1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Lao động và tham gia xã hội ở người hoa cao tuổi sống tại quận 5 thành phố hồ chí minh

112 30 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Lao Động Và Tham Gia Xã Hội Ở Người Hoa Cao Tuổi Sống Tại Quận 5 Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền
Người hướng dẫn GS. TS. Bùi Thế Cường
Trường học Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Xã hội học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 112
Dung lượng 1,51 MB

Cấu trúc

  • 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI (10)
  • 2. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU (12)
    • 2.1. Các nghiên cứu xã hội về người cao tuổi tại Việt Nam (13)
    • 2.2. Các báo cáo chính sách trong lĩnh vực già hoá dân số (21)
    • 2.3 Các chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam hiện nay (23)
    • 2.4 Các kết luận rút ra từ tổng quan tài liệu nghiên cứu và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về người Hoa cao tuổi (24)
  • 3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU (29)
  • 4. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU (30)
    • 4.1 Mục đích nghiên cứu (30)
    • 4.2 Mục tiêu cụ thể (30)
  • 5. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU (30)
    • 5.1. Đối tượng nghiên cứu (30)
    • 5.2. Khách thể nghiên cứu (30)
    • 5.3. Phạm vi nghiên cứu (30)
  • 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (31)
  • 7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI (32)
    • 7.1 Ý nghĩa khoa học (32)
    • 7.2 Ý nghĩa thực tiễn (32)
  • 8. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN (32)
  • CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (34)
    • 1. CÁC KHÁI NIỆM, LÝ THUYẾT SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU (34)
      • 1.1 Các khái niệm liên quan (34)
      • 1.2 Các lý thuyết nghiên cứu về người cao tuổi sử dụng trong đề tài (43)
    • 2. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH (51)
      • 3.1 Giả thuyết nghiên cứu (51)
      • 3.2 Khung phân tích (55)
    • CHƯƠNG 2: SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU (56)
      • 1. SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ LƯỢC SỬ ĐỊNH CƯ CỦA NGƯỜI HOA TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (56)
      • 2. ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (59)
      • 3. VAI TRÒ CỦA CHÍNH QUYỀN, MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC BAN NGÀNH ĐOÀN THỂ, ĐƠN VỊ, HỘI QUÁN TRONG CHĂM SÓC NGƯỜI CAO TUỔI TẠI QUẬN 5 (61)
      • 4. VAI TRÒ CỦA HỘI NGƯỜI CAO TUỔI TRONG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGƯỜI (62)
    • CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ LAO ĐỘNG (66)
      • 1. ĐẶC TRƯNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ THAM GIA XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA CAO TUỔI TẠI QUẬN 5 (67)
        • 1.1. Đặc điểm nhân khẩu học nhóm khách thể nghiên cứu (67)
        • 1.2 L AO ĐỘNG TRONG NGƯỜI H OA CAO TUỔI (68)
        • 1.2 Tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi (70)
        • 2.1 S Ự THAY ĐỔI VỊ THẾ TRONG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI TÁC ĐỘNG TỚI LAO ĐỘNG VÀ THAM GIA XÃ HỘI CỦA NGƯỜI H OA CAO TUỔI (75)
        • 2.3 Vai trò của các thiết chế xã hội đối với lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi (92)
      • 1. KẾT LUẬN (98)
      • 2. KIẾN NGHỊ (100)
        • 2.1 C ÁC KIẾN NGHỊ VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHÓM NGƯỜI H OA CAO TUỔI (100)
        • 2.2 C ÁC GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TẠI ĐỊA PHƯƠNG TRONG VIỆC TẠO ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NGƯỜI H OA CAO TUỔI (102)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (106)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Các nghiên cứu xã hội về người cao tuổi tại Việt Nam

Các nhà dân số học đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo dân số già và ảnh hưởng của sự già hóa đến sự phát triển quốc gia Tại Châu Á, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và di cư đã làm thay đổi cấu trúc gia đình, gây khó khăn cho việc chăm sóc người cao tuổi Công nghiệp hóa cũng khiến phụ nữ trung niên ít có khả năng trở thành người chăm sóc do họ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động Những biến đổi xã hội này là mối quan tâm chính của các nhà xã hội học khi nghiên cứu về người cao tuổi.

Từ những năm 1970, nghiên cứu về người cao tuổi tại Việt Nam đã được tiến hành, chủ yếu tập trung vào các khu vực như đồng bằng sông Hồng Các nghiên cứu này, do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Bộ Y tế, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, cùng Viện Xã hội học thực hiện, đã cung cấp những dữ liệu tham khảo quan trọng Chúng giúp các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về tình hình kinh tế, điều kiện chăm sóc sức khỏe, mức độ tham gia xã hội và các đặc điểm riêng biệt của các nhóm người cao tuổi như dân tộc thiểu số, phụ nữ cao tuổi, người cao tuổi cô đơn và người hưu trí.

Vào năm 1983, trong khuôn khổ chương trình nghiên cứu cấp quốc gia về nhà ở, một nhóm nhà xã hội học đã tiến hành khảo sát 500 người nghỉ hưu tại bốn phường nội thành Hà Nội, gồm Bùi Thị Xuân, Kim Liên, Hàng Bạc và Thượng Đình Kết quả cho thấy người cao tuổi vẫn giữ vai trò quan trọng trong gia đình, với 43% tiếp tục tham gia lao động để cải thiện đời sống, 25% thường xuyên trông nom cháu nhỏ, 12% kiểm tra việc học tập của các cháu, và 78% đảm nhận công việc nội trợ Những hoạt động này không chỉ giúp người cao tuổi cảm thấy có ích mà còn thắt chặt mối quan hệ giữa các thế hệ, nâng cao vị thế và uy tín của họ trong gia đình.

Tháng 9.1984, một khảo sát 1.892 cụ nghỉ hưu ở 20 phường thuộc 4 quận nội thành Hà Nội đã được bệnh viện Việt Xô tiến hành (Nguyễn Xuân Lương, 1984) Cuộc khảo sát đã chỉ ra các cụ nghỉ hưu có đến 39,6% phải làm thêm để tăng thu nhập, 34,7% sau khi nghỉ hưu còn phải tiếp tục nuôi dưỡng người trong gia đình; 26,4% sau khi nghỉ hưu tiếp tục tham gia công tác xã hội ở cơ sở và 17,5% tham gia sinh hoạt câu lạc bộ người già Khảo sát này cũng đưa ra

Nhà nước cần chú trọng tạo việc làm cho người nghỉ hưu để nâng cao điều kiện kinh tế, chăm sóc sức khỏe, và cải thiện cơ hội giải trí và du lịch, nhằm giúp họ không cảm thấy bị bỏ rơi.

Năm 1989, các bác sĩ lão khoa đã thực hiện một cuộc khảo sát dựa trên bảng hỏi tham khảo từ chương trình nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại khu vực Tây Thái Bình Dương Dự án này bao gồm việc khảo sát 1.032 người dân tại xã Chu Phan, Mê Linh, Hà Nội.

