Vì vậy, nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp cho mỗi chúng ta "trong sáng hơn", mà còn có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xây dựng những phẩm chất cần c
Trang 1ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TẠ THỊ MAI HUỆ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2010
Trang 2ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TẠ THỊ MAI HUỆ
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG CON NGƯỜI
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 602285
LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Đặng Thị Lan
Hà nội -11/2010
Trang 3MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI 15
1.1 Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh về con người 15
1.1.1 Bối cảnh thời đại 15
1.1.2 Nguồn gốc văn hóa - tư tưởng 17
1.1.3 Nhân tố chủ quan 24
1.2 Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam 28
1.2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người 28
1.2.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng con người 32
1.2.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cách mạng 36
1.2.4 Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa 42
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 51
2.1 Thực trạng con người Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra 51
2.1.1 Những điểm mạnh của con người Việt Nam hiện nay 51
2.1.2 Những hạn chế của con người Việt Nam hiện nay 59
2.1.3 Những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay 68
2.2 Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 72
2.2.1 Về đạo đức cách mạng 74
2.2.2 Về trí tuệ, năng lực 78
2.3 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng con người Việt Nam hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh 82
2.3.1 Xây dựng môi trường kinh tế - xã hội ngày càng tốt đẹp 82
2.3.2 Phải chú trọng đến phương pháp nêu gương, thống nhất giữa lời nói và việc làm, giữa lý luận và kết quả thực tế, phải tạo thành phong trào thi đua để xây dựng con người mới 89
2.3.3 Hướng mọi người tham gia tích cực vào các phong trào thi đua và lao động tập thể 90
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
Trang 4NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BCHTƯ : Ban chấp hành trung ương CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CTQG : Chính trị Quốc gia ĐHQG : Đại học Quốc gia KTTT : Kinh tế thị trường NXB : Nhà xuất bản XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Trang 5MỞ ĐẦU
1 Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa lớn của nhân loại Cuộc đời và sự nghiệp của Người là tấm gương cao cả cho dân tộc Việt Nam cũng như nhân loại tiến bộ trên thế giới Di sản tư tưởng mà Người để lại đã từng góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam Đó là một
hệ thống những quan điển toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại Nổi bật trong tư tưởng của Người là lòng yêu nước thương dân, yêu con người sâu sắc Suốt đời, Người phấn đầu, hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân Tư tưởng về con người là một trong những bộ phận quan trọng trong di sản lý luận của Người Trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng con người hiện nay, những tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị Nó gợi mở cho chúng ta nhìn nhận mục tiêu, phương pháp xây dựng con người trong bối cảnh hiện đại, khi con người Việt Nam được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng CNXH
Vì vậy, nghiên cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp cho mỗi chúng ta "trong sáng hơn", mà còn có ý nghĩa thiết thực trong công cuộc xây dựng những phẩm chất cần có của con người Việt Nam hiện nay, đây là nhân tố tiên quyết để có thể hướng tới mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
Nhận thức được điều này, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, khi xác định con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã khẳng định nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa là tập trung xây dựng con người và nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới Cương lĩnh của Đảng được thông qua Đại hội VII đã khẳng định: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội mà con người được giải phóng, nhân dân lao động làm chủ đất nước; có nền kinh tế phát triển cao và nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
Trang 6để phát triển toàn diện cá nhân; công bằng xã hội và dân chủ được đảm bảo Các nghị quyết Đại hội Đảng sau này càng làm rõ thêm quyết tâm đó
Trong giai đoạn hiện nay, thế giới chứng kiến những thay đổi mau lẹ của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong xu hướng toàn cầu hóa Điều kiện để tất cả các quốc gia phát triển là hội nhập quốc tế trên mọi phương diện đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa và chính trị Hội nhập quốc tế đem lại cho tất cả các quốc gia những cơ hội mới những đồng thời nó cũng tạo ra rất nhiều thách thức
Việt Nam hiện nay đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế Mục tiêu cơ bản của quá trình này là phấn đấu trong vòng 15-20 năm tới, xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp, kinh tế mạnh, tăng trưởng nhanh và bền vững; xây dựng con người Việt Nam hiện đại, mà trước hết là đội ngũ những người lao động có kỹ thuật, kỷ luật, có kỹ năng lao động thuần thục, cần phải nhanh chóng tạo ra một lực lượng tri thức đông về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra về sự phát triển xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và thông tin hóa như hiện nay, tầm quan trọng của nhân tố con người (phi kinh tế) đang gia tăng không ngừng và đã vượt lên cả những nhân tố kinh tế vì sự chi phối của chúng đối với phát triển mang tính vĩ mô
và dài lâu Chúng có thể làm thay đổi hoặc làm biến dạng, thậm chí làm phá sản các
kế hoạch dài hạn của chính phủ, một khi trong quá trình xây dựng chiến lược, chính phủ của các nước đã không nhận thức được đầy đủ sức mạnh của những yếu tố phi kinh tế đó
Hơn bao giờ hết, bối cảnh đó đặt lên vai các quốc gia, trong đó có Việt Nam của chúng ta, để giải quyết những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong bối cảnh mới chúng ta cần phát huy nhiều yếu tố, nguồn lực trong đó nhân tố con người là nhân tố quyết định Như vậy, nhiệm vụ vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay
là phải xây dựng con người có đạo đức cách mạng, có năng lực trí tuệ vừa đáp ứng yêu cầu của thời đại, vừa chuyển tải được những khát vọng và bản sắc văn hóa dân tộc Muốn có được những con người như vậy chúng ta cần xây dựng con người mới, muốn xây dựng chúng ta cần đề ra những mục tiêu và giải pháp cụ thể
Trang 7“Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển đúng hướng” [21; 42] Hồ Chí Minh đã dẫn đường cho dân tộc ta vượt qua những khó khăn thử thách, giành độc lập cho dân tộc, tự do của nhân dân, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, từng bước đem lại ấm no hạnh phúc cho đồng bào Tư tưởng của Người vẫn tiếp tục là ngọn đuốc soi đường để dân tộc ta vững bước trên con đường tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế Việt Nam Khi nước ta từng bước tiến hành CNH, HĐH, chủ động
mở cửa và hội nhập với khu vực và quốc tế thì hàng loạt thách thức đã nảy sinh xung quanh việc xử lý vấn đề con người, phát huy vai trò nhân tố con người Nói cách khác, hầu hết các vướng mắc trên đường phát triển, đều có nguyên nhân thuộc
về con người – con người Việt Nam sản phẩm tất nhiên và đặc thù của lịch sử Việt Nam Việc xây dựng con người mới là hết sức cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng phát triển, bảo vệ đất nước hiện tại và tương lai
Từ những yêu cầu về lý luận và thực tiễn đặt ra như vậy nên tôi quyết định
lựa chọn đề tài:"Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với
viêc xây dựng con người Việt Nam hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp của mình
2 Tình hình nghiên cứu đề tài
Hồ Chí Minh đã đi vào thế giới người hiền, nhân cách của Người được cả thế giới ngưỡng mộ Nghiên cứu di sản của Người không chỉ là sự tri ân với một con người đã có những đóng góp quan trọng trong lịch sử phát triển của con người, mà còn đáp ứng được yêu cầu có tính thời đại Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thu hút được sự quan tâm nghiên cứu không chỉ ở Việt Nam mà cả quốc tế Một trong những lĩnh vực được đặc biệt quan tâm là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Đây là một vấn đề rộng lớn và khó Nó rộng lớn do tính đa chiều của mối tương quan (với bản thân, với xã hội, với thiên nhiên), nó khó ở chỗ phải nắm bắt được cái cốt lõi của hệ giá trị nhân văn - hệ giá trị làm người, nhưng lại được Hồ Chí Minh diễn đạt thông qua những bài viết ngắn, những buổi nói chuyện, lối sống và mục tiêu lý
Trang 8tưởng của Người Nhưng dường như Người "hiểu" được cái khó của chúng ta, nên
có lần Người hé mở: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về con người nói riêng phải bắt đầu từ chiếc chìa khóa này
