Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay, bên cạnh việc phát triển đồng bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã hội, khoa học và kỹ thuật, chúng ta còn có nhiệm vụ quan trọng là bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định rõ điều này.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cần phát triển toàn diện và thống nhất trong đa dạng, với tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ Văn hóa phải gắn kết chặt chẽ vào đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc cho sự phát triển Đồng thời, cần kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của các dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh Mục tiêu là phát triển con người Việt Nam mới, giàu lòng yêu nước, có tri thức, sức khỏe và trách nhiệm công dân Do đó, việc tìm hiểu và phát huy nguồn lực con người là rất cần thiết.
Trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Trần nổi bật với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, chính trị và văn hóa tư tưởng Nhà Trần đã xây dựng một quốc gia thống nhất, độc lập, với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời tổ chức quản lý xã hội một cách quy củ từ trung ương đến địa phương Họ đã thống nhất tư tưởng và đoàn kết lòng dân, tạo ra sức mạnh toàn dân tộc để đánh bại giặc ngoại xâm Những thành tựu này chứng minh giá trị lý luận và tư tưởng mà nhà Trần áp dụng trong quản lý xã hội, đặc biệt là trong tư tưởng chính trị Hệ thống tư tưởng văn hóa của nhà Trần, với triết lý Phật giáo phong phú và sâu sắc, đã góp phần gắn kết lòng dân và phục hưng sự nghiệp, trở thành nền tảng tinh thần cho xã hội Đại Việt trong thế kỷ XIII - XIV.
Trong lịch sử tư tưởng thời Trần, các nhà tư tưởng nổi bật đã đóng góp to lớn vào việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tiêu biểu là Trần.
Tự Khánh (1175 - 1223), Trần Thủ Độ (1194 - 1264), Trần Quốc Tuấn (1232
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là một vị vua tài ba và nhân văn, nổi bật với khả năng lãnh đạo và lòng yêu nước Ông đã dẫn dắt quân dân Đại Việt đánh bại quân xâm lược Nguyên - Mông, thể hiện tinh thần yêu nước và đấu tranh cho cái thiện Ngoài vai trò lãnh đạo, Trần Nhân Tông còn là người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm, để lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa Việt Nam với những tác phẩm thơ bất hủ Tư tưởng của ông phong phú và đa dạng, bao gồm chính trị, giáo dục, đạo đức và tôn giáo, với mục tiêu chính là cải thiện cuộc sống con người, mang lại hạnh phúc và sự tốt đẹp cho xã hội.
Trong bối cảnh xã hội và con người Việt Nam hiện nay, nghiên cứu tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quan điểm tiến bộ của ông đối với cuộc sống, lý tưởng sống và thái độ hành động của con người Tư tưởng của ông nhấn mạnh sự giải thoát thông qua tu luyện trí tuệ, đạo đức và hành động gắn liền với thực tiễn, đặc biệt là tinh thần dân tộc, lòng yêu nước và trách nhiệm với đất nước Nghiên cứu tư tưởng này còn góp phần tìm hiểu truyền thống văn hóa yêu nước, thương dân của dân tộc, đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm lược Do đó, việc làm rõ những quan điểm của Trần Nhân Tông là cần thiết để rút ra bài học quý giá, góp phần xây dựng con người Việt Nam mới trong giai đoạn hiện nay Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông và ý nghĩa lịch sử của nó” cho luận văn thạc sĩ của mình.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Cuộc đời và tư tưởng của Trần Nhân Tông mang ý nghĩa lý luận sâu sắc và thực tiễn thiết thực, thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều nhà khoa học Các công trình nghiên cứu về ông thường được phân loại theo hai hướng chính, liên quan mật thiết đến chủ đề của đề tài.
Nghiên cứu về tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông chủ yếu tập trung vào các điều kiện và tiền đề hình thành của ông Một số công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm tác phẩm "Đại Việt sử ký toàn thư", tập 2, do Nxb Khoa học Xã hội phát hành năm 1998, và "Đại cương lịch sử Việt Nam" của tác giả [tên tác giả] Những nghiên cứu này đóng góp quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về tư tưởng và ảnh hưởng của Trần Nhân Tông trong lịch sử Việt Nam.
Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm và Lê Mậu Hãn (chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội, phát hành năm 2005; Tác phẩm Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời
Lý - Trần của Viện Sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, phát hành năm
Bài viết năm 1981 trình bày tư tưởng của người Việt Nam từ thời tiền sử đến thế kỷ XVIII, trong đó có một phần quan trọng về Phật giáo Tác giả đã phân tích tình hình Phật giáo Việt Nam khi mới du nhập, đặc biệt trong thời kỳ Lý - Trần Ngoài ra, tác phẩm cũng đề cập đến sự phê phán của Nho giáo đối với Phật giáo vào thế kỷ XIV và tư tưởng Phật giáo trong các thế kỷ XVI, XVII và đầu XVIII.
Trong bối cảnh lịch sử tư tưởng dân tộc, công trình "Lịch sử triết học phương Đông" do PGS, TS Doãn Chính làm chủ biên, được xuất bản bởi Nxb Chính trị quốc gia, đóng góp quan trọng vào việc nghiên cứu và hiểu biết về triết học phương Đông.
Cuốn sách "Sự thật" được phát hành năm 2015 tại Hà Nội, bao gồm 3 phần chính và 12 chương với tổng cộng 1367 trang Phần đầu tiên khám phá lịch sử triết học Ấn Độ, phần thứ hai tập trung vào lịch sử triết học Trung Quốc, và phần thứ ba nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam Mỗi phần cung cấp cái nhìn tổng quan về các điều kiện và giai đoạn phát triển của các nền triết học, đồng thời phân tích sâu sắc nội dung tư tưởng của các nhà triết học cùng các trào lưu triết học liên quan đến bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức nhân sinh và các vấn đề chính trị - xã hội Đặc biệt, chương 3 trong phần ba dành nhiều thời gian để phân tích tư tưởng của Trần Nhân Tông và các nhà tư tưởng cùng thời.
PGS, TS Doãn Chính là chủ biên của công trình "Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX", được xuất bản bởi Nxb.
Cuốn sách "Chính trị quốc gia - Sự thật" được phát hành năm 2013 tại Hà Nội, nghiên cứu hệ thống và cơ bản lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam qua các thời kỳ, gắn liền với điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa của dân tộc Với 1050 trang, sách chia thành năm chương, từ khái quát lịch sử, kinh tế, xã hội đến tư tưởng triết học Việt Nam qua các thời kỳ Đặc biệt, chương 3 từ trang 339 đến 384 đề cập đến thân thế, sự nghiệp và các tác phẩm tiêu biểu của Trần Nhân Tông, cùng với những nội dung tư tưởng triết học của ông như thế giới quan, tư tưởng biện chứng, con người và tôn giáo Ngoài ra, cuốn "Tiến trình lịch sử Việt Nam" của Nguyễn Quang Ngọc, phát hành năm 2007, cung cấp cái nhìn tổng quan về lịch sử Việt Nam qua hai phần: lịch sử cổ - trung đại và cận - hiện đại, phân tích sâu sắc sự hình thành tư tưởng của Trần Nhân Tông trong bối cảnh triều đại nhà Trần.
Bên cạnh đó còn có các tác phẩm như Sự phát triển của Tư tưởng ở Việt
Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám (3 tập) của tác giả Trần Văn
Giàu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, phát hành năm 1996; Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII của tác giả Hà Văn Tấn -
Phạm Thị Tâm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, xuất bản 1975, đã phân tích các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và lý luận hình thành tư tưởng triết học Trần Nhân Tông trong bối cảnh lịch sử thế kỷ XIII - XIV Các công trình này nghiên cứu sâu sắc về hình thái kinh tế - xã hội, thể chế chính trị, và cấu trúc đẳng cấp thời Lý - Trần, đồng thời làm rõ văn hóa và tư tưởng của thời kỳ này Nội dung tập trung vào những vấn đề quan trọng như tư tưởng chính trị và xã hội, sự tiếp thu và chuyển hóa của Nho giáo, Phật giáo, và Đạo giáo, cũng như ý nghĩa xã hội của phái Trúc Lâm Những nghiên cứu này giúp người đọc có cái nhìn tổng quát hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Trần Nhân Tông, gắn liền với các biến cố lịch sử của Việt Nam.