Các cuộc khảo sát về người cao tuổi ở Việt Nam cho thấy nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến sức khỏe, lao động và chăm sóc Ba cuộc khảo sát được thực hiện từ năm 1989 đến 1991 tại các vùng khác nhau đã chỉ ra rằng khoảng 50% người từ 60-64 tuổi vẫn còn lao động, nhưng tỷ lệ này giảm xuống còn 10% ở độ tuổi 70-74 Người cao tuổi thường được chăm sóc bởi các thành viên trong gia đình, nhưng từ 75 tuổi trở đi, phụ nữ không còn nêu chồng là người chăm sóc chính Sự khác biệt trong cách chăm sóc giữa hai giới và các vùng được nghiên cứu có thể do cấu trúc giới và tộc người Vào đầu những năm 1990, khảo sát về người về hưu cho thấy họ vẫn phải làm việc để đáp ứng nhu cầu thiết yếu, với 65% thu nhập đến từ công việc làm thêm Tuy nhiên, tổng thu nhập chỉ đủ cho nhu cầu ăn uống tối thiểu, trong khi các nhu cầu khác chủ yếu phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ con cháu.

Một khảo sát xã hội quy mô lớn về người cao tuổi tại Đồng bằng sông Hồng được thực hiện vào năm 1996 bởi RRDES đã thu thập dữ liệu thông qua bảng hỏi gồm 196 câu hỏi, phân chia thành 12 mục liên quan đến 20 chủ đề đời sống khác nhau Đây là cuộc khảo sát đầu tiên có thủ tục chọn mẫu cho phép đại diện cho vùng nghiên cứu, với cỡ mẫu lên tới 930 người.

Người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên tại 31 điểm dân cư vùng Đồng bằng sông Hồng cho thấy nhiều người vẫn phải lao động để hỗ trợ gia đình, với khoảng 40% trong số họ còn tham gia công việc, đặc biệt là ở khu vực nông thôn Khoảng 41,5% người cao tuổi đóng góp thu nhập chính cho hộ gia đình, cho thấy vai trò quan trọng của họ trong kinh tế gia đình Sự khác biệt trong hoạt động lao động giữa các nhóm tuổi cũng rõ rệt, với tỷ lệ lao động ở người nông dân cao hơn nhiều so với người hưu trí Về giao tiếp xã hội, người cao tuổi thường xuyên thăm hỏi bạn bè, họ hàng và hàng xóm, với tần suất giao tiếp cao hơn ở những người dưới 70 tuổi và ở khu vực nông thôn Sự khác biệt trong mức độ gặp gỡ họ hàng giữa đô thị và nông thôn cũng rất rõ ràng, với người cao tuổi ở nông thôn có tỷ lệ gặp gỡ họ hàng hàng ngày cao hơn nhiều so với ở đô thị Những yếu tố như văn hóa, nghề nghiệp và hình thái cư trú ảnh hưởng đến các mô hình giao tiếp của người cao tuổi trong khu vực này.

Trong nghiên cứu "Tiếp cận văn hóa người cao tuổi", tác giả Nguyễn Phương Lan (2000) đã chỉ ra ba loại giao tiếp của người cao tuổi: giao tiếp với tự nhiên, với thế giới xung quanh và với thần linh, trong đó giao tiếp với con người là quan trọng nhất Khi tuổi cao, người cao tuổi thường cảm thấy mặc cảm, chán nản và dễ bị ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ xã hội Tác giả đề xuất các biện pháp can thiệp nhằm cải thiện tình trạng giao tiếp của người cao tuổi, với đối tượng nghiên cứu cụ thể và có thể định lượng Tuy nhiên, nghiên cứu chưa xem xét yếu tố tâm lý, trong khi các đặc điểm văn hóa có thể tác động đến tâm lý và nhu cầu giao tiếp của người cao tuổi Việc kết hợp cả hai yếu tố này sẽ làm cho nghiên cứu trở nên thuyết phục hơn (xem Bùi Nghĩa, 2018).

Nghiên cứu định tính “Chiến lược sống của người cao tuổi trước những biến đổi của gia đình nông thôn hiện nay” tại hai xã Ninh Hiệp và Yên Thường (Gia Lâm, Hà Nội) xem xét mối quan hệ giữa người cao tuổi và sự biến đổi của gia đình nông thôn Tác giả Bế Quỳnh Nga (2005) chỉ ra rằng, xu hướng tách hộ đang gia tăng, khi con cái được khuyến khích ra ở riêng, dẫn đến sự thay đổi về quy mô gia đình và ảnh hưởng đến mối tương tác cũng như gắn bó giữa cha mẹ và con cái đã lập gia đình.

Người cao tuổi tham gia tích cực vào mạng lưới xã hội bên ngoài, tìm kiếm sự hỗ trợ từ cộng đồng thông qua các mối quan hệ với hàng xóm, bạn bè, và các câu lạc bộ như câu lạc bộ dưỡng sinh, cầu lông, và thơ Họ cũng tham gia vào các tổ chức như Mặt trận Tổ quốc, Hội nông dân, Hội người cao tuổi và Hội cựu chiến binh, nhằm tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau về kinh tế Nghiên cứu này mang tính chất trường hợp, chủ yếu mô tả và gợi ý về các chiến lược sống của người cao tuổi trong bối cảnh biến đổi kinh tế - xã hội tại nông thôn.

Bằng cách phân tích số liệu từ các cuộc điều tra mức sống dân cư và hộ gia đình trong các năm 1992/93, 1997/98, 2002 và 2004, Giang Thanh Long và Wade Donald Pfau đã cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự thay đổi trong điều kiện sống của người dân.

Báo cáo năm 2007 về dân số cao tuổi ở Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế cho thấy mối quan hệ gia đình truyền thống vẫn được giữ gìn mạnh mẽ, mặc dù điều kiện kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi.

Đổi mới trong đời sống người cao tuổi đang diễn ra, với phần lớn sống cùng con cái, đặc biệt là con trai đã kết hôn Người cao tuổi không chỉ là những người phụ thuộc, mà còn đóng góp cho gia đình qua công việc có thu nhập hoặc công việc nội trợ Phụ nữ cao tuổi thường gặp nhiều bất lợi hơn so với nam giới, như trình độ giáo dục thấp hơn, tỷ lệ góa chồng và sống cô đơn cao hơn Sự khác biệt trong đời sống của người cao tuổi cũng rõ rệt giữa khu vực thành thị và nông thôn, cũng như giữa các vùng kinh tế Đáng ngạc nhiên, trong thập kỷ qua, tỷ lệ nghèo của người cao tuổi lại thấp hơn so với người trẻ, cho thấy nhóm trên 60 tuổi gặp nhiều khó khăn và dễ bị tổn thương hơn so với nhóm từ 50 đến 60 tuổi.

Các báo cáo chính sách trong lĩnh vực già hoá dân số

Từ năm 2011 đến 2019, tác giả đã tiếp cận nhiều báo cáo chính sách lớn hợp tác với các cơ quan Liên Hợp Quốc và tổ chức quốc tế như UNFPA và WHO, cùng với Ủy ban quốc gia Người cao tuổi Việt Nam (VNCA) Những báo cáo này cung cấp dữ liệu quý giá để phân tích các vấn đề liên quan đến người cao tuổi và tác động của già hóa dân số đối với sự phát triển quốc gia, từ đó đề xuất các chính sách và chiến lược ứng phó hiệu quả Tác giả đặc biệt chú trọng đến quan điểm trong các báo cáo khoa học về việc tối ưu hóa tiềm năng của thế giới già hóa, coi già hóa vừa là thách thức vừa là cơ hội cho các quốc gia Các báo cáo nhấn mạnh rằng dân số già hóa có thể đóng góp tích cực cho sức khỏe, an sinh và sự năng động kinh tế - xã hội.