Như chúng ta đã biết, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện ở Việt Nam Chính vì thế, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam Tuy nhiên, hiện nay đất nước bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, bên cạnh những cơ hội chúng ta phải đối mặt với những thách thức mới Vậy Đảng ta phải làm gì để chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đúng hướng Điều tiên quyết để chúng ta thực hiện lộ trình đó chính là ở việc kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hiểu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991), lần đầu tiên ở nước ta đã có một Chương trình khoa học cấp Nhà nước (mã số KX.02) nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh Nhiều cuộc hội thảo khoa học về thân thế, sự nghiệp và tư tưởng của Người được tổ chức ở cấp
độ quốc gia và quốc tế Có thể nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người là vấn đề trọng tâm Hồ Chí Minh luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội và việc xây dựng con người, "trồng người" được Người coi là nhiệm vụ trung tâm và hàng đầu của cách mạng Việt Nam: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa"
Vấn đề xây dựng con người, phát huy nhân tố con người và phát triển con người toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí Minh được nhiều học giả quan tâm với nhiều công trình nghiên cứu có thể phân loại thành các mảng tư liệu cơ bản sau đây:
2.1 Chương trình khoa học cấp Nhà nước
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH 04.01 năm 2005: "Tư tưởng
Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa, xây dựng con người" do Giáo sư Đặng Xuân
Trang 9Kỳ chủ nhiệm, đã khái quát hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa (vị trí, chức năng của văn hóa) và nghiên cứu một cách hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về con người, xây dựng con người
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX 02-05:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con
người” do PGS PTS Lê Sĩ Thắng, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc
gia làm chủ nhiệm đề tài
Đề tài trên đã đi sâu nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con người
2.2 Các công trình dưới dạng sách chuyên khảo
+ "Con người Việt Nam truyền thống - Những giá trị đối với sự phát triển"
do Ths Đặng Vũ Cảnh Linh làm chủ nhiệm, Nxb Lao động, 2010
Cuốn sách đã trình bày được cơ sở hình thành những đặc điểm của con người Việt Nam truyền thống; những đặc trưng và giá trị của con người Việt Nam truyền thống và vấn đề kế thừa, phát huy giá trị truyền thống của con người Việt Nam vì
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
+ “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” do
Giáo sư Phạm Minh Hạc làm chủ biên, Nxb CTQG, Hà nội, 1996, là một bước tiến mới về lý luận và thực tiễn, “đặt viên gạch đầu tiên cho ngành khoa học về con người ở nước ta”
+ "Về phát triển văn hóa và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa " Giáo sư Phạm Minh Hạc chủ biên Nxb CTQG, Hà nội, 2003
Cuốn sách gồm 9 chương, tập trung trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với phát triển văn hóa và xây dựng con người; mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển trong thời kỳ mới; phát triển toàn diện con người và xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị mới, một số vấn đề về dân tộc và tôn giáo
+ "Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người phát triển toàn
diện", PGS TS Thành Duy, Nxb CTQG, Hà nội, 2002
Trang 10Trong cuốn sách này tác giả Thành Duy đã đề cập tới những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng con người phát triển toàn diện, phân tích khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò và ý nghĩa của giáo dục đối với việc đào tạo con người qua đó khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng con người mới XHCN đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt là trong việc xây dựng con người mới đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đây mạnh CNH, HĐH ở Việt Nam
+ "Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn" của PGS.TS
Phạm Ngọc Anh, Nxb CTQG, Hà nội, 2009
Trong công trình này tác giả đã đi sâu phân tích tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề như vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, về vai trò của đạo đức cách mạng và vai trò của trí tuệ con người công cuộc đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay
+ Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc giáo dục cán bộ đảng viên hiện nay
của Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2004
Cuốn sách đã đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về cơ sở hình thành, đặc điểm, vị trí và những nội dung cơ bản của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh Từ
đó khẳng định giá trị và sức sống bền vững của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ cách mạng đời sau
+ “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” Của GS.VS Phạm Minh Hạc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001
Cuốn sách là công trình nghiên cứu tâm huyết và công phu về con người của tác giả suốt 10 năm Nội dung cuốn sách tập trung trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của ngành khoa học xã hội nghiên cứu con người trên thế giới và ở Việt Nam; một số kết quả bước đầu trong chương trình nghiên cứu con người và nguồn nhân lực; một số đề xuất, kiến nghị về chiến lược, chính sách nhằm phát triển toàn diện con người và nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Trang 11Cuốn sách này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn không chỉ là tài liệu tham khảo đối với người đọc, còn có giá trị với các nhà hoạch định chiến lược, các nhà khoa học và quản lý công tác giáo dục, đào tạo; khoa học, công nghệ
+ “Con người và phát triển con người” của PGS.TS Hồ Sĩ Quý (giáo trình
của khoa học Triết học thuộc Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia), Nhà xuất bản Giáo dục, 2007 Nội dung giáo trình được chia làm ba phần:
Phần thứ nhất, là một số vấn đề lý luận về con người và phát triển con
người Trong phần này, tác giả làm rõ những vấn đề cụ thể như khoa học về con người, con người và phát triển con người trong quan niệm của chủ nghĩa Mác, nghiên cứu con người trước nhu cầu của sự phát triển
Phần thứ hai, là một số vấn đề phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu con người Trong phần này, tác giả giải quyết các vấn đề như con người là trung tâm theo quan điểm của UNDP (Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về phát triển con người); trình bày những hướng chủ yếu trong nghiên cứu con người
Phần thứ ba, là xây con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH Tác
giả đã chỉ ra sự cần thiết xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước và nêu lên một số vấn đề thực tiễn trong phát triển con người
Cuốn sách được coi là giáo trình chính giúp cho sinh viên, học viên cao học
và nghiên cứu sinh chuyên ngành triết học nghiên cứu chuyên sâu về con người và phát triển con người một cách hệ thống với những tri thức mới nhất của thế giới
2.3 Các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ
- Lê Quang Hoan (2001), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc phát huy nhân tố con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sỹ triết học
Luận án trình bày một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về con người để
từ đó vận dụng vào việc phát huy nhân tố con người trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước
Trang 12- Nguyễn Thị Thủy (2009), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vận dụng
vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Luận văn
thạc sỹ triết học
Luận văn trình bày những quan niệm cơ bản của Hồ Chí Minh về con người
và việc vận dụng nó vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
- Trịnh Thanh Mai (2009): Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa
thế giới vào xây dựng nền văn hóa dân tộc và vận dụng tư tưởng đó trong phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay - Luận văn thạc sỹ triết học, ĐHQG Hà Nội
Luận văn trình bày những tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng những quan điểm đó vào việc phát triển nền văn hóa nước ta hiện nay
- Lê Thị Hải Hà (2010): Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương
pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay – Luận văn
thạc sỹ khoa học chính trị Học viện chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh
Luận văn trình bày những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phương pháp xây dựng con người từ đó vận dụng vào việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện hiện nay
2.4 Các bài nghiên cứu đăng trên các Tạp chí chuyên ngành
- Vũ Khiêu: "Trồng cây và trồng người", Tạp chí triết học, số 4/ 1990
- Nguyễn Tuấn Dũng: "Hồ Chí Minh về chiến lược con người trong cách
mạng Việt Nam", Tạp chí Xây dựng Đảng, 5/2000
- Phạm Bá Lượng: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về lấy dân làm gốc", Tạp chí
Triết học, số 2/ 2005
- Nguyễn Huy Quý: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết cần có con
người xã hội chủ nghĩa", Tạp chí nghiên cứu về con người, 1/ 2002
- Nguyễn Văn Tài: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân
tố con người", Tạp chí Triết học, 2/ 2004 và “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin” / Nghiên cứu luận, 1994, số 4
Trang 13- PGS.TS Hồ Sĩ Quý và TS Nguyễn Anh Tuấn “Sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người là tiêu chuẩn tối cao của tiến bộ xã hội” Bài viết đã phân tích và làm sáng tỏ nhiều quan niệm của Mác –
