng rủi ro sai sót, gian lận Kiểm toán độc lập đóng vai trò quan trọng trong việc xác nhận tính trung thực, hợp lý và khách quan của báo cáo tài chính, từ đó cung cấp thông tin minh bạch và đáng tin cậy cho người sử dụng Nghiên cứu cho thấy rằng nội dung báo cáo tài chính có thể bị ảnh hưởng bởi việc các công ty niêm yết được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán lớn hay nhỏ.
Các nghiên cứu trước đây, như của Simon (2001) và Archambault (2003), đã phân chia các công ty kiểm toán thành hai nhóm: nhóm Big Four và nhóm không phải Big Four Nhận định chung là các công ty được kiểm toán bởi một trong những công ty lớn này thường công bố nhiều thông tin hơn và có độ chính xác cao hơn so với các công ty khác.
Dựa vào lợi ích và nhu cầu của người sử dụng thông tin kế toán, Campell
Kiểm toán độc lập đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC), giúp hạn chế rủi ro gian lận và cung cấp thông tin hữu ích cho người sử dụng (Shaw, 1980; Chow và Rice, 1982) Người quản lý thường chấp nhận kiểm toán để nâng cao độ tin cậy của BCTC, từ đó tạo lợi thế cạnh tranh (Campbell) Nghiên cứu của Albert và Serban (2012) chỉ ra rằng kiểm toán độc lập có giá trị đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Roma, giúp nâng cao niềm tin của các bên liên quan trong quyết định kinh tế Hơn nữa, kiểm toán cũng là trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với xã hội, đảm bảo lợi ích xã hội thông qua việc kiểm soát thông tin BCTC.
2.4.2 Lợi nhuận trên cổ phiếu
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng trong BCTC, cần tuân thủ chuẩn mực kế toán hiện hành Tính linh hoạt của GAAPs cho phép nhà quản trị báo cáo lợi nhuận theo nhiều cách để tối ưu hóa lợi ích cho công ty, bao gồm phát hành cổ phiếu, tránh vi phạm hợp đồng vay, và san bằng lợi nhuận Nhiều nghiên cứu trên thế giới chỉ ra rằng lợi ích từ cổ phiếu ảnh hưởng đến hành vi điều chỉnh thông tin trong BCTC, đặc biệt là chỉ tiêu thu nhập, dẫn đến thông tin sai lệch và giảm độ tin cậy của BCTC.
Johannes de Wet (2014) cho thấy rằng lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu có ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng hiệu suất tài chính Các nhà nghiên cứu như Penman cũng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của chỉ số này trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Năm 2005, Rappaport chỉ ra rằng các doanh nghiệp có thể điều chỉnh EPS để tối đa hóa giá trị tương lai, điều này dẫn đến sự không trung thực trong hoạt động kinh doanh Tương tự, Brown (1999) nhận thấy vấn đề trong báo cáo tài chính liên quan đến các khoản thu nhập không có thật do điều chỉnh EPS Stewart (2002) đã nêu ví dụ về vụ Enron, nơi công ty này cố tình che giấu một khoản nợ lớn để tăng EPS Nghiên cứu của Bergstresser và Philippon (2006) cũng cho thấy kết quả tương tự khi phân tích gian lận của WorldCom do sử dụng sai số kế toán.
2.4.3 Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nước ngoài
Nghiên cứu cho thấy mức độ sở hữu cổ phiếu có thể cải thiện quản trị công ty, từ đó nâng cao độ tin cậy thông tin và giảm thiểu rủi ro cho cổ đông (McConnell và Servaes, 1990; Chueng và cộng sự, 2005) Các nghiên cứu của La Porta và cộng sự (1999), Schadewitz & Blevins (1998) chỉ ra rằng doanh nghiệp có nhiều nhà đầu tư sở hữu cổ phần lớn có thể ảnh hưởng tích cực đến độ tin cậy của thông tin báo cáo tài chính (BCTC) Chất lượng thông tin kế toán giúp nhà đầu tư đánh giá chính xác tình hình tài chính và dự đoán dòng tiền, lợi nhuận tương lai của các công ty niêm yết Tuy nhiên, theo lý thuyết tín hiệu, mức độ sở hữu vốn nước ngoài cao có thể dẫn đến chất lượng thu nhập thấp hơn do công ty có xu hướng điều chỉnh giảm lợi nhuận để giảm thuế, ảnh hưởng tiêu cực đến độ tin cậy của thông tin BCTC.