Khi xây dựng chính sách cho người cao tuổi tại Việt Nam, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) khuyến nghị áp dụng mô hình “Già hóa thành công” của Rowe và Kahn Cần nhận thức rằng nhóm người cao tuổi không phải là một đối tượng duy nhất, mà cần được nhìn nhận đa dạng về tuổi, giới tính, dân tộc, giáo dục, thu nhập và sức khỏe Mỗi phân nhóm trong cộng đồng người cao tuổi, bao gồm người nghèo, phụ nữ, nam giới, người cao tuổi nhất, dân tộc thiểu số, người mù chữ, và cư dân nông thôn hay thành phố, đều có những nhu cầu và mối quan tâm riêng biệt cần được giải quyết thông qua các chương trình can thiệp phù hợp (UNFPA, 2012).

Trong báo cáo năm 2016 về tình hình phát triển kinh tế Việt Nam, Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng Việt Nam đang bước vào giai đoạn già hóa dân số với tốc độ nhanh chóng, ảnh hưởng lớn đến lực lượng lao động Đặc biệt, người cao tuổi, nhất là ở vùng nông thôn, thường phải làm việc đến tuổi rất cao để kiếm thu nhập, điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì sự tham gia của họ vào thị trường lao động.

Báo cáo “Hướng tới chính sách quốc gia toàn diện thích ứng với già hóa dân số ở Việt Nam” của Ghazy Mujahid, Nguyễn Văn Tiên và Đặng Huy Hoàng (2019) phân tích tình hình và tác động của già hóa dân số tại Việt Nam, đồng thời đưa ra các đề xuất chính sách cho Chính phủ nhằm xây dựng Chính sách quốc gia trung hạn về già hóa (2021 – 2035) Mục tiêu là cải thiện liên tục chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là người cao tuổi, hướng tới sự già hóa thành công Về chăm sóc người cao tuổi, báo cáo chỉ ra các thành tố của chăm sóc xã hội, bao gồm hoạt động sống cơ bản hàng ngày, hoạt động sinh hoạt cần thiết để sống độc lập, và hỗ trợ xã hội nhằm nâng cao tương tác xã hội và tâm lý cho người cao tuổi.

Chăm sóc người cao tuổi không chỉ bao gồm dịch vụ y tế mà còn cần các dịch vụ xã hội để tăng cường sự tham gia của họ vào các hoạt động cộng đồng Điều này giúp người cao tuổi cảm thấy yên tâm và được bầu bạn thông qua việc trò chuyện, đọc sách hoặc tham gia các hoạt động xã hội và tôn giáo Báo cáo cũng cung cấp thông tin bổ sung cho nghiên cứu về các hoạt động xã hội mà người cao tuổi thường tham gia.

Các chính sách dành cho người cao tuổi tại Việt Nam hiện nay

Trong thời gian gần đây, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách nhằm bảo vệ quyền lợi vật chất và tinh thần cho người cao tuổi Các văn bản pháp luật chung và chính sách xã hội liên quan đến người cao tuổi đã được ban hành, tập trung vào nhiều lĩnh vực khác nhau để đảm bảo sự chăm sóc và hỗ trợ cho đối tượng này.

Hiến pháp năm 2013 khẳng định rõ ràng mục tiêu phát triển hệ thống an sinh xã hội, đảm bảo bình đẳng và công bằng cho tất cả các thành viên trong xã hội Đặc biệt, lần đầu tiên, thuật ngữ “Người cao tuổi” được đề cập trong khoản 2 Điều của Hiến pháp này.

Nhiều văn bản pháp luật tại Việt Nam đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người cao tuổi, bao gồm Nghị định số 06/2011/NĐ-CP, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, và Bộ luật Dân sự năm 2015 Những văn bản này quy định chi tiết về chăm sóc và phụng dưỡng người cao tuổi, nhấn mạnh quyền bình đẳng của họ trước pháp luật và vai trò quan trọng của gia đình trong việc chăm sóc Điều này thể hiện tính nhân văn của Nhà nước Việt Nam đối với người cao tuổi, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội hiện nay.

Theo Điều 3 của Luật Người cao tuổi năm 2009, người cao tuổi có quyền được bảo đảm nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại và chăm sóc sức khỏe, đồng thời được ưu tiên sử dụng các dịch vụ theo quy định pháp luật và tham gia các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch Các quyền này đã được cụ thể hóa qua các nghị định, thông tư và quyết định của Chính phủ Để đáp ứng sự thay đổi về điều kiện kinh tế - xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2010/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP về chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội, cùng với Quyết định số 1781/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi giai đoạn 2012 – 2020, nhằm chăm sóc và phát huy vai trò của người cao tuổi Thêm vào đó, Quyết định số 544/QĐ-TTg quy định tháng 10 hàng năm là tháng hành động vì người cao tuổi.

Hệ thống chính sách xã hội của Việt Nam dành cho người cao tuổi đã tương đối hoàn thiện, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các nhu cầu về đời sống như kinh tế, tiếp cận dịch vụ xã hội, và hòa nhập cộng đồng Các quy định trong văn bản chính sách giúp giải quyết những khó khăn trong ăn, mặc, ở, đi lại, an toàn, khám chữa bệnh, cũng như nhu cầu tự khẳng định bản thân và tham gia lao động Đặc biệt, trong bối cảnh già hóa dân số, việc ban hành các chính sách xã hội cho người cao tuổi không chỉ mang ý nghĩa nhân văn mà còn góp phần tăng cường chức năng phòng ngừa và giảm bớt khó khăn về an sinh xã hội trong tương lai.

Các kết luận rút ra từ tổng quan tài liệu nghiên cứu và một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về người Hoa cao tuổi

2.4.1 Các kết luận rút ra từ các nội dung báo cáo, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học về người cao tuổi:

Chăm sóc người cao tuổi và chính sách liên quan đến họ tại Việt Nam đang thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước Các nghiên cứu này, dù có quy mô và thời gian khác nhau, đều tập trung vào vấn đề già hóa dân số và đặc điểm của người cao tuổi, bao gồm khái niệm, phân loại, chất lượng sống, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, mối quan hệ với gia đình và chính sách đối với người cao tuổi Chúng cũng mô tả thực trạng đời sống của người cao tuổi và đưa ra các khuyến nghị chính sách Những nghiên cứu này cung cấp cái nhìn đa chiều và là nguồn tài liệu quý giá cho những ai quan tâm đến lao động và sự tham gia xã hội của người cao tuổi.

Các báo cáo chính sách về già hóa dân số do UNFPA, WHO và VNCA thực hiện nhằm cung cấp bằng chứng khoa học cho việc xây dựng chính sách dân số Những báo cáo này tập trung vào phân tích thực trạng già hóa và dân số cao tuổi, đồng thời xem xét các chính sách quốc gia liên quan đến người cao tuổi thông qua việc mô tả và phân tích số liệu thống kê về biến đổi dân số tại Việt Nam.

Các nghiên cứu về người cao tuổi thường sử dụng kết quả từ phân tích mô hình hồi quy và mô phỏng vi mô để hỗ trợ cho các tranh luận về chính sách và chứng minh kết quả nghiên cứu Đề tài này được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau trong các ngành khoa học, với dữ liệu từ bảng câu hỏi được mã hóa và xử lý trên phần mềm SPSS for Windows Phân tích dữ liệu bao gồm các phương pháp thống kê mô tả, giúp cung cấp cái nhìn sâu sắc về vấn đề người cao tuổi.