Ăngghen xung quanh vấn đề con người và phát triển con người
Qua các công trình trên, các tác giả đã đi sâu phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề như vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, về vai trò của đạo đức cách mạng và vai trò của trí tuệ con người đối với công cuộc đổi mới và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước ở nước ta hiện nay
Xây dựng con người Việt Nam hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức thiết, tuy nhiên, những công trình nghiên cứu theo hướng này mà chúng tôi được biết do yêu cầu của mỗi công trình mà các tác giả chưa có điều kiện tiếp cận một cách có hệ thống về mảng đề tài này Vì vậy, trên cơ sở kế
thừa những thành quả của những người đi trước tôi quyết định lựa chọn vấn đề "Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Trên cơ sở phân tích nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người, thông qua việc nhận thức thực trạng và yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh Để đạt được mục tiêu đó tác giả cần giải quyết những nhiệm
vụ sau:
Nhiệm vụ:
- Phân tích và luận giải những quan điểm của Hồ Chí Minh về con người;
- Đánh giá thực trạng con người Việt Nam hiện nay và những yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng con người Việt Nam;
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh quá trình xây dựng con người Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
Trang 144 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng Hồ Chí Minh về con người với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay; thực trạng xây dựng con người Việt Nam trong quá trình đổi mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và việc vận dụng nó là vấn đề rộng lớn
và rất khó, vậy nên, trong phạm vi của luận văn này, tôi chỉ có thể tập trung tìm hiểu những quan niệm cốt lõi nhất và có ảnh hưởng nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đối với việc xây dựng con người Việt Nam hiện nay
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Phương pháp nghiên cứu: Vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử như: như lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, trừu tượng hóa và khái quát hóa, so sánh…v.v
6 Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần vào thực tiễn xây dựng và phát triển con người trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người
8 Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương 5 tiết
Trang 15đó Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và xây dựng con người là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và gắn bó hữu cơ với các tư tưởng của Người về cách mạng giải phóng dân tộc, về Nhà nước, về dân chủ, văn hóa, giáo dục v.v Vì vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người cũng không nằm ngoài việc khảo sát nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung
1.1.1 Bối cảnh thời đại
Con người được giải phóng, được sống trong độc lập, tự do, được ấm no, hạnh phúc là mục tiêu thấu suốt và nhất quán trong tư tưởng của Hồ Chí Minh Bối cảnh của thời đại, nền tảng về văn hóa - tư tưởng cùng với nhân cách Hồ Chí Minh
là những yếu tố đã làm nảy sinh những tư tưởng nhân văn vĩ đại, song cũng rất thực tiễn của Người
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển nhanh
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (giai đoạn đế quốc chủ nghĩa) Nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường
Đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cuộc chiến tranh xâm lược các quốc gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc
Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công Cách mạng tháng Mười
đã nêu tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã "mở ra trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc" Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải
Trang 16phóng dân tộc ở các nước thuộc địa phương Đông có quan hệ mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc
Tháng 3/1919 Quốc tế cộng sản được thành lập, tại Đại hội II của QTCS (1920), “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của VI.Lênin được công bố Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức, với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời Quốc tế cộng sản, nhiều Đảng cộng sản trên thế giới được thành lập Tình hình thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam
Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương Tây từ năm
1858 thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm Việt Nam Sau khi đánh chiếm được nước ta, thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân và tiến hành những cuộc khai thác nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa
Trong lòng chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam đã thành những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp
và tay sai phản động Sự thống trị và áp bức ngày càng tăng đã làm cho mâu thuẫn đó ngày càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc ngày càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng phong kiến và dân chủ tư sản đều lần lượt nổi lên như phong trào Cần Vương, Đông Du, Duy Tân v.v Tuy nhiên do hạn chế lịch sử các phong trào yêu nước đều thất bại Mặc dù không thành công nhưng các phong trào đó đã thức tỉnh, cổ vũ truyền thống yêu nước, chí căm thù giặc Pháp của nhân dân ta, đã gây tiếng vang trên thế giới và thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam tiếp tục đi lên
Hồ Chí Minh sinh ra và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, chứng kiến những thay đổi lớn lao của thời cuộc, lắng nghe những tiếng rên siết khổ đau của đồng bào dưới gót giầy của quân xâm lược Tất cả những điều đó
đã hun đúc lên trong lòng Nguyễn Ái Quốc một tình yêu quê hương đất nước rất sâu sắc, một ý thức muốn tìm con đường giải phóng dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào của mình được Người ấp ủ từ ngày đó
Trang 171.1.2 Nguồn gốc văn hóa - tư tưởng
Việt Nam với đặc điểm vị trí địa lý thuận lợi, ở giữa đầu mối của sự giao lưu văn hóa: Bắc - Nam và Đông Tây nên đã sớm có truyền thống giao lưu và tiếp xúc văn hóa với các dân tộc khác Có thể nói, đây là cơ sở thực tiễn đầu tiên để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại Do điều kiện lịch sử mà sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa là sự giao lưu, tiếp biến rất dài trong nhiều thời kỳ của lịch sử Việt Nam Bên cạnh việc giao lưu và tiếp biến với văn hóa Trung Hoa, văn hóa Việt Nam còn giao lưu tiếp biến với văn hóa Ấn Độ mà nổi bật hơn là sự tiếp nhận các tôn giáo Ấn Độ của người Việt là đạo Phật và đạo Bàlamôn Người Việt đã dễ dàng thích ứng và tiếp biến đạo Phật một cách dung dị vào cơ tầng văn hóa bản địa, bởi Phật giáo vốn có tinh thần bình đẳng và bác ái, không phân biệt đẳng cấp
Ngoài ra, văn hóa Việt Nam còn có sự giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây Sự giao lưu và tiếp xúc này bắt đầu từ thế kỷ XVI thông qua con đường truyền giáo của các linh mục phương Tây và nó thực sự diễn ra mạnh mẽ khi thực dân Pháp xâm lược và đặt ách cai trị lên đất nước ta
Trên cơ sở giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến nhiều cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình
Hồ Chí Minh sinh ra trong một bối cảnh sự giao lưu và tiếp xúc giữa văn hóa Việt Nam với các nước khác trên thế giới diễn ra hết sức mạnh mẽ Bản thân Hồ Chí Minh cũng được thừa hưởng những thành quả của cuộc tiếp xúc, giao lưu đó
đem lại Trong tư tưởng của Người, ta thấy có sự kết hợp hài hòa giữa nét sâu sắc
của phương Đông với tính chất khoa học, duy lý, hiện đại của phương Tây
Văn hóa phương Đông
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, ngay từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã hấp thụ một nền Hán học và Quốc học khá vững vàng Người tiếp thu tư tưởng Nho giáo từ rất sớm Triết lý và đạo đức Khổng Mạnh qua các sách kinh điển của Nho giáo đã giúp Người thấm nhuần tinh thần "nhân nghĩa", đạo "tu thân" sự ham học
Trang 18hỏi, đức khiêm tốn, "ôn hòa", cách xử thế có tình có lý Tuy nhiên, "ta bắt gặp trong thực tế một thứ Nho giáo không thuần nhất đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm dương, Phật Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương nên khi tác động đến từng mặt của đời sống ở Việt Nam thì sắc thái Nho giáo của nó không nguyên vẹn mà đậm nhạt khác nhau" [94; 84]
Những tác động cơ bản của Nho giáo đến tư tưởng Hồ Chí Minh là:
Thứ nhất, đó là tinh thần "tu thân" trong lôgic tu thân - tề gia - trị quốc bình
"muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa" và
"vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người" Đối với Hồ Chí Minh, tu dưỡng đạo đức
cá nhân là sự kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp biến cả giá trị Nho giáo Trung Hoa với tính cách là gốc của đạo làm người, đạo đức Hồ Chí Minh quan tâm xây dựng chủ yếu ở những giá trị nền tảng của nó làm luân lý như "trung hiếu", "tình nghĩa", "nhân nghĩa", "Tứ hải giai huynh đệ", "dân vi quí, xa tắc thứ chi, quân vi khinh", tôn trọng phụ nữ v.v và mọi hoạt động thực tiễn đều xuất phát và hướng vào mục đích làm người "Hồ Chí Minh đã tiếp thu khá nhiều những