Hướng thứ hai tập trung vào các nghiên cứu về nội dung, đặc điểm, giá trị và ý nghĩa trong tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông Các công trình nghiên cứu này khai thác nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó nổi bật là cuốn sách "Toàn tập Trần Nhân Tông" của tác giả.
Lê Mạnh Thát, Nxb Phương Đông, phát hành năm 2000, chia toàn tập thành hai phần Phần đầu tổng quan sự nghiệp võ công và văn trị qua 9 chương, nghiên cứu từ tuổi trẻ đến vai trò của nhà vua trong hai cuộc chiến tranh 1285 và 1288, cũng như việc mở mang bờ cõi, sử dụng tiếng Việt và thành lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử Phần hai công bố các tác phẩm văn học từ thơ phú, văn xuôi, bài giảng, ngữ lục đến văn thư ngoại giao, cung cấp tư liệu cho những ai nghiên cứu lịch sử Việt Nam và vua Trần Nhân Tông.
Cuốn Tư tưởng Việt Nam thời Lý - Trần do PGS, TS Trương Văn Chung - PGS, TS Doãn Chính (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia -
Cuốn sách Hà Nội, phát hành năm 2008, gồm 475 trang, tập trung phân tích tư tưởng và nhân vật tiêu biểu thời Lý - Trần Các bài viết trong tác phẩm khám phá nhiều khía cạnh, đặc biệt nhấn mạnh tinh thần độc lập, lòng yêu nước và sự đoàn kết chống giặc ngoại xâm của nhà nước phong kiến và nhân dân Đại Việt trong giai đoạn này Ngoài ra, một số bài viết còn nghiên cứu sâu sắc tư tưởng của các nhân vật lịch sử nổi bật, trong đó có Trần Nhân Tông.
Tác giả nghiên cứu tác phẩm "Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1" của Nguyễn Hùng Hậu, xuất bản năm 2002, bao gồm ba chương Chương 1 tập trung vào quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo tại Việt Nam từ khởi nguyên đến thời kỳ nhà Trần (thế kỷ XIII - XIV) Hai chương còn lại khám phá thế giới quan và nhân sinh quan của Phật giáo, cả trong bối cảnh chung và đặc thù của Việt Nam.
Bộ Thơ văn Lý - Trần là một di sản văn học cổ quý giá trong lịch sử văn học Việt Nam, được biên soạn bởi Viện Văn học và bao gồm 3 tập Tập 1 của bộ sách này chứa đựng nhiều tác phẩm giá trị, phản ánh sâu sắc văn hóa và tư tưởng của thời kỳ Lý - Trần.
Từ Ngô Quyền dựng nước (938) đến hết nhà Lý (1225), gồm có gồm có
Tập 3 của bộ "136 bài thơ - văn" bao gồm các tác phẩm từ năm 1341 đến khởi nghĩa chống quân Minh của Bình Định Vương vào năm 1418, với tổng cộng 415 bài thơ - văn Những tác phẩm này chủ yếu phản ánh tinh thần yêu nước, lòng thương dân và sự trăn trở về trách nhiệm đối với đất nước cùng vận mệnh dân tộc Đặc biệt, Tập 2, từ đầu triều đại nhà Trần đến đầu đời Trần Dụ Tông (1341), được chia thành 2 quyển với 363 bài thơ.
- văn Trong đó, Quyển thượng có liên quan trực tiếp đến nội dung của đề tài nghiên cứu
Hay các tác phẩm đặc sắc như: Việt Nam Phật giáo sử luận, tác giả
Nguyễn Lang, Nxb Văn học, phát hành năm 2000; tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, phát hành năm 1993; và tác phẩm "Thiền học Việt Nam" của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Lá Bối (Sài Gòn), phát hành năm 1966, là những công trình quan trọng trong nghiên cứu và phát triển Phật giáo tại Việt Nam.