Trong nghiên cứu, các nhà nghiên cứu thường áp dụng các phương pháp phân tích thống kê như phân tích thống kê mô tả, kiểm định Khi bình phương (Chi-Square), kiểm định giả thuyết về trị trung bình của hai tổng thể (independent-samples T-test), phân tích phương sai một chiều (one-way ANOVA) và phân tích tương quan hai biến (bivariate correlate analysis) Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu định tính như phỏng vấn sâu và chọn mẫu thuận tiện cũng được sử dụng để xây dựng lý thuyết nền và bảng câu hỏi định lượng Các lý thuyết trong các đề tài nghiên cứu rất đa dạng, bao gồm lý thuyết hệ thống của Talcott Parsons, lý thuyết lựa chọn hợp lý, lý thuyết nhu cầu của Maslow, lý thuyết cộng đồng chính sách và lý thuyết chính sách dựa trên bằng chứng, cùng với bảng phân loại sức khỏe.

Phân tích các báo cáo này chủ yếu dựa vào số liệu thứ cấp từ các cuộc điều tra có quy mô và tính đại diện khác nhau, cùng với tài liệu liên quan Các báo cáo sử dụng số liệu đại diện quốc gia, như từ Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở, và Điều tra mức sống dân cư Việt Nam Thêm vào đó, thông tin từ các cuộc điều tra quy mô nhỏ hơn cũng được sử dụng để minh họa cho một số nội dung phân tích Tuy nhiên, đây là một hạn chế do sự đa dạng và phức tạp của các vấn đề liên quan đến già hóa dân số và người cao tuổi Việt Nam, dẫn đến sự không tương thích về định nghĩa, cách đo lường và quy mô mẫu giữa các nguồn số liệu khác nhau.

Mô hình "già hóa thành công" của Rowe và Kahn (UNFPA, 2011) được khuyến nghị áp dụng trong phân tích và xây dựng chính sách ứng phó với già hóa dân số tại Việt Nam Nghiên cứu này nhấn mạnh rằng sự thành công trong việc thích ứng với dân số già hóa phụ thuộc vào khả năng của các chính sách, chiến lược và chương trình dành cho người cao tuổi trong việc đảm bảo sự tham gia và mang lại lợi ích cho họ Ba mặt chính cần chú trọng là sức khỏe (giảm tỷ lệ tàn tật và ốm đau), xã hội (khuyến khích người cao tuổi tham gia hoạt động xã hội) và kinh tế (ổn định thu nhập và tham gia vào các hoạt động kinh tế).

Hình 1 Mô hình “Già hóa thành công” của Rowe và Kahn (1998)

Nguồn: UNFPA (2011) Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam - Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách

Theo mô hình này, sự giao thoa giữa các chính sách nhằm thực hiện ba mặt quan trọng càng tăng lên, thể hiện qua diện tích tam giác ở giữa, thì chính sách đó càng thành công Nếu một chính sách được thực hiện tốt nhưng tách rời khỏi các chính sách khác, thì không được coi là thành công trong việc giải quyết vấn đề dân số già hóa Ví dụ, nếu đời sống kinh tế tăng nhanh nhưng đời sống xã hội kém hoặc sức khỏe yếu, thì đó vẫn được xem là thất bại Tại Việt Nam, các chính sách tác động vào ba mặt này được chia thành ba nhóm chính, bao gồm nhóm chính sách an sinh xã hội nhằm đảm bảo an ninh thu nhập.

Nhóm chính sách dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tập trung vào việc đảm bảo sức khỏe và tinh thần cho người cao tuổi, trong khi nhóm chính sách thể chế nhằm tăng cường sự tham gia cộng đồng của họ.

Tổng quan về chính sách của Việt Nam đối với người cao tuổi cho thấy sự chú trọng đến lao động và tham gia xã hội của nhóm đối tượng này Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng người cao tuổi có thể đóng góp tích cực cho cộng đồng, tuy nhiên, cần có các chính sách hỗ trợ phù hợp để khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia vào các hoạt động lao động và xã hội.

Người cao tuổi vẫn mong muốn tham gia vào thị trường lao động để tăng thu nhập, phát huy kiến thức và giảm bớt cảm giác cô đơn.

Người cao tuổi chủ yếu tham gia vào các công việc gia đình như nội trợ và trông cháu, trong đó nam giới ít tham gia hơn so với nữ giới Tại khu vực nông thôn, ngoài các công việc gia đình, họ còn tham gia lao động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp.

Người cao tuổi thường tích cực tham gia vào các hoạt động xã hội, bao gồm việc đi lễ chùa, tham gia hội làng và tham gia các câu lạc bộ dưỡng sinh Những hoạt động này không chỉ giúp họ duy trì sức khỏe mà còn tạo cơ hội giao lưu, kết nối với cộng đồng.

Các văn bản chính sách và luật pháp khẳng định vai trò thiết yếu của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi Tuy nhiên, nhóm người cao tuổi thuộc diện yếu thế cần được đảm bảo các nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở và đi lại Do đó, Nhà nước cần giữ vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ những người cao tuổi cô đơn, không nơi nương tựa, cũng như những người không có lương hưu hoặc các trợ cấp khác.

2.4.2 Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về người Hoa cao tuổi:

Các báo cáo và công trình nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng trong việc tiếp thu các giá trị nghiên cứu Tuy nhiên, tác giả nhận thấy vẫn còn nhiều nội dung cần được quan tâm hơn khi tiến hành nghiên cứu sâu về người cao tuổi.

Nghiên cứu hiện tại thường xem người cao tuổi như nhóm yếu thế cần hỗ trợ từ gia đình và cộng đồng, trong khi vai trò tích cực của họ trong lao động và hoạt động xã hội chưa được chú trọng Mặc dù người cao tuổi đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc con cháu và tham gia vào các mạng lưới xã hội để tìm kiếm hỗ trợ vật chất và tinh thần, nhưng cần có nhiều nghiên cứu hơn để khám phá tiềm năng của họ trong việc thích ứng với tình trạng "già hóa dân số" ở Việt Nam.

Thứ hai, các nghiên cứu này tập trung nghiên cứu những vấn đề của người cao tuổi Việt

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Câu hỏi nghiên cứu chính được đưa ra là: "Những đặc điểm của sự tham gia lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại quận 5 hiện nay là gì? Nguyên nhân nào dẫn đến những đặc trưng này trong lao động và hoạt động xã hội của người Hoa cao tuổi ở khu vực này?"

Trên cơ sở câu hỏi nghiên cứu chung này, tác giả đề tài đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu cụ thể, gồm:

(1) Các loại hình tham gia lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại quận

5 hiện nay gồm những hoạt động nào?

(2) Lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi ở quận 5 thường tập trung vào những loại hình nào?

(3) Nguyên nhân nào làm cho người Hoa cao tuổi có các đặc trưng về lao động và tham gia xã hội như vậy?

MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Mục đích nghiên cứu

Mục đích của nghiên cứu này là khám phá lao động và sự tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người Hoa cao tuổi tại quận 5, cũng như người cao tuổi nói chung, để họ có thể phát huy tính tích cực và đóng góp hiệu quả vào cộng đồng.

Mục tiêu cụ thể

Để đạt được mục đích nghiên cứu này, đề tài có các mục tiêu cụ thể như sau:

- Liệt kê các hoạt động người Hoa cao tuổi tham gia trong các lĩnh vực

- Mô tả đặc trưng lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại quận 5

- Giải thích nguyên nhân người Hoa cao tuổi có đặc trưng lao động và tham gia xã hội như vậy

Để tạo điều kiện cho người Hoa cao tuổi tại quận 5 và người cao tuổi nói chung tham gia lao động và hoạt động xã hội, cần đề xuất một số giải pháp thiết thực Trước hết, cần xây dựng các chương trình đào tạo nghề phù hợp với khả năng và nhu cầu của người cao tuổi Thứ hai, tạo ra các cơ hội việc làm linh hoạt, giúp họ dễ dàng tham gia mà không bị áp lực thời gian Thứ ba, khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và các tổ chức xã hội trong việc tổ chức các hoạt động giao lưu, văn hóa, thể thao để người cao tuổi có thể kết nối và chia sẻ kinh nghiệm Cuối cùng, cần có chính sách hỗ trợ từ chính quyền địa phương nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho người cao tuổi tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội.

ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mô tả các đặc trưng lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi.

Khách thể nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là người Việt gốc Hoa từ 60 tuổi trở lên, hiện đang sinh sống và tham gia vào các hoạt động kinh tế, văn hóa và xã hội tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.

Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu hiện tại tập trung vào người Hoa cao tuổi sinh sống và làm việc tại Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, những người tham gia đa dạng các hoạt động như sản xuất kinh doanh, văn hóa, thể thao, và các tổ chức chính trị - xã hội như Hội Người cao tuổi, Hội Liên hiệp phụ nữ và các hội từ thiện.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này tập trung vào người Hoa cao tuổi tại Quận 5, nhằm mô tả đặc trưng lao động và tham gia xã hội của họ Tác giả tiếp cận các nhóm ngôn ngữ Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và Hẹ - Hakka để tìm hiểu sự khác biệt trong lao động và tham gia xã hội Phương pháp phỏng vấn sâu được lựa chọn, với mẫu nghiên cứu là các trường hợp điển hình dựa trên các yếu tố nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi, thu nhập và tình trạng hôn nhân Tác giả sẽ phỏng vấn những người Hoa cao tuổi theo các trường hợp điển hình cụ thể.

- Về giới tính, tác giả phỏng vấn chia ra 2 nhóm: nam và nữ

- Về độ tuổi, tác giả phỏng vấn các đối tượng chia theo 3 nhóm: từ 60 đến 69 tuổi, từ 70 đến 79 tuổi và từ 80 tuổi trở lên

Bài viết phân loại thu nhập của các cụ thành hai nhóm: nhóm thứ nhất là những người có thu nhập chủ yếu từ lương hưu và công việc, trong khi nhóm thứ hai là những cụ không có thu nhập, sống nhờ vào sự chăm sóc và hỗ trợ từ con cháu.

- Về tình trạng hôn nhân, tác giả phỏng vấn theo 3 nhóm: nhóm đã có gia đình, nhóm độc thân và nhóm góa

Tác giả đã chọn các đáp viên là người Hoa tham gia Hội Người cao tuổi Quận 5 để tiến hành phỏng vấn Sau đó, nhờ những đáp viên này giới thiệu thêm những người phù hợp với tiêu chí đã đề ra Tuy nhiên, do không phải là người Hoa và không biết tiếng Hoa, tác giả gặp nhiều khó khăn trong quá trình tiếp cận và phỏng vấn Kết quả, tác giả chỉ phỏng vấn được 7 người, nhưng những trường hợp này vẫn đảm bảo tiêu chí lựa chọn mẫu ban đầu.

Trong quá trình phỏng vấn, tác giả tiếp cận đối tượng bằng cách giải thích rõ ràng mục đích và nội dung câu hỏi, nhằm khơi gợi sự sẵn sàng trả lời từ người được phỏng vấn Tác giả cũng linh hoạt đặt thêm câu hỏi bổ sung quan trọng để thu thập thông tin đánh giá sâu hơn về đối tượng khảo sát, bên cạnh những câu hỏi đã được chuẩn bị trước.

Sau khi thực hiện phỏng vấn sâu, tác giả tiến hành phân tích và tổng hợp thông tin từ các câu trả lời của đáp viên, so sánh dữ liệu theo các yếu tố nhân khẩu học để rút ra những kết quả nghiên cứu có giá trị.

Đề tài này còn áp dụng phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp, trong đó tác giả tập trung vào việc thu thập kết quả nghiên cứu và số liệu phân tích từ các nghiên cứu hiện có Điều này bao gồm các báo cáo về người cao tuổi Việt Nam trong và ngoài nước, văn bản của Nhà nước, chính sách liên quan đến người cao tuổi, cùng với các báo cáo số liệu từ quận 5 về tình hình người cao tuổi tại địa phương Những tài liệu này sẽ được tham khảo và tổng hợp để làm cơ sở cho nội dung nghiên cứu.

Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu này cung cấp thông tin về hoạt động lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại quận 5, góp phần làm phong phú thêm dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo Kết quả sẽ giúp mô tả rõ nét hơn về các hoạt động hàng ngày của nhóm đối tượng này và hiểu rõ hơn về đặc trưng của họ.

Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính tích cực và hiệu quả lao động, cũng như sự tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi và người cao tuổi nói chung tại quận 5 Những giải pháp này sẽ góp phần giúp người cao tuổi thích ứng với xu thế già hóa dân số hiện nay.

KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Kết cấu của luận văn gồm có 3 phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận

Phần mở đầu của luận văn giới thiệu lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu, tổng quan tài liệu có liên quan, đặt ra câu hỏi nghiên cứu, xác định mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu Từ đó, luận văn xác định đối tượng và khách thể nghiên cứu, phương pháp áp dụng, đồng thời nêu rõ ý nghĩa khoa học của đề tài.

Luận văn tập trung vào ba nội dung chính: Thứ nhất, trình bày cơ sở lý luận với các khái niệm và lý thuyết liên quan, từ đó đưa ra giả thuyết nghiên cứu Thứ hai, mô tả địa bàn nghiên cứu và thực trạng đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người cao tuổi tại Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh Cuối cùng, nội dung thứ ba phân tích kết quả nghiên cứu về lao động và sự tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại Quận 5.

Cuối cùng, bài viết sẽ tổng kết các kết luận từ nghiên cứu và đưa ra những khuyến nghị liên quan đến vấn đề lao động và sự tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi tại Quận 5.

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

CÁC KHÁI NIỆM, LÝ THUYẾT SỬ DỤNG TRONG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1.1 Khái niệm về “người cao tuổi”

Theo quan điểm y học, sự già hóa là quá trình diễn ra khác nhau ở mỗi người, không có một ngưỡng tuổi già chung cho tất cả Tuy nhiên, nhìn chung, sự già hóa có những đặc điểm chung mà mọi người đều trải qua.

Lão hóa thực thể sống có thể được hiểu theo nhiều khía cạnh Từ góc độ tâm lý học, nó thể hiện cảm nhận về sự cạn kiệt của tri giác sáng tạo Trong khi đó, từ khía cạnh vận động cơ học, lão hóa đồng nghĩa với việc bước vào giai đoạn di chuyển chậm và khả năng thích ứng xã hội kém.

Người cao tuổi là nhóm đối tượng trong giai đoạn lão hóa, thường đi kèm với sự suy giảm chức năng cơ thể Theo Luật Người cao tuổi có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2010, người cao tuổi được định nghĩa là công dân Việt Nam từ 60 tuổi trở lên.

Theo Trịnh Duy Luân, tuổi già không chỉ là một hiện tượng sinh lý tự nhiên mà còn mang tính chất xã hội sâu sắc Thời kỳ này trong cuộc đời mỗi con người được đặc trưng bởi những đặc điểm xã hội quan trọng.