ý kiến của Khổng Mạnh về đạo đức, nhưng đối với đạo đức Khổng Mạnh, Hồ Chí Minh lại có nhiều điểm khác nhau về căn bản" [39 ; 99]
Thứ hai, đó là ý thức kết hợp đạo đức với chính trị GS Nguyễn Đình Chú
trong bài viết: “Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với Nho giáo” có viết: "Theo tôi
hiểu, Nho giáo trong phần chân chính và cũng là cái cốt lõi nhất của nó là một học
Trang 19thuyết đạo đức trước khi là một học thuyết chính trị và về chính trị thì Nho giáo cũng là một học thuyết muốn đặt đức trị lên hàng đầu chứ không phải là một học thuyết chính trị đơn thuần Đọc kỹ Khổng - Mạnh ta thấy rõ điều đó Tìm hiểu sâu vào phong cách chính trị của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ta cũng thấy điều đó" [39 ; 88-89]
Khi tiếp thu, sử dụng những yếu tố tích cực của học thuyết Nho giáo, Hồ Chí Minh đã nhận ra những yếu tố thủ cựu, tiêu cực của học thuyết này Hồ Chí Minh chỉ
rõ những hạn chế thể hiện lập trường giai cấp của Khổng Tử, nhưng do điều kiện lịch
sử quy định và Khổng Tử không thể vượt qua thời đại của mình Vì vậy, những hạn chế mang tính khách quan đó khi tiếp nhận chúng ta cần biết chọn lọc, loại bỏ nó cho phù hợp vì "người ta không thể nhảy qua thời đại của mình như nhảy qua cửa sổ được" (Phơ bach) Trên lập trường duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị nền tảng tốt đẹp của Nho giáo, đồng thời cũng loại bỏ đi những yếu tố tiêu cực của nó để đi đến khẳng định: "Đạo đức cũ và đạo đức mới khác nhau nhiều, Đạo đức cũ như đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời" [8; 320-321]
Thật vậy, "Hồ Chí Minh đã từ trên cơ sở học thuyết cộng sản mà phát huy truyền thống Nho gia, do có những tri thức Nho giáo uyên thâm nên Bác càng tinh thông học thuyết cộng sản" [80; 7]
Ngoài tiếp thu những tư tưởng về con người như: tư tưởng lấy dân làm gốc,
tư tưởng tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, tư tưởng giáo dục, làm gương…của Nho giáo, Hồ Chí Minh còn tiếp thu những tư tưởng biện chứng phương Đông chẳng hạn như: luật quân bình, phản phục v.v của Đạo giáo Những tư tưởng nhân đạo của Phật giáo đó là: Từ bi, hỉ xả, bình đẳng, cứu khổ, cứu nạn, những tư tưởng này đã có ý nghĩa tích cực trong việc khuyên con người tu nhân tích đức, tránh cái
ác, trau dồi cái thiện
Như vậy, nền văn hóa phương Đông chú ý nhiều đến vấn đề nhận thức luận hơn vấn đề bản thể luận, đi sâu vào việc nhận thức con người và các giá trị làm người, chú ý đến các điều kiện cho sự phát triển toàn diện của con người, con người
Trang 20sống hòa mình với tự nhiên… Tất cả những tư tưởng của nền minh triết phương Đông đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh và nó được coi là một trong những nguồn gốc cơ bản trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
Văn hóa phương Tây
Hồ Chí Minh đã đi sâu tìm hiểu lịch sử phát triển của phương Tây về mọi mặt, nhất là tư tưởng về giải phóng con người Bởi, ngay từ khi còn nhỏ, những tư tưởng về tự do, dân quyền, dân ước, dân chủ, bác ái có sức hấp dẫn đặc biệt với Người Người nhớ lại: "Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên nghe tới ba chữ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm hiểu những gì ẩn sau những chữ ấy" [56; 477]
Bắt đầu từ năm 1905, Hồ Chí Minh vào trường tiểu học bản xứ Pháp - Việt; đây là trường tiểu học do thực dân Pháp mở để dạy tiếng Pháp và chữ quốc ngữ với mục đích đào tạo những "công chức bản xứ" phục vụ lợi ích cho chúng Chính từ môi trường này, lần đầu tiên Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với văn hóa phương Tây, cho dù mới chỉ là sự tiếp xúc, tìm hiểu những giá trị cơ bản nhưng đó lại là cơ
sở để sau này Hồ Chí Minh tiếp tục tìm hiểu, khám phá và tiếp thu trong quá trình
đi tìm đường cứu nước sau này
Từ ngày 5/6/1911, Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc Cuộc hành trình trong nhiều năm, qua năm châu bốn biển, đặt chân tới những nước Âu, Phi, Mỹ, là một trường học lớn để Hồ Chí Minh tìm hiểu, nhận xét, đánh giá và học tập Đó cũng là một quá trình chọn lọc, tiếp nhận tinh hoa văn hóa phương Tây, trước hết là lý tưởng cách mạng dân chủ tự do, tiến bộ với một tầm nhìn và tấm lòng rộng mở Kinh nghiệm thực tiễn và vốn sống trực tiếp trải nghiệm
mà Người có được trong 30 năm ở nước ngoài, đi qua hơn 40 nước khác nhau chủ yếu ở những trung tâm Châu Âu, Nguyễn Ái Quốc có đủ thời gian và điều kiện để tiếp nhận những gì cần cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc mình và của các dân tộc cùng cảnh ngộ Do tiếp xúc với nhiều hạng người, nhất là những người lao động nghèo khổ đã cho Nguyễn Ái Quốc thấu hiểu cuộc đời và thấu cảm những cảnh ngộ, những số phận con người khác nhau trên thế giới Nhờ thế mà trong tư tưởng của Người luôn chứa đựng và thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc và vô cùng tinh tế
Trang 21Người đã tiếp thu những tư tưởng lớn ở phương Tây để từ đó nhìn lại những thành tựu của văn hóa phương Đông Trong khi nhiều học giả phương Đông nêu cao tinh thần từ bi của nhà Phật và chữ Nhân của Khổng Tử, từ đó đi đến kết luận rằng phương Tây chỉ trọng trí, còn phương Đông thì trọng tình Khác với những quan niệm phiến diện đã có trước đó Hồ Chí Minh cho rằng cả phương Đông và phương Tây đều trọng cả trí, cả tình Nhưng Hồ Chí Minh cũng phê phán mặt hạn chế của tư tưởng phương Tây về văn hóa và con người, về sự phản bội của chủ nghĩa tư bản độc quyền, của chủ nghĩa đế quốc thực dân đối với lý tưởng của cách mạng tư sản Người nhận thấy những tư tưởng "tự do", "bình đẳng" "bác ái" trong cách mạng tư sản Pháp (1789) và tư tưởng quyền của nhân dân kiểm soát chính phủ trong tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776) mang tính hạn chế lịch sử của những cuộc "cách mạng không đến nơi, không triệt để, trong thì tước lục công nông, ngoài thì áp bức thuộc địa" cho nên những tư tưởng tốt đẹp ấy chỉ dừng lại ở khẩu hiệu
Đồng thời, trong thời gian sống dài ngày ở châu Âu đã để lại cho Người nhiều ấn tượng và bài học sâu sắc trên hành trình tìm đường cứu nước
Chủ nghĩa nhân văn, tư tưởng tự do - bình đẳng - bác ái trong các tác phẩm của thời Phục hưng của thế kỷ Ánh sáng, của các nhà văn nổi tiếng như Vônte, Điđrô, Môngtétxkiơ, J.Rútxơ và những tư tưởng mới mẻ của Đại cách mạng tư sản Pháp năm 1789 đã đem lại cho Nguyễn Ái Quốc những kiến thức bổ ích Người đã kế thừa những tư tưởng này, tôn trọng con người, nâng niu các giá trị làm người đề cao dân chủ "Cụ Hồ không phải là người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi mà Cụ là một người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp, một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước của Cụ" [81; 115]
Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, cơ sở lý luận quan trọng nhất hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh Chủ nghĩa Mác - Lênin là "học thuyết cách mệnh nhất, chắc chắn nhất, chân chính nhất" Ở chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh nhận thấy ưu điểm nổi bật là "phương pháp làm việc biện chứng", giá trị nhân đạo sâu sắc là "giải phóng con người"
Trang 22Người thấy rằng: Học thuyết mác xít về con người bao gồm nhiều nội dung, song điểm nổi bật nhất là vấn đề giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người Mác - Ănggen đã đưa ra hai quan niệm có tính chất điều kiện cho
sự giải phóng con người trong "Hệ tư tưởng Đức" (1845 - 1846) như sau:
Một là, khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội Do đó, giải phóng
con người bắt đầu từ giải phóng các điều kiện của tồn tại xã hội qua đó giải phóng tinh thần, tư tưởng con người đang hành động hiện thực và cũng chính là xuất phát
từ quá trình đời sống hiện thực của họ [75; 277]
Hai là, Mác và Ănggen đã phân tích mối quan hệ giữa phân công lao động
với chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, làm xuất hiện các mâu thuẫn xã hội Quá trình xuất hiện các hình thức sở hữu tư nhân khác tương ứng với sự phân công lao động và sự phát triển của nền sản xuất cho thấy mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là nguyên nhân xét đến cùng quyết định mâu thuẫn xã hội Giải phóng con người trong xã hội tư bản chính là giải phóng giai cấp
công nhân, tư tưởng này được khẳng định trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết
học" (1846 - 1847) Mác viết "điều kiện giải phóng của giai cấp lao động, đó là xoá
bỏ mọi giai cấp" [75; 410]
Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau" [56; 467]
Chủ nghĩa xã hội khoa học về thực chất là một học thuyết về giải phóng con người, là giải phóng giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Mác - Ăngghen đã chỉ rõ sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với các trào lưu xã hội chủ nghĩa khác là ở chỗ: Nó đặt lên hàng đầu việc xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và phương thức thực hiện nó
là bằng bạo lực cách mạng
Trang 23Cơ sở lý luận tư tưởng đó, theo Mác - Ăngghen, chính là việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư của Mác, nhờ đó chủ nghĩa
xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, giải phóng con người trong xã hội hiện đại được đặt trên cơ sở của sự giải phóng giai cấp Việc giải phóng tất cả các giai cấp trong xã hội hiện đại được quy vào giải phóng giai cấp vô sản, vì giai cấp vô sản là biểu hiện tập trung những mâu thuẫn thời đại Giai cấp vô sản chỉ có thể được giải phóng khi nó giải phóng toàn thể nhân loại
Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin được coi là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân, chỉ ra con đường và cách thức để họ có thể tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động trên thế giới
Sự gặp gỡ của Nguyễn Ái Quốc với chủ nghĩa Lênin là một cuộc gặp lịch sử
tháng 7 năm 1920, trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc được đọc tác phẩm: "Sơ thảo lần
thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" của Lênin, đăng
trên báo Nhân đạo (L'Humanité) của Đảng Xã hội Pháp Chủ tịch Hồ Chí Minh hồi tưởng: "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao Tôi vui mừng đến phát khóc lên" Ngồi một mình mà Người đã nói
to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta" Con đường giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ, áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản thực dân Pháp và chế độ phong kiến - đó là con đường cách mạng vô sản Tại Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp cuối năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên
Từ một người yêu nước trở thành người cộng sản là kết quả của sự tác động biện chứng giữa mối quan hệ cá nhân với dân tộc và thời đại trong con người Hồ Chí Minh Nhờ phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã hấp thụ những yếu tố tích cực, kết hợp chặt chẽ những yếu tố ấy để chuyển hoá và tạo nên tư tưởng của mình Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc lập,
tự do và xây dựng xã hội mới Và có thể nói "Hồ Chí Minh tiếp biến tinh hoa văn
Trang 24hóa Phương Đông - Phương Tây trên cơ sở triết học Mục tiêu hoạt động và lập trường duy vật biện chứng" [1; 51] để nhằm giải quyết những vấn đề cơ bản cho cách mạng Việt Nam
1.1.3 Nhân tố chủ quan
Có thể nói rằng khi nhắc đến những nguồn gốc hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta không thể bỏ qua nhân tố chủ quan đó là nhân cách Hồ Chí Minh Một nhân tố vô cùng quan trọng góp phần tạo nên những giá trị khác biệt trong tư tưởng Hồ Chí Minh với những hệ thống tư tưởng khác trong lịch sử Những di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ sống mãi với thời gian, với cuộc đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, cho quyền được sống và được hưởng tự do hạnh phúc của các dân tộc, của mỗi con người Sự nghiệp của Người, ham muốn tột bậc của Người là dành trọn cuộc đời mình cho dân, cho nước, cho cách mạng Đó là sự nghiệp của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, vĩ đại và cao thượng
Hồ Chí Minh là một con người có một trí tuệ uyên bác và có một cái nhìn biện chứng, sáng tạo, là một vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam
"Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn với trí tuệ sâu sắc, uyên bác, với tư tuy độc lập sáng tạo mà những học giả tiêu biểu trên thế giới cũng phải ngạc nhiên với vốn sống kinh nghiệm phong phú mà Người đã trực tiếp nếm trải trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng trên sáu thập kỷ" [7; 72-173]
Khi chứng kiến những thất bại của các phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thầy giáo Nguyễn Tất Thành nhận ra rằng muốn đánh đuổi được kẻ thù thì trước tiên phải hiểu được kẻ thù Chính vì thế, Người rất muốn sang Pháp để xem đằng sau những chữ "tự do, bình đẳng, bác ái" là cái gì, đó có phải là một nền dân chủ thực sự không hay chỉ là một nền dân chủ giả hiệu Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc cũng nhận thấy không thể ảo tưởng vào cái gọi là "khai hóa văn minh" của chính quyền thực dân, cùng những chính sách của nó ở thuộc địa Trong một lần nói chuyện với nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Nguyễn Ái Quốc nói: "Nếu Bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ thực dân để cải thiện mọi tình trạng hiện nay, thì Bác sẽ phải đợi đến muôn đời" [94; 23]
Trang 25"Nêru (Ấn Độ) và Tôn Dật Tiên (Trung Quốc) đã từng tiếp cận với tư tưởng của Lênin và cách mạng tháng Mười Nga Nêru khi tiếp cận tư tưởng mácxít thấy
nó phù hợp với tình hình hiện tại của tri thức khoa học và thấy sự phân tích của Mác
về phát triển xã hội là đúng đắn Tuy nhiên, các ông chỉ nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin như một tri thức mới, có tính chất học thuật thuần túy" [94; 23] Sau này, khi
đã tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã trở thành người phương Đông đầu tiên áp dụng chủ nghĩa Mác để giải phóng xã hội Muốn giải phóng xã hội phải
có đấu tranh giai cấp - tư tưởng này của Lênin được Hồ Chí Minh tiếp thu một cách sáng tạo, khác với một số nhà yêu nước phương Đông giải phóng xã hội bằng con đường đạo đức - tôn giáo
Hồ Chí Minh luôn đặc biệt nhấn mạnh vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin quết định đến những thành công của cách mạng Việt Nam
Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng công nông làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất Nói tóm lại là theo chủ nghĩa
Mã Khắc Tư và Lênin" [42; 4] Mặc dù luôn khẳng định vai trò của cách mạng Nga
và chủ nghĩa Mác với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở chúng ta rằng chủ nghĩa Mác được ra đời trên cơ sở của xã hội phương Tây, mà phương Tây
có nghĩa đó không phải là toàn thế giới Chính vì thế khi vận dụng học thuyết này chúng ta cần phải tính đến những khác biệt về văn hóa, địa lý, kinh tế, lịch sử của các quốc gia châu Á mà cụ thể là Việt Nam để vận dụng cho phù hợp
Nét đắc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh khác với Lênin ở chỗ: Nếu Lênin đặt vấn đề giai cấp trong phạm vi toàn cầu thì Hồ Chí Minh đặt vấn đề giai cấp trong vấn đề dân tộc Hồ Chí Minh đem tinh hoa giai cấp ở những nước công nghiệp phát triển để giải quyết vấn đề dân tộc của nước mình Chính vì thế mà Hồ Chí Minh đã thành công trong việc giải quyết vấn đề dân tộc cũng như vấn đề giai cấp trong một quốc gia nghèo nàn lạc hậu Hồ Chí Minh nhận thức vấn đề thời đại
là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà hạt nhân hợp lý của nó là dân tộc gắn với giai cấp Sự tác động qua lại giữa thời đại - dân tộc - giai cấp là vấn đề mà
Hồ Chí Minh không bao giờ bóc tách ra
Trang 26Hoặc khi nói về thời cơ cách mạng của các dân tộc thuộc địa và mối quan hệ của nó với cách mạng ở chính quốc, Lênin nói rằng: Cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc và chỉ có thể nổ ra đấu tranh giành chính quyền thắng lợi khi cách mạng ở chính quốc đã nổ ra và giành thắng lợi Nhưng khi vận dụng vào Việt Nam Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lại cho rằng: Cách mạng thuộc địa không lệ thuộc hoàn toàn vào cuộc cách mạng ở chính quốc, khi thời cơ đến cách mạng ở thuộc địa vẫn có thể nổ ra trước và giành thắng lợi trước cuộc cách mạng ở chính quốc Sau này chính thành công của cách mạng Tháng Tám là một ví
dụ điển hình về luận điểm sáng tạo đó của Hồ Chí Minh
Vì vậy, Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn" [54; 22]
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ mọi học thuyết tư tưởng
ra đời, một mặt, là sự kế thừa những tưởng học thuyết trước đó, mặt khác là sự phản ánh quy luật vận động của hiện thực, đồng thời là kết quả hoạt động nhận thức, sáng tạo của một con người gắn với phẩm chất, nhân cách cá nhân, phản ánh ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc trong một thời đại nhất định Hồ Chí Minh đã phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn ở Việt Nam Chính vì là một người năng động biết chắt lọc những giá trị tinh túy của của văn hóa Đông - Tây nên Hồ Chí Minh là một con người hiện thân của quốc tế nhưng lại rất Việt Nam
Hồ Chí Minh là một con người luôn dành tất cả tình yêu thương bao la của mình cho con người, cho dân tộc và cho nhân loại
"Cái tạo nên con người Hồ Chí Minh vĩ đại không chỉ ở tư duy lý luận sáng tạo, ở những quyết định chiến lược thiên tài, ở những hoạt động tổ chức kiên trì biền bỉ rất có hiệu quả, mà còn ở đạo đức, phong cách hoạt động của con người mới Toàn bộ cuộc đời của Người toát lên chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, chủ nghĩa cộng sản" [3; 90-91]
Đó là tình cảm yêu nước, thương dân rất mực sâu sắc Người đã từng nói
"Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi" cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
Trang 27giai cấp và giải phóng con người Đối với tất cả mọi tầng lớp, Người đều dành một
tình cảm vô cùng trìu mến với đồng bào của mình, trước khi mất lời cuối trong Di
chúc Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn
Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng." [67; 500]
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ dành tình cảm cho nhân dân Việt Nam
mà tình yêu của Người vượt qua mọi rào cản của biên giới của màu da, sắc tộc Trên bước đường đi tìm chân lý, Hồ Chí Minh đã sống, hoạt động cách mạng và chứng kiến vô vàn những cảnh đau thương, bần cùng của những "kiếp người cần lao lao bị đọa đầy đau khổ", dù ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, Người cũng luôn dành cho
họ những sự cảm thông sâu sắc nhất
Khi ở cạnh Hồ Chí Minh ta thấy "Chủ tịch Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không gây choáng ngợp, mới gặp lần đầu mà như đã thân thuộc từ lâu" (Phạm Văn Đồng) Tất cả chúng ta đều nhận thấy "Hồ Chủ tịch là hiện thân của dân tộc Việt Nam và mọi người Việt Nam đều thấy mình trong Hồ Chủ tịch" [8; 84]