Tư tưởng Phật Giáo Việt Nam do tác giả Nguyễn Duy Hinh biên soạn, Nxb
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn này được xây dựng trên nền tảng của thế giới quan và phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với các quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Những yếu tố này sẽ định hướng cho quá trình nghiên cứu về vấn đề nhân sinh và con người.
Đề tài nghiên cứu áp dụng nhiều phương pháp cụ thể, bao gồm phương pháp lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, cùng với phương pháp văn bản học Luận văn được tiếp cận từ góc độ lịch sử triết học.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Qua việc đi sâu nghiên cứu tư tưởng nhân sinh của
Trần Nhân Tông đã hệ thống hóa và làm rõ tư tưởng nhân sinh của mình, mang lại những giá trị lịch sử quan trọng Những bài học từ tư tưởng này không chỉ phản ánh sâu sắc ý nghĩa nhân sinh mà còn có thể áp dụng vào việc giải quyết các vấn đề hiện nay ở Việt Nam, góp phần tạo ra những giá trị thực tiễn quý báu cho xã hội.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu và giảng dạy lịch sử triết học.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết
Chương 1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
1.1 ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ - XÃ HỘI ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XIII - XIV VỚI SỰ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG NHÂN SINH CỦA TRẦN NHÂN TÔNG
Sự hình thành và phát triển tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông là một hiện tượng lịch sử tất yếu, phản ánh các yếu tố kinh tế, chính trị - xã hội và kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam Để hiểu rõ hơn về tư tưởng này, cần xem xét các điều kiện xuất hiện cũng như quá trình hình thành từ nhiều bình diện khác nhau, bao gồm kinh tế, chính trị - xã hội, văn hóa và tư tưởng.
1.1.1 Điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội Đại Việt thế kỷ XIII - XIV với sự hình thành tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông
Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng nhân sinh của Trần Nhân Tông không phải ngẫu nhiên mà phản ánh thực tiễn lịch sử xã hội Đại Việt thời bấy giờ Ông nhấn mạnh sự cần thiết củng cố một nước Đại Việt độc lập, thống nhất và tự chủ về mọi mặt, từ kinh tế đến văn hóa, nhằm khẳng định nền độc lập dân tộc Đồng thời, ông cũng kêu gọi đoàn kết toàn dân tộc để đánh bại cuộc xâm lăng tàn bạo của giặc Nguyên - Mông, bảo vệ nền độc lập của đất nước.
Điều kiện kinh tế đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam từ thời kỳ dựng nước đến đầu thế kỷ XX, như được ghi nhận trong cuốn "Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam".
Sau thời kì hưng thịnh, từ khoảng giữa thế kỷ XII trở đi, triều đình nhà
Thời kỳ suy tàn của triều Lý chứng kiến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, với thiên tai, mất mùa, đói kém và dịch bệnh lan rộng Chính quyền Lý, từ trung ương đến địa phương, quản lý lỏng lẻo, tạo điều kiện cho các thế lực địa chủ phong kiến nổi dậy chống lại triều đình, dẫn đến tình trạng cát cứ phân quyền Trong bối cảnh đó, gia tộc Trần ở Hải Âp nổi bật với vai trò quân sự và đã được triều đình trọng dụng nhờ công dẹp loạn Qua thời gian, họ Trần khéo léo thao túng quyền lực, dần dần chuyển giao chính quyền từ dòng họ Lý sang dòng họ Trần một cách êm thấm, không gây xáo trộn xã hội.
Sau khi củng cố vương triều, nhà Trần đã chú trọng phát triển kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và công thương nghiệp, nhằm ổn định đời sống nhân dân Cơ sở kinh tế xã hội thời Lý - Trần chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất thông qua công xã nông thôn Nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhà Trần, với ruộng đất là tư liệu sản xuất chính, không chỉ tạo ra của cải cho xã hội mà còn hình thành cơ cấu giai cấp trong xã hội phong kiến.