- Sự rời bỏ hoạt động nghề nghiệp

- Sự thay đổi địa vị trong xã hội

- Sự thay đổi lối sống nói chung và định hướng giá trị nói riêng

- Sự thay đổi những chức năng, vai trò của cá nhân trong gia đình

Từ góc độ xã hội học, tác giả phân tích vai trò của người cao tuổi trong quá trình già hóa, đồng thời xem xét các tác động của già hóa đến họ trên các lĩnh vực kinh tế, việc làm, tinh thần, xã hội, sức khỏe và chất lượng cuộc sống Nghiên cứu này giúp làm rõ sự thay đổi trong vị trí và vai trò xã hội của người cao tuổi, cũng như những hành vi, định hướng giá trị và các vấn đề mà họ thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.

Lao động được định nghĩa là hoạt động có mục đích của con người nhằm sản xuất các sản phẩm vật chất và tinh thần phục vụ xã hội Theo Bộ luật Lao động 2019, người lao động cao tuổi là những cá nhân tiếp tục làm việc sau độ tuổi nghỉ hưu, theo quy định tại Điều 148 và Điều 169.

Công việc nội trợ, theo Điều 16 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, là nhiệm vụ chung của tất cả các thành viên trong gia đình, mang tính cộng đồng cao và tích hợp các yếu tố từ gia đình, nhà trường đến xã hội Người thực hiện công việc này thường là người gần gũi, có trách nhiệm nuôi dạy con cái và đảm bảo sức khỏe, dinh dưỡng cho các thành viên Họ đảm nhận nhiều nhiệm vụ như quản lý tài chính, nấu ăn, lập thực đơn, tiếp khách, giặt giũ và dọn dẹp nhà cửa Qua đó, công việc nội trợ không chỉ tạo ra sản phẩm vật chất mà còn góp phần duy trì cuộc sống và hạnh phúc gia đình.

Trong nghiên cứu về lao động của người cao tuổi, tác giả chú trọng đến các hoạt động tạo ra thu nhập và không tạo ra thu nhập Những hoạt động này bao gồm công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, dạy dỗ con cháu, cũng như tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, câu lạc bộ, hội thiện nguyện và các cơ sở tôn giáo.

1.1.3 Khái niệm và đặc trưng người Hoa

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm "Người Hoa" Trong các tài liệu nghiên cứu, thuật ngữ "Overseas Chinese" trong tiếng Anh và "Résident Chinois" trong tiếng Pháp được sử dụng để chỉ những người Trung Quốc di cư chưa có quốc tịch bản địa, nhằm phân biệt với những nhóm khác.

"Chinese Overseas," also known as "Ressorts Chinois," refers to immigrants of Chinese descent who have obtained local citizenship Other sources may refer to them as "Ethnic Chinese," a term also recognized by the Japanese.

Người Hoa, hay còn gọi là "Kakyo" (Hoa kiều), tự xưng là Huā rén Trong tác phẩm "Gia Định thành thông chí", tác giả Trịnh Hoài Đức đã sử dụng thuật ngữ "Hoa dân" để chỉ những người Hoa sinh sống tại Việt Nam.

"Đường nhân" là thuật ngữ chỉ người Trung Quốc, trong khi ở Việt Nam, "Người Hoa" là tên gọi phổ biến được sử dụng trong các tài liệu chính thống Ngoài ra, trong dân gian, người Trung Quốc còn được gọi bằng các tên khác như "Tàu" và "Khách trú".

Khái niệm "Người Hoa" hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi Một số ý kiến cho rằng, người Hoa là những người Hán từ Trung Quốc di cư sang các quốc gia khác, đã nhập quốc tịch nơi cư trú nhưng vẫn giữ lại một số yếu tố văn hóa truyền thống của Trung Hoa Trong khi đó, một quan điểm khác mở rộng khái niệm này để chỉ chung tất cả những người di cư từ Trung Hoa đã trở thành công dân của quốc gia nơi họ sinh sống.

Theo các nhà nghiên cứu, người Hoa ở Nam Bộ, đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, có nguồn gốc từ người Hán và các dân tộc thiểu số ven biển phía Nam Trung Hoa Bên cạnh đó, còn có những quan quân nhà Minh không thần phục nhà Thanh, cùng với các nho sĩ, thương nhân và nghệ nhân tìm kiếm cơ hội mưu sinh và lập nghiệp tại đây.

Từ các nguồn tư liệu nghiên cứu, tác giả tổng hợp các yếu tố cho khái niệm người Hoa ở Việt Nam như sau:

Người gốc Hán và những người đã "Hán hóa" từ Trung Quốc đã di cư sang Việt Nam từ lâu, họ đã định cư và trở thành công dân Việt Nam.

- Con cháu của những người nói trên sinh ra, lớn lên ở Việt Nam, có quốc tịch Việt Nam

- Họ vẫn còn giữ một số đặc trưng văn hóa của người Hán, như ngôn ngữ, phong tục tập quán…

- Họ tự nhận mình là người Hoa (khác với người Trung Quốc)

GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG PHÂN TÍCH

Dựa trên các câu hỏi nghiên cứu và tiếp cận lý thuyết, tác giả đưa ra giả thuyết rằng việc lựa chọn, mức độ tham gia lao động và xã hội của người Hoa cao tuổi bị ảnh hưởng bởi vị thế của họ trong gia đình và xã hội, đặc trưng cá nhân và các thiết chế xã hội Khi vị thế của người Hoa cao tuổi suy giảm, họ có nhu cầu tìm kiếm cơ hội lao động và tham gia xã hội để khôi phục hoặc xác định lại vị thế của mình Quá trình lựa chọn hình thức lao động và tham gia xã hội cũng bị tác động bởi các yếu tố đặc trưng và thiết chế xã hội Để phân tích thông tin thu thập được, tác giả đã chia nhỏ các ý trong giả thuyết nghiên cứu.

Giả thuyết 1 cho rằng sự suy giảm vị thế của người Hoa cao tuổi trong gia đình và xã hội dẫn đến nhu cầu lao động và tham gia xã hội Điều này giúp họ tìm lại vị thế cũ hoặc khám phá vị thế mới thay thế cho vị thế đã mất.

Hình 3 Tác động của vị thế đến lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi

Giả thuyết 2 đề xuất rằng các đặc trưng của người Hoa cao tuổi có tác động đáng kể đến việc họ lựa chọn và mức độ tham gia vào lao động cũng như hoạt động xã hội Những yếu tố này có thể bao gồm sức khỏe, trình độ học vấn, và các mối quan hệ xã hội, từ đó ảnh hưởng đến khả năng và quyết định tham gia của họ trong cộng đồng.

Người Hoa cao tuổi có điều kiện kinh tế ổn định thường tham gia tích cực vào lao động và các hoạt động xã hội, trong khi những người cao tuổi có hoàn cảnh kinh tế khó khăn chủ yếu tập trung vào các hoạt động tạo ra thu nhập.

Người Hoa cao tuổi có sức khỏe tốt thường tích cực tham gia lao động và các hoạt động xã hội, trong khi những người có sức khỏe kém thường chọn ở nhà và ít tham gia hơn vào những hoạt động này.

- Người Hoa cao tuổi góa hoặc độc thân tham gia nhiều hơn vào các hoạt động tạo ra thu nhập và các hoạt động xã hội khác

Giới tính ảnh hưởng đến sự tham gia lao động và xã hội của người Hoa cao tuổi, với nam giới tham gia ít hơn vào công việc gia đình so với nữ giới Trong khi nam giới chủ yếu tham gia các hoạt động ngoài xã hội, nữ giới lại tập trung vào các công việc nội trợ và chăm sóc cháu.

Người Hoa cao tuổi, đặc biệt là những người có trình độ học vấn cao, thường là những người đã nghỉ hưu hoặc từng đảm nhiệm các vị trí quan trọng trong công việc, có xu hướng tham gia lao động và hoạt động xã hội nhiều hơn.