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng kiên trung với lý tưởng cộng sản và là người có nghị lực phi thường trên con đường đi tìm lời giải cho nền hòa bình và hạnh phúc của nhân loại
Đó là một con người luôn trung thành và giữ vững chủ nghĩa cộng sản trên nguyên tắc "dĩ bất biến ứng vạn biến", không dao động, không khuất phục trước kẻ thù, trước khó khăn thử thách của sự nghiệp giải phóng đồng bào mình Đó là một tấm gương đạo đức "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, là con người mà "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, quyền lực không thể khuất phục" Ở Hồ Chí Minh, chúng ta tìm thấy một nhân cách cao đẹp, một lối sống giản dị, một tâm hồn thanh cao và nhân hậu Người tiêu biểu nhất cho đạo đức cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam và kết tinh những đức tính tốt đẹp nhất của dân tộc ta Người đã phát huy đạo đức truyền thống phương Đông là nhân, trí, dũng trên một cơ
sở hoàn toàn mới
Trang 281.2 Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam
1.2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người
Nhìn lại lịch sử triết học, có thể thấy rằng sau Xôcrát, vấn đề con người dường như bị lãng quên, mãi đến khi Imanuen Cantơ xuất hiện thì vấn đề con người mới được quay trở lại bàn một cách sâu sắc hơn, con người được coi là mục đích cao nhất của triết học: Triết học vì con người Đến cuối những năm 40 thế kỷ XIX, khi triết học Mác ra đời, người ta bắt gặp hàng loạt những phạm trù như :"giá trị thặng dư", "nhà tư bản", "xã hội tư bản", "bóc lột", "đấu tranh giai cấp", "công nhân" và dù Mác khẳng định rằng: "Các nhà triết học đã giải thích thế giới bằng nhiều cách khác nhau song vấn đề là cải tạo thế giới", rất nhiều người nhận xét rằng triết học Mác chỉ chú ý vào vấn đề kinh tế và bỏ sót vấn đề con người Mặc dù phải thừa nhận rằng không có một tác phẩm nào chuyên nghiên cứu về con người nhưng triết học của Mác có mục tiêu cao nhất lại là giải phóng con người Tiếp thu những
tư tưởng về con người trong lịch sử triết học, Mác - Ăngghen đã dần hoàn chỉnh những vấn đề lý luận hết sức cơ bản, đặt cơ sở vững chắc cho một thế giới quan và phương pháp luận khoa học nghiên cứu vấn đề con người
Trên cơ sở tiếp thu những luận điểm của Mác về con người, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm riêng của mình về con người đầy sáng tạo
Một là, Hồ Chí Minh đã định nghĩa con người theo nghĩa rộng: Con người
là con người xã hội, là thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định, con người không phải là những cá thể biệt lập
Hồ Chí Minh bàn đến chữ "người" với nhiều nghĩa và phạm vi giống nhau Chữ "người" theo Hồ Chí Minh "nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng bầu bạn, nghĩa rộng là đồng bào cả nước, rộng hơn là cả loài người" [60; 644]
Con người vừa là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội, vừa là chủ thể xây dựng xã hội ấy Con người được biểu hiện như một phức hợp, vừa là những cá thể, vừa là một cộng đồng xã hội từ gia đình, giai cấp, dân tộc đến nhân loại nói chung Phương diện cá thể, con người ai cũng có tốt xấu, hay dở cũng như năm
Trang 29ngón tay dài, ngắn khác nhau Người cho rằng: "Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm" [60;166] và "mỗi người đều có thiện và
Hai là, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến những điều kiện khách quan cho sự sinh tồn và phát triển của xã hội và con người
Hồ Chí Minh quan niệm con người muốn tồn tại thì phải có ăn, có mặc, ở, đi lại Đó là những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người Con người sinh vật là một thực thể tự nhiên luôn chịu sự chi phối của các quy luật tự nhiên "Con người đẻ
ra ai cũng lớn lên, già đi và chết" [65; 469], vì thế, "người ta ai cũng ham muốn sung sướng, mạnh khoẻ" [60; 106]
Hồ Chí Minh luôn đề cao việc đáp ứng những nhu cầu vật chất cho con người "Tục ngữ có câu: "dân dĩ thực vi thiên", nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời" Lại có câu: " Có thực mới vực được đạo", nghĩa là
"không có ăn thì chẳng làm được gì cả" [61; 572] và dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập dân tộc khi mà dân được ăn no, mặc đủ
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ phải phát động phong trào "hũ gạo cứu đói", phát động tăng gia sản xuất thực hành tiết kiệm để giải quyết nạn đói làm cho dân "ai cũng đủ mặc, đủ ăn" Bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ những nhu cầu về vật chất một xã hội tiến bộ phải đáp ứng cả những nhu cầu về văn hoá tinh của con
Trang 30người Xã hội mà chúng ta đang hướng tới chính là XHCN và Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng CNXH chính là "tất cả mọi người, các dân tộc ngày càng ấm no, con cháu chúng ta ngày càng sung sướng" [65; 317]
Theo Hồ Chí Minh, con người muốn phát triển toàn diện phải sáng suốt về trí tuệ và khoẻ mạnh về thể chất Muốn có thể chất khoẻ mạnh thì mỗi người cần phải biết thường xuyên rèn luyện Bởi, mỗi một người dân yếu ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe Với tinh thần đó, Người
đã tự mình nêu gương sáng về rèn luyện thể dục, thể thao, đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, có
"luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ" thì muôn việc mới thành công
Ba là, Hồ Chí Minh quan niệm rằng con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [49 ; 641]
Thông qua năng lực nhận thức và cải tạo thế giới con người đóng vai trò là chủ thể hoạt động sáng tạo lịch sử, làm cho lịch sử vận động theo hướng tiến bộ, lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động của con người
“Toàn bộ cái gọi là lịch sử toàn thế giới chẳng qua chỉ là sự sáng tạo con
người kinh qua lao động của con người" [53 ; 182] Thông qua hoạt động sản xuất
vật chất, con người sáng tạo ra lịch sử của chính mình, lịch sử của xã hội loài người
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và kế thừa những giá trị tinh hoa trong truyền, thống tư tưởng của dân tộc về con người, Hồ Chí Minh luôn coi con người là vốn quý nhất: Người khẳng định rằng, trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân "Vô luận điều gì, đều do con người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả" [60; 241] Nếu có dân giúp đỡ thì muôn việc sẽ thành công
Trang 31Hồ Chí Minh khẳng định rằng trong hệ thống động lực thúc đẩy lịch sử xã hội phát triển, con người được xếp ở vị trí trung tâm: "tất cả của cải trong xã hội đều
do công nhân và nông dân làm ra Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển" [62; 203]
Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp dựng nước ở Việt Nam là của chính con người Việt Nam Hồ Chí Minh cho rằng con người là vốn quý nhất Con người được giác ngộ, được tổ chức, được lãnh đạo đúng đắn sẽ tạo ra tất cả, vì "lực lượng dân chúng nhiều vô cùng dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra" [60; 259] và cuối cùng, Người lưu ý chúng ta muốn xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa không có cách nào khác là phải cần đến "sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người" [63; 49]
Tóm lại: "Đặc điểm chủ yếu và cũng là một trong những giá trị chủ yếu của
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là quá trình đi từ thực tiễn đến lý luận, từ lý luận đến thực tiễn Tức là lý luận hoá thực tiễn và thực tiễn hoá lý luận." [38 ; 51]
Đối với Người, sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng loài người không thể tách rời nhau và đều hướng đến mục đích cao cả nhất là đem lại tự do, hạnh phúc cho con người Để hoàn thành sự nghiệp giải phóng ấy và xây dựng xã hội mới thành công cần phải có một lực lượng cơ bản nhất, quan trọng nhất, vĩ đại nhất đó chính là con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người một mặt nói đến con người là một thực thể sinh học xã hội, một mặt khẳng định vai trò, vị trí của con người trong xã hội, trong lịch sử phát triển của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng Trong vấn
đề con người điều mà Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm là con người Việt Nam, những quan hệ xã hội trong xã hội Việt Nam với những điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam làm kim chỉ nam cho chiến lược của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc đổi mới, nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trang 321.2.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về giải phóng con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng tháng Mười Nga đã giúp cho Nguyễn
Ái Quốc xác định được mục tiêu đi tới của cách mạng không phải chỉ là độc lập dân tộc mà còn là chủ nghĩa xã hội Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, độc lập dân tộc được gắn với CNXH Người cũng đã tìm thấy con đường để đưa cả dân tộc đi tới mục tiêu đó, con đường cách mạng vô sản với hai giai đoạn nối tiếp nhau
là cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, trong đó giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người có quan hệ chi phối biện chứng, giải phóng dân tộc đã mở đường giải phóng cho giải phóng giai cấp và giải phóng con người được đẩy mạnh
Một là, giải phóng con người trước hết là giải phóng giai cấp cần lao, công nông và các tầng lớp xã hội khác đấu tranh để xây dựng một chế độ xã hội không