Trong bối cảnh yêu cầu tăng cường sức mạnh quốc gia và ổn định xã hội, cả nhân dân và nhà nước đều chú trọng phát triển nông nghiệp Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa mà còn làm cho tiền tệ trở nên quan trọng hơn trong xã hội Ngoài ra, việc mua bán ruộng đất cũng ngày càng phổ biến, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của chế độ ruộng đất, đặc biệt là chế độ sở hữu nhà nước và tư nhân về ruộng đất dưới thời Trần.
Chế độ ruộng đất dưới thời Trần bao gồm hai hình thức sở hữu: nhà nước và tư nhân Ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được chia thành hai phần: ruộng đất do nhà nước quản lý trực tiếp và ruộng đất công do làng xã quản lý Quyền sở hữu nhà nước được thiết lập trên các công xã nông thôn, với vua nắm quyền sở hữu tối cao, trong khi các công xã có quyền chiếm dụng và phân phối ruộng đất cho thành viên Mối quan hệ sở hữu này phản ánh đặc trưng của chế độ phong kiến phương Đông, nhưng việc quản lý và phân phối ruộng đất công chưa thật sự công bằng, dẫn đến tình trạng không phải ai cũng được chia đều Chế độ sở hữu nhà nước thực chất là quyền sở hữu tối cao của nhà vua, với ruộng đất như tài sản riêng của hoàng gia, bao gồm quyền hưởng lợi từ hoa lợi và thu địa tô từ thần dân.
Bộ phận này bao gồm Sơn lăng, Tịch điền và Quốc khố Sơn lăng là đất phần mộ, ruộng thờ thường được đặt ở quê hương nhà vua, được giao cho nông dân địa phương cày cấy và nộp hoa lợi cho việc thờ phụng và sửa sang lăng, đền, với tổng diện tích rất nhỏ Tịch điền là loại đất riêng của cung đình, hoa lợi chủ yếu sung vào kho của vua để tế tự, chẩn cấp cho dân nghèo hoặc tiếp khách, cũng có diện tích nhỏ hẹp Mặc dù ruộng đất công danh nghĩa thuộc về vua, thực chất là công điền của làng xã, do công xã quản lý và phân phối cho các thành viên cày cấy; nông dân nộp tô thuế cho nhà nước Ruộng công làng xã dưới thời Trần đã trở thành cơ sở kinh tế quan trọng của nhà nước.
Nền kinh tế Đại Việt vào thời vua Trần Nhân Tông trải qua nhiều biến động lớn, đặc biệt sau hai cuộc chiến tranh khốc liệt từ năm 1285 đến 1288, gây ra nhiều tàn phá và mất mát cho nhân dân Theo Nguyên sử, quân Nguyên - Mông đã tàn phá kinh đô Thăng Long và nhiều vùng đất khác, dẫn đến cảnh tang thương Sau chiến tranh, thời tiết không thuận lợi khiến mùa màng thất bát, dẫn đến nạn đói lớn vào năm 1290 và 1291, với giá gạo tăng cao và nhiều người phải bán đất đai, thậm chí con cái làm nô tỳ Để đối phó với tình hình này, Trần Nhân Tông đã phát thóc cứu trợ dân nghèo và miễn thuế Dưới sự lãnh đạo của ông, nền kinh tế Đại Việt nhanh chóng phục hồi, đặc biệt là nông nghiệp phát triển mạnh mẽ với năng suất lúa tăng cao và thương mại nội địa cũng phát triển với nhiều chợ tại các làng xã.
Thương mại trong quá khứ đã phát triển mạnh mẽ, với việc xây dựng các ngôi nhà ba gian cách nhau 5 dặm và thiết lập chỗ họp chợ Việc thiếu nước dự trữ khiến người dân phụ thuộc vào thuyền bè đến buôn bán Không chỉ diễn ra trong nước, thương mại còn mở rộng ra các quốc gia khác, như tại Phủ Tỉnh Hoa (Thanh Hóa), nơi thuyền bè nước ngoài tụ hội và mở chợ ngay trên thuyền, tạo nên một cảnh buôn bán thịnh vượng.