Người Hoa cao tuổi trong cộng đồng cư dân địa phương tham gia lao động và hoạt động xã hội, từ đó hòa nhập vào hệ thống văn hóa xã hội của khu vực Sự tham gia này không chỉ giúp duy trì tính liên tục mà còn làm phong phú thêm sự đa dạng của văn hóa người Hoa thông qua các mối quan hệ tương tác xã hội.

Người Hoa cao tuổi trong cộng đồng dân tộc của họ tích cực tham gia vào các hoạt động của họ tộc và hội đoàn, nhằm củng cố mối liên hệ gia đình, đồng thời gìn giữ, lưu truyền và giáo dục các truyền thống văn hóa cho thế hệ con cháu.

Người Hoa cao tuổi rất coi trọng tôn giáo, tín ngưỡng và các tập tục, lễ nghi truyền thống Do đó, các hoạt động của họ thường gắn liền với lễ lạc, thờ cúng, thiện nguyện và những nghệ thuật truyền thống như thư pháp, múa dưỡng sinh và xã đoàn.

Hình 4 Đặc trưng của người Hoa cao tuổi tác động đến lao động và tham gia xã hội

Giả thuyết 3 cho rằng các tổ chức chính trị - xã hội, câu lạc bộ - đội nhóm, và các cơ sở y tế cùng chăm sóc xã hội tại địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người cao tuổi Những nguồn lực này giúp họ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn và tham gia vào nhiều hình thức lao động cũng như hoạt động xã hội.

Hình 5 Các thiết chế xã hội tác động đến lao động và tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi

Từ giả thuyết trên, tác giả đưa ra khung phân tích như sau:

SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU

VÀ THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA CAO TUỔI

TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

1 SƠ LƯỢC VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU VÀ LƯỢC SỬ ĐỊNH CƯ CỦA NGƯỜI HOA TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Người Hoa đã xuất hiện ở Nam Bộ từ những năm 70 của thế kỷ XVII, chủ yếu là binh lính, quan lại, nông dân, thợ thủ công, nho sĩ và thương nhân không muốn sống dưới sự cai trị của nhà Thanh Hai nhóm quân đội nổi bật trong số đó là nhóm của Mạc Cửu, với hơn 400 người lập nghiệp ở Hà Tiên từ năm 1671, và nhóm của Trần Thượng Xuyên – Dương Ngạn Địch, khoảng 3.000 người, được phép của Triều đình Nhà Nguyễn từ năm 1679, đã khai khẩn và phát triển vùng đất Biên Hòa, Gia Định, Mỹ Tho.

Cuộc di dân của người Hoa đến Nam Bộ kéo dài suốt ba thế kỷ, chủ yếu từ các vùng duyên hải phía Nam Trung Hoa như Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu và đảo Hải Nam Vào khoảng năm 1780, triều đình Nguyễn Ánh – Gia Long đã ưu đãi người Hoa để tri ân sự ủng hộ của họ trong cuộc chiến chống Tây Sơn, dẫn đến sự gia tăng nhập cư của người Hoa vào Nam Bộ Họ tập trung ở các thành phố lớn như Sài Gòn – Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh), cù lao Phố Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Sóc Trăng và Hà Tiên, thường cư trú xen kẽ với người Việt và các dân tộc khác Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định Thành Thông chí” đã mô tả Nông Nại Đại phố, một đô thị sầm uất do thương nhân người Hoa xây dựng tại cù lao Đồng Nai, với kiến trúc gạch, mái ngói và các hoạt động buôn bán nhộn nhịp.

Người Hoa ở khu vực Đồng Nai đã mở rộng sinh hoạt và cư trú ra vùng Đông Nam Bộ, nhiều người từ các địa phương khác cũng chuyển cư về Sài Gòn Họ sống dọc theo kênh Tàu Hủ và khu vực Chợ Lớn Khoảng năm 1858 – 1860, Chợ Lớn trở thành một trung tâm thương mại sôi động, nơi người Hoa tận dụng lợi thế của mình, theo nhận xét của Henri de Ponchalon.

Khu vực Chợ Lớn, nằm ở Thành phố Hồ Chí Minh, chủ yếu là nơi sinh sống của cộng đồng người Hoa, bao gồm các quận 5, 6 và 11 Trong đó, Quận 5 được xem là trung tâm của Chợ Lớn, nơi tập trung nhiều trụ sở Hội quán của các nhóm ngôn ngữ khác nhau.

Quận 5 có vị trí địa lý tiếp giáp với các khu vực xung quanh như: Phía Tây Bắc giáp Quận 10 và Quận 11, ranh giới là đường Hùng Vương và đường Nguyễn Chí Thanh; phía Đông giáp Quận 1, ranh giới là đường Nguyễn Văn Cừ và giáp Quận 4 qua một đoạn nhỏ kênh Bến Nghé; phía Nam giáp kênh Tàu Hủ, ngăn cách với Quận 8; phía Tây giáp với Quận 6 bởi đường Nguyễn Thị Nhỏ, Ngô Nhân Tịnh và bến xe Chợ Lớn 13 Ủy ban nhân dân Quận 5 được chính thức thành lập từ tháng 5 năm 1976 Trước năm 1975 toàn quận có 6 phường, năm 1976 chia thành 24 phường, đến năm 1986 chia lại thành 15 phường (Phường 1, Phường 2, Phường 3, Phường 4, Phường 5, Phường 6, Phường 7, Phường 8, Phường 9, Phường 10, Phường 11, Phường 12, Phường 13, Phường 14, Phường 15) Ngày 9/12/2020, theo Nghị quyết số 1111/NQ-UBTVQH14 ngày 9/12/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc thành phố Hồ Chí Minh, quận 5 thực hiện sáp nhập Phường 15 vào Phường 12 nên hiện nay quận 5 chỉ còn 14 phường

Với diện tích 4,27 km², dân số 159.073 người, trong đó dân tộc Hoa chiếm 29,3% quận

5 được xem là quận có người Hoa tập trung sinh sống đông đứng thứ 3 sau quận 11 và quận

Quận 5 là nơi tọa lạc của các trường trung học nổi tiếng như Trường Phổ thông Năng khiếu, THPT chuyên Lê Hồng Phong; các trường đại học lớn như Trường Đại học Khoa học

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sài Gòn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Sư phạm Thể dục Thể thao Thành phố Hồ Chí Minh, và Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh là những cơ sở giáo dục đại học nổi bật tại thành phố Hồ Chí Minh, với lịch sử và truyền thống giáo dục phong phú.

Quận 5 nổi bật với nhiều di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quan trọng, trong đó có các di tích cấp quốc gia như Khu trại giam bệnh viện Chợ Quán, nơi đồng chí Trần Phú hy sinh, và Nhà số 5 đường Châu Văn Liêm, nơi đồng chí Nguyễn Tất Thành ở trước khi ra đi tìm đường cứu nước Ngoài ra, quận còn có các Hội quán của người Hoa như Hội quán Nghĩa Nhuận, Hội quán Tuệ Thành (Chùa Bà), Hội quán Nghĩa An (Miếu Quan Đế), và nhiều hội quán khác như Hội quán Lệ Châu, Hội quán Quỳnh Phủ, Hội quán Hà Chương, Hội quán Ôn Lăng, Đình Minh Hương Gia Thạnh, và Miếu Nhị Phủ (Chùa Ông Bổn) Bên cạnh đó, các di tích cấp Thành phố như Chùa Thiên Tôn, Đình Tân Kiểng, Hội quán Phước An, Từ đường họ Lý, và Từ đường Phước Kiến cũng góp phần làm phong phú thêm giá trị văn hóa lịch sử của khu vực.