còn tình trạng người bóc lột người
Con người vừa một chỉnh thể đơn nhất, vừa mang những phẩm chất chung với cái đặc thù và cái riêng
Nếu có ai đó cho rằng Hồ Chí Minh chỉ quan tâm đến con người xã hội mà
bỏ quên con người cá nhân là hoàn toàn sai lầm Không chỉ trong tư tưởng lý luận,
mà còn trong hoạt động thực tiễn, Người rất quan tâm đến mỗi con người cụ thể, trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh đã sáng lập ra nhiều tổ chức xã hội và đưa mọi người vào hoạt động trong các tổ chức đó Từ đó hình thành, phát triển các phẩm chất xã hội và để mỗi người thực hiện một chức năng xã hội nhất định, đóng góp tiềm năng sáng tạo của mình vào sự nghiệp chung của cách mạng Hồ Chí Minh luôn tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, chia sẻ niềm vui và thấu hiểu nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp nhân dân từ công nhân, nông dân, bộ đội đến phụ nữ, thanh niên, các cháu nhi đồng v.v Trong chỉ đạo thực tiễn, Hồ Chí Minh không chỉ động viên, phát huy tinh thần tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, mà còn biết khơi dậy những phẩm chất tốt đẹp đó trong mỗi con người cụ thể, biết kết hợp hài hoà lợi ích
cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần tạo nên động lực nhằm thúc đẩy tính tích cực trong nhân tố con người làm cho những đức tính tốt đẹp đó nảy nở "như hoa mùa xuân"
Trang 33Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa con người giai cấp - dân tộc - nhân loại
Khi đề cập đến con người, Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến "người phương Đông", "người châu Á", "người châu Âu" mà còn đề cập một cách cụ thể hơn "người da vàng", "người da trắng", "người da đen", "người Đông Dương",
"người Pháp", "người Việt Nam" Như vậy, con người bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, chủng tộc, sắc tộc, thuộc về một quốc gia nhất định Bên cạnh nói đến con người dân tộc người đặc biệt chú ý đến con người giai cấp, Hồ Chí Minh cho rằng đấu tranh giai cấp là phương tiện để giải phóng con người Hồ Chí Minh không hề tuyệt đối hoá, nhưng rất coi trọng đấu tranh giai cấp Bởi vì, giải phóng nhân dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội chủ nghĩa - một xã hội dân giàu nước mạnh luôn luôn là mục tiêu, hoài bão phấn đấu của Người
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng cộng sản Việt Nam đã quan tâm đến các chính sách xã hội vì lợi ích con người, coi trọng việc tập hợp, tổ chức, đoàn kết rộng rãi tất cả mọi tầng lớp nhân dân trong mặt trận dân tộc thống nhất, tạo sức mạnh tổng hợp để đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước
Hai là, mục đích cuối cùng của công cuộc giải phóng đó là phải đem lại cho con người một cuộc sống mà trong đó họ được làm chủ bản thân và làm chủ xã hội
Trong xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, con người được giải phóng toàn diện - xây dựng một Nhà nước vì dân Về mặt lý luận, Nhà nước nào cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định trong xã hội Nhà nước Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập mang bản chất của giai cấp công nhân, đó là Nhà nước thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, dân bầu ra chính quyền các cấp Chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ vì chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương
do dân cử ra Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, tổ chức, giáo dục, động viên nhân dân xây dựng cuộc sống mới "Trong xã hội không gì tốt đẹp,
vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân " [63; 276]
Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Nước ta là một nước dân chủ Mọi việc đều vì lợi ích của dân mà làm khi ai có điều gì oan ức thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp
Trang 34trên Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền ấy" [71; 493] Trải qua hơn 50 năm từ Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc bầu cử tự do dân chủ các cơ quan quyền lực nhà nước đã trở thành định chế, nguyên tắc xây dựng Nhà nước ta
Thực hiện dân chủ là nhằm giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo của quần chúng: "Có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân, đưa cách mạng tiến lên" [64; 592] Do đó, dân chủ trở thành động lực của tiến bộ, của phát triển: "Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn" [67; 249]
Như vậy, Nhà nước của dân, do dân và vì dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
là Nhà nước do nhân dân xây dựng và nó hoạt động phải vì lợi ích của nhân dân
Tư tưởng đó xuất phát từ quan điểm vì con người từ chủ nghĩa nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh Vì dân, vì con người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong
tư tưởng Hồ Chí Minh Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như cách mạng xã hội chủ nghĩa
Ba là, giải phóng con người phải gắn chặt với việc giải phóng phụ nữ
Đối với vấn đề giải phóng phụ nữ các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng: “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới nữ Ngay cả ở trong nhà, người đàn ông cũng nắm lấy quyền cai quản, còn người đàn bà thì bị hạ thấp, bị nô dịch, bị biến thành nô lệ cho sự dâm đãng của đàn
ông, thành một công cụ sinh đẻ đơn thuần ” [61; 93]
Đến thế kỷ XX, tình trạng bất bình đẳng nam nữ vẫn tiếp tục diễn ra như “đã từng xảy ra trong lịch sử”, thậm chí còn có phần sâu sắc và tinh vi hơn: “Tình trạng không bình quyền giữa đôi bên, do quan hệ xã hội trước kia để lại cho chúng ta, tuyệt nhiên không phải là nguyên nhân, mà là kết quả của việc áp bức đàn bà về mặt kinh tế” [48 ;115] Bên cạnh đó trình độ nhận thức, văn hoá và các phong tục, tập quán lạc hậu cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bất bình đẳng nam nữ Muốn giải phóng được phụ nữ thì phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất,
Trang 35không cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình, phải đưa họ tham gia vào nền sản xuất xã hội, xây dựng hôn nhân gia đình tiến bộ, hôn nhân tự nguyện trên cơ sở tình yêu chân chính chứ không bị lợi ích kinh tế chi phối
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin Người cũng khẳng định rằng: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” Người xác định vấn đề giải phóng phụ nữ là một trong những
mục tiêu của cách mạng Việt Nam
Người khẳng định lịch sử là do nhân dân làm ra, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân, vì hạnh phúc của đồng bào Phụ nữ là một động lực to lớn trong nhân dân, họ có vai trò hết sức quan trọng không thể thiếu trong các cuộc cách mạng xã hội nói chung: Xem trong lịch sử cách mạng chẳng có lần nào là không có đàn và con gái tham gia Vậy nên, muốn thế giới cách mệnh thành công thì phải vận động đàn bà con gái công nông các nước Không thể có một lực lượng cách mạng mạnh mẽ nếu không có phụ nữ tham gia Việc xác định đúng vị trí, vai trò của phụ nữ có một ý nghĩa to lớn là một trong những nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Họ cũng là những người góp phần hết sức to lớn trong công
cuộc xây dựng đất nước sáng tạo ra những giá trị văn hoá, tinh thần của dân tộc
Muốn giải phóng phụ nữ thì trước hết phải giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp vô sản, thực hiện quyền tự do, bình đẳng cho mọi người, đem lại hạnh phúc cho nhân dân Để thực hiện mục tiêu đó, theo Hồ Chí Minh, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng không ngừng để đi đến giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp và giải phóng con người nói chung, và người phụ nữ nói riêng bắt đầu và song song với giải phóng dân tộc
Tuy nhiên không thể xoá bỏ tận gốc sự bất bình đẳng đối với phụ nữ nếu không phát triển kinh tế, xây dựng một nền văn hoá lành mạnh, một xã hội văn minh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn sự nghiệp giải phóng phụ nữ với cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa - một xu thế tất yếu của tiến bộ xã hội Người thường nói, chúng ta làm cách mạng để giành lấy tự do, dân chủ, bình đẳng, trai gái ngang
Trang 36quyền nhau, không để phụ nữ bị áp bức, cũng như coi thường phụ nữ - đó cũng là mục tiêu nhất quán của cách mạng Việt Nam, là chiến lược quốc gia của chính phủ Việt Nam Và ngay từ khi mới thành lập, Đảng cộng sản Việt Nam đã nêu rõ: "Thực hiện nam nữ bình quyền"
Giải phóng phụ nữ gắn với giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người là một sự nghiệp giải phóng chân chính, toàn diện và triệt để nhất
Thật vậy, Hồ Chí Minh đã dùng cả cuộc đời của mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người."Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, chủ nghĩa nhân văn cộng sản, là một con người nhân ái, vị tha, con người mà trái tim yêu thương luôn dành cho đồng bào mình và cho nhân loại cần lao" [8 ; 87]