Nhà Trần không chỉ phát triển nông nghiệp mà còn chú trọng xây dựng công trình thủy lợi, đặc biệt là hệ thống đê điều dọc sông Hồng và các sông ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Vào tháng 2 năm 1284, vua Trần Nhân Tông đã cho vét sông Tô Lịch để cải thiện giao thông và tưới tiêu cho vùng xung quanh kinh thành Nhờ các biện pháp kịp thời, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng phục hồi, diện tích canh tác được mở rộng và nhiều chính sách khuyến khích nông nghiệp được triển khai Các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của Đại Việt phát triển quanh hệ thống sông ngòi dày đặc, do đó việc bảo vệ mùa màng và an toàn cho nhân dân luôn được ưu tiên Nhà nước đã tổ chức đắp đê và thành lập cơ quan quản lý đê điều, như cơ quan Hà đê, để đảm bảo hiệu quả trong công tác trị thủy Những tiến bộ trong quản lý thủy lợi đã góp phần quan trọng vào việc phục hồi nền kinh tế Đại Việt cuối thời Lý và thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và thương nghiệp sau này.
Thủ công nghiệp trong thời kỳ nhà Trần phát triển mạnh mẽ nhờ vào sự thịnh vượng của nền kinh tế nông nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế công, thương nghiệp và thủ công nghiệp của nhà nước Các quan xưởng thủ công nhà nước sản xuất nhiều sản phẩm như binh khí, đồ trang sức, tiền tệ, chuông và xây dựng các công trình như đền, đài, cung điện Đồng thời, thủ công nghiệp nhân dân cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đặc trưng của nền kinh tế tiểu nông thời bấy giờ, với các nghề thủ công như dệt lụa, làm gốm và mỹ nghệ phát triển mạnh mẽ Thời kỳ này, thủ công nghiệp được chia thành hai bộ phận chính.
Nhà Trần đã phát triển thủ công nghiệp nhà nước thông qua việc thành lập các quan xưởng gọi là cục bách tác, chuyên sản xuất binh khí, đồ trang sức, đúc tiền, chuông, và xây dựng các công trình như đền đài, cung điện phục vụ cho nhà nước Những thợ giỏi từ các địa phương được tập trung tại các cục bách tác để đáp ứng nhu cầu của vua và hoàng tộc, trong khi các quan lại triều đình có cơ hội sản xuất hàng hóa để bán cho nhân dân.
Thủ công nghiệp nhân dân tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ với các nghề như dệt lụa, nung gạch ngói, làm đồ gốm, luyện kim và sản xuất đồ mỹ nghệ, tạo ra sản phẩm chất lượng cao Các làng nghề quanh Thăng Long và các thị trấn lớn chứng tỏ sự tiến bộ vượt bậc của thủ công nghiệp trong thời kỳ này Ở miền núi, việc khai thác khoáng sản ngày càng gia tăng, với nghề khai thác mỏ đồng, vàng, bạc cung cấp một lượng kim loại đáng kể cho nhà nước, phục vụ cho việc đúc tiền, chuông và tượng Tuy nhiên, phương pháp khai thác vẫn còn mang tính thủ công và phong kiến, chưa đạt được sự hiện đại hóa.
Trong thời kỳ này, nghề dệt lụa phát triển mạnh mẽ, trở thành một nghề truyền thống lâu đời và phổ biến trên toàn quốc Ngay cả trong cung vua cũng có các xưởng dệt lụa, với những cánh đồng dâu xanh tươi tốt trải dài khắp các làng quê Nhà nước đã thành lập cơ quan phụ trách kho lụa để thu mua sản phẩm từ nhân dân, đồng thời nghiêm trị những hành vi thu thêm thuế lụa, nhằm tạo điều kiện cho sự ổn định và phát triển của nghề thủ công truyền thống này.