Celine Michailesco (2010) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp tại Pháp trong giai đoạn 1991-1995 Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc khảo sát hơn
Trong nghiên cứu này, 100 doanh nghiệp niêm yết tại Pháp đã được phân tích trong 5 năm, với hai giai đoạn chính: mô tả và phân tích hồi quy để kiểm tra mối quan hệ giữa các yếu tố Kết quả cho thấy mô hình có R2 dao động từ 10.82% đến 22.13%, chỉ ra rằng sự phân bố quyền sở hữu ảnh hưởng đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính (BCTC) Nghiên cứu cũng hỗ trợ quan điểm này qua các tài liệu như của Collins, Maydew và Weiss (1997), Barth, Beaver và Landsman (1998), Keener (2011), cùng với luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Phương Hồng (2016), nhấn mạnh tác động của tỷ lệ sở hữu nước ngoài đối với chất lượng thông tin kế toán.
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa sở hữu nước ngoài và biến động lợi nhuận cổ phiếu cho thấy kết quả rất khác nhau Một số nghiên cứu, như của Kee-Hong Bae và cộng sự (2004), Zhian Chen và cộng sự (2006, 2013), cùng Mehmet Umutlu và cộng sự (2014), chỉ ra mối quan hệ đồng biến Ngược lại, Jianxin Wang (2007) đã phát hiện bằng chứng về mối quan hệ nghịch biến tại Indonesia và Thái Lan, trong khi Wenjie Tu và Liyan Han (2010) cung cấp bằng chứng tương tự ở Trung Quốc, và Xuan Vinh Vo (2015) đã tìm thấy bằng chứng tại Việt Nam.
Doanh thu, vốn lưu động và các khoản trích trước có thể điều chỉnh để thay đổi lợi nhuận của công ty, do đó, những chỉ số này được sử dụng để đo lường độ tin cậy của báo cáo tài chính Theo mô hình của Mc Nichols và Stubben (2008) về doanh thu, độ tin cậy của báo cáo tài chính có thể được đánh giá Bên cạnh đó, nghiên cứu của Trần Thị Giang Tân (2009) cũng chỉ ra các phương pháp gian lận mà các công ty niêm yết thường áp dụng.
TTCK Việt Nam đang đối mặt với vấn đề gian lận doanh thu, dẫn đến báo cáo tài chính (BCTC) kém chất lượng và thông tin tài chính không còn đáng tin cậy.
2.4.5 Quy mô công ty dựa trên tổng tài sản
Trong nghiên cứu của Person (1995) với mẫu 206 doanh nghiệp có và không có gian lận trên báo cáo tài chính (BCTC), các chỉ số quan trọng như đòn bẩy tài chính, vòng quay vốn, cơ cấu tài sản và quy mô doanh nghiệp đã được xác định là có khả năng dự báo gian lận Nhiều nghiên cứu trước đó, như của Wallace (1994), Zarzeski (1996), Robert Bushman và cộng sự (2001), Archambault (2003), và Khanna cùng cộng sự (2004), cũng đã chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thông tin và quy trình công bố BCTC Nghiên cứu của Cao Nguyễn Lệ Thu (2014) về các yếu tố nội bộ tác động đến chất lượng thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết tại TP.HCM đã xác nhận rằng quy mô doanh nghiệp có tác động đến chất lượng BCTC Tương tự, Hongjang Xu (2003) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hệ thống thông tin kế toán tại Úc và cũng tìm thấy rằng quy mô doanh nghiệp có ảnh hưởng đến chất lượng BCTC.
Chương này cung cấp cơ sở lý luận về các nhân tố ảnh hưởng đến độ tin cậy của báo cáo tài chính (BCTC) và tổng quan về các vấn đề liên quan.