Trên nền tảng thế giới quan và phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người vào điều kiện thực tiễn ở Việt Nam Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến việc giải phóng con người khỏi đi sự áp bức, bất công, con người được tự do, hạnh phúc, được phát triển về mọi mặt, được làm chủ xã hội, làm chủ tự nhiên và làm chủ bản thân Việc giải phóng con người không được lãng quên việc giải phóng phụ nữ - "một nửa loài người" Việc giải phóng con người còn gắn liền với việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới Việt Nam Việc cải tạo con người cũ, xây dựng con người mới được Hồ Chí Minh đặt ra đối với mọi giai tầng trong xã hội từ công nhân, nông dân, trí thức đến cán bộ đảng viên, nhằm huy động sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân thực hiện mục tiêu xây dựng đất nước: "Công bằng, dân chủ, văn minh" mọi người được ấm no, tự do và hạnh phúc
1.2.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về người cách mạng
Một trong những tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta
là tư tưởng về người cách mạng Sự nghiệp cách mạng muốn đi đến thắng lợi cuối cùng nhất định cần phải có người cách mạng Người cách mạng chính là động lực
để sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người diễn ra nhanh và thành công Người cách mạng vì thế nhất định phải là người có trí tuệ và đạo đức Trong
Trang 37đó, đạo đức cách mạng là cần thiết cho con người trong tu dưỡng cá nhân và là gốc của người cán bộ Người cho rằng: "Muốn trở nên người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra Lòng mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư Mình đã chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ ngày càng ít, mà những đức tính tốt như sau ngày càng thêm " [60; 295] Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Người luôn quan niệm "Cán bộ là gốc của mọi việc, vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng" [59; 269], "Muôn việc thành công hay thất bại là do cán
bộ tốt hay kém "[59; 240] Hồ Chí Minh coi đạo đức của người cách mạng như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối: " Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [60; 240] Nhất quán quan điểm đó, nên ngay từ
những năm đầu chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản, trong tác phẩm Đường
cách mệnh, Hồ Chí Minh đã xác định tư cách của người cách mệnh, là phải giải
quyết đúng đắn các mối quan hệ: Đối với mình, đối với người và đối với công việc Sau này, Người đề cập một cách cụ thể và nhân mạnh đến các tiêu chí, phẩm
chất đạo đức cơ bản của người cách mạng như sau:
Một là, trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân
Quan điểm này của Hồ Chí Minh không những kế thừa những giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó "Ngày xưa trung là trung với vua Hiếu là hiếu với cha mẹ mình thôi ngày nay, nước ta là nước Dân chủ Cộng hòa trung là trung với Tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân; ta thương cha mẹ ta mà còn phải thương cha mẹ người, phải làm cho mọi người đều biết thương cha mẹ" [60; 641]
Như vậy, "trung với Tổ quốc", "hiếu với nhân dân" là những phẩm chất đạo đức quan trọng của mỗi người Việt Nam Trung với nước là trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước Hiếu với dân là thương dân, là phục vụ hết lòng để được dân tin yêu, quý mến Hiếu với dân là phải biết phấn đấu hy sinh, đem lại độc
Trang 38lập tự do, dân chủ, hạnh phúc cho dân "Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh" Hiếu với dân là phải có trách nhiệm lo cho dân: "làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành" Mỗi cán bộ dù ở bất cứ cương vị gì, giữ trọng trách gì cũng phải xuất phát từ dân, thực hành dân chủ, "Làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm"
Đối với cán bộ, đảng viên phẩm chất ấy còn đòi hỏi ở một bậc cao hơn là
"Tận trung với nước, tận hiếu với dân"
Hai là, có tình yêu thương con người
Với Hồ Chí Minh, yêu thương con người không phải là chỉ là một đạo lý
mà phải được thể hiện sinh động trong hoạt động hàng ngày giữa người với người Điều đó đòi hỏi người cán bộ phải luôn nghiêm khắc với bản thân mình, rộng rãi,
độ lượng với người khác, phải biết cách nâng con người lên chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người Tình yêu thương con người còn được thể hiện ở sự bao dung đối với những người có sai lầm, khuyết điểm và đang cố gắng sửa chữa
Yêu thương con người còn được thể hiện bằng lẽ sống có tình có nghĩa, thể hiện trên nguyên tắc phê bình và tự phê bình một cách chân thành, nghiêm túc giữa những người có cùng lý tưởng, cùng phấn đấu cho một sự nghiệp Nó hoàn toàn xa
lạ với thái độ dĩ hòa vi quý, bao che khuyết điểm cho nhau và càng xa lạ với thái độ yêu nên tốt, ghét nên xấu, bè cánh Đây là những nguy cơ đưa đến những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng Hồ Chí Minh nói: "Nhân dân ta từ lâu đã sống với nhau
có tình có nghĩa như thế, từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, tình nghĩa năm châu bốn biển một nhà Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được" [62; 554] Người cách mạng mang trong mình phẩm chất đạo đức mới, đạo đức cách mạng, phải thực sự là con người biết thấu hiểu và chia sẻ, để
từ đó tìm ra con đường mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi người
Trang 39Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Đây là nhóm phẩm chất đạo đức quan trọng trong hệ thống những phẩm chất đạo đức mới, gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã đề cập đến phẩm chất này nhiều nhất, thường xuyên nhất, từ Đường cách
mệnh cho đến Di chúc lịch sử Người đã so sánh bốn đức cần, kiệm, liêm, chính của
con người cũng giống như bốn mùa của trời, bốn phương của đất Thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một trong bốn đức cần, kiệm, liêm, chính thì không thành người
Theo Hồ Chí Minh, đã là người cán bộ thì phải có đức tính cần: "Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời" [64; 212] Lười biếng là kẻ địch của chữ cần và cũng là kẻ địch của dân tộc Người cán bộ phải có ý thức về kiệm, tức là tiết kiệm sức dân, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền bạc của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; "không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi" [64; 212] Hồ Chí Minh còn ví "cần" mà không "kiệm" như thùng không đáy
Người cán bộ phải nêu cao đức tính liêm, tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của cải của nhân dân, không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của nhà nước, của nhân dân, phải "không tham địa vị Không tham tiền tài Không tham sung sướng Không ham người tâng bốc mình Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ" [66; 212] Hồ Chí Minh đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như: "Cậy quyền thế
mà đục khoét của dân, ăn của đút, hoặc trộm của công làm của tư"; "Dìm người giỏi
để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (đạo là trộm) Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm, là tham vật úy lạo Gặp giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh úy tử " [66; 643] Đối với mình: Không tự cao, tự đại luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều
dở của bản thân mình Đối với người: không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá lừa lọc Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà đã phụ trách
Trang 40việc gì thì quyết làm cho đến nơi, đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh Mỗi ngày cố làm một việc có lợi cho nước cho dân
Theo Hồ Chí Minh, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính Người còn ví những đức tính đó trong một con người như cây cần phải có gốc, rễ, cần phải có cành lá hoa quả, mới hoàn toàn Đối với người cán bộ cách mạng thì không thể thiếu bốn đức tính ấy, vì người cán bộ phải làm gương trước Do vậy, cán bộ cách mạng phải chính trước mới giúp được người thành chính vì mình không chính mà muốn người khác chính là điều không thể
Người cán bộ phải chí công vô tư, "đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc", "khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau", "phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ"
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ kẻ thù của chí công vô tư chính là chủ nghĩa cá nhân Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cá nhân tức là luôn đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung và việc thỏa mãn lợi ích riêng cá nhân này, cộng đồng này, gia đình này, v.v được thực hiện trên cơ sở xâm phạm hoặc làm tổn hại đến lợi ích riêng khác và đến lợi ích của cả cộng đồng, chủ nghĩa cá nhân là "căn bệnh mẹ", từ đây đẻ ra nhiều căn bệnh con rất nguy hiểm: Quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, công thần, địa vị, độc đoán, coi thường tập thể, kỷ luật kém, mất đoàn kết Nó biểu hiện dưới nhiều hình thức, mức độ phong phú, phức tạp, khó phát hiện, khó tiêu diệt
Muốn tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, thì điều đặc biệt quan trọng, theo Hồ Chí Minh là phải "nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" Đó cũng
là hai mặt của quá trình nâng cao tính tích cực con người
Theo Người, đạo đức cách mạng của mỗi người không tự nhiên mà có Nó là kết quả của quá trình "Đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng
cố, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" [64; 293] Đạo đức của mỗi con người được giữ vững nhờ vào ý thức tự rèn luyện của mỗi cá nhân, muốn làm được như vậy mỗi người cần có tri thức để suy nghĩ và hành động đúng
"Muốn rèn luyện đạo đức cách mạng thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo mình để tiến bộ mãi" [63; 488] Phải học tập từ việc to đến việc