Quận 5 là một điểm đến du lịch nổi bật với nhiều địa danh thu hút du khách, bao gồm khách sạn 5 sao Windsor Plaza, khu phố cổ Hải Thượng Lãn Ông chuyên kinh doanh thuốc Bắc và vàng mã, cùng với Trung tâm Văn hóa Quận 5, nơi tổ chức lễ hội Tết Nguyên Tiêu hàng năm Ngoài ra, các chợ đầu mối lâu đời như Chợ Kim Biên, Chợ vải Soái Kình Lâm và Chợ An Đông không chỉ nổi tiếng mà còn là nơi cung cấp hàng hóa cho cả nước và các nước lân cận, góp phần biến quận 5 thành trung tâm mua sắm sầm uất của Thành phố Hồ Chí Minh.

Quận 5 là địa bàn có đông người Hoa cư trú, sinh sống từ khá sớm Trong quá trình định cư, cùng với người Việt, người Hoa đã có những đóng góp tích cực trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển quận 5, tạo nên nét văn hóa rất riêng của quận Vì vậy có thể nói người Hoa đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của quận 5 nói riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói chung

2 ĐỜI SỐNG VĂN HÓA, XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA TẠI QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Theo số liệu từ Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, số người Hoa tại thành phố đã giảm 31.000 người từ năm 2009 đến 2019, với tỷ trọng giảm từ 8,5% năm 1999 xuống còn 4,3% năm 2019 Tại quận 5, số người Hoa giảm từ 72.000 người năm 1999 xuống còn khoảng 47.000 người vào năm 2019 Kết quả điều tra năm 2019 cho thấy người Hoa có tỷ lệ kết hôn thấp nhất cả nước (66,1%) và xu hướng sinh con muộn, với mức sinh ở nhóm tuổi 15-19 chỉ đạt 8 con/1.000 phụ nữ Việc di cư từ nội thành ra ngoại thành cũng gia tăng, góp phần làm giảm dân số người Hoa, đặc biệt tại quận 5.

Qua nghiên cứu, người Hoa hiện nay cũng sinh hoạt theo 5 nhóm ngôn ngữ: Quảng Đông (chiếm khoảng 50%), Triều Châu (khoảng 30%), Hẹ - Hakka (khoảng 5%), còn lại là

Phúc Kiến và Hải Nam là hai nhóm người Hoa chủ yếu nói tiếng Quảng Đông và tiếng Triều Châu, trong khi tiếng Hải Nam và Hẹ ít được sử dụng, chủ yếu trong các buổi họp mặt Khi giao tiếp giữa các nhóm ngôn ngữ khác nhau, tiếng Quảng Đông thường là lựa chọn phổ biến Người Minh Hương, ngược lại, sử dụng tiếng Việt nhiều hơn Các hoạt động cộng đồng của người Hoa được duy trì qua các Hội quán như Hội quán Tuệ Thành (Quảng Đông), Hội quán Nghĩa An (Triều Châu), và Hội quán Hải Nam Đặc biệt, người Hoa Phúc Kiến được chia thành năm Hội quán, trong đó Hội quán Phước An chủ yếu nói tiếng Việt.

Hội quán đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa nghệ thuật của người Hoa, đồng thời là trung tâm văn hóa, giáo dục cộng đồng Mỗi nhóm ngôn ngữ có những cơ sở tín ngưỡng riêng, nơi thờ cúng các vị thần như Bà Thiên Hậu, Ông Quan Công, và Quảng Trạch Tôn Vương Với bề dày lịch sử và nghệ thuật chạm khắc độc đáo, các Hội quán đã được công nhận là di tích văn hóa, thể hiện tín ngưỡng dân gian phong phú của người Hoa.

Ban Quản trị Hội quán được đề xuất bởi các thành viên uy tín trong nhóm ngôn ngữ thông qua phiên đại hội 5 năm một lần, dưới sự hướng dẫn của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Quận 5 và được công nhận bởi quyết định của Ủy ban nhân dân Quận 5 Trưởng Ban Quản trị là người đứng đầu và có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng nhóm ngôn ngữ, tuy nhiên, quyền hạn của họ không bằng Ban hội, vì nhiều quyết định phải được tập thể Ban Quản trị thống nhất Tất cả Trưởng Ban Quản trị các Hội quán đều là thành viên của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc.

Quận 5 có sự tham gia của nhiều thành viên trong Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh và các tổ chức như Hội Chữ Thập Đỏ, Hội Khuyến học Ban Quản trị các Hội quán duy trì mối quan hệ với đồng hương tại Trung Quốc và các quốc gia khác, cùng với Lãnh sự quán Trung Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh Mỗi hai năm, các cuộc gặp gỡ đồng hương người Hoa trên toàn thế giới được tổ chức, với sự tham gia của Ban quản trị các Hội quán.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ LAO ĐỘNG

VÀ THAM GIA XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA TẠI QUẬN 5

1 ĐẶC TRƯNG VỀ LAO ĐỘNG VÀ THAM GIA XÃ HỘI CỦA NGƯỜI HOA CAO TUỔI TẠI QUẬN 5

1.1 Đặc điểm nhân khẩu học nhóm khách thể nghiên cứu:

Tác giả đã tiến hành nghiên cứu với nhóm khách thể gồm 7 người Hoa cao tuổi, trong đó độ tuổi thấp nhất là 64 và cao nhất là 85 Nhóm nghiên cứu này có những đặc điểm nhân khẩu học đa dạng, phản ánh sự phong phú trong trải nghiệm và quan điểm của người cao tuổi trong cộng đồng.

Về giới tính, tác giả phỏng vấn 4 đáp viên nữ (DV2, DV3, DV4, DV5) và 3 đáp viên nam (DV1, DV6, DV7)

Về độ tuổi, tác giả phỏng vấn chia theo 3 nhóm tuổi: nhóm 60 đến 69 tuổi có 1 đáp viên

(DV5), nhóm 70 đến 79 tuổi có 3 đáp viên (DV1, DV6, DV7), nhóm trên 80 tuổi có 3 đáp viên (DV2, DV3, DV4)

Về ngôn ngữ: đối tượng phỏng vấn thuộc nhóm ngôn ngữ Quảng Đông là 4 đáp viên

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã phỏng vấn các đáp viên từ ba nhóm ngôn ngữ khác nhau: một đáp viên thuộc nhóm ngôn ngữ Phúc Kiến (DV1, DV2, DV3, DV7), một đáp viên thuộc nhóm ngôn ngữ Triều Châu (DV5) và một đáp viên thuộc nhóm ngôn ngữ Hẹ - Hakka (DV4, DV6).

Về tình trạng hôn nhân: trong nhóm khách thể nghiên cứu có 3 người đã lập gia đình

Trong số những người tham gia khảo sát, có 2 người góa và 2 người độc thân Tất cả đều nhận được sự chăm sóc từ con cháu, riêng 2 người Hoa cao tuổi độc thân vẫn sống cùng gia đình anh chị em ruột và được con cháu của họ chăm sóc tận tình.

Người Hoa cao tuổi có 4 nguồn thu nhập chính: lương hưu, kinh doanh sản xuất, cho thuê nhà và các khoản phụ cấp từ chức danh cộng đồng Đặc biệt, một số người vẫn quản lý kinh doanh dù đã trên 70 tuổi Mọi đáp viên đều có thêm thu nhập từ ít nhất 2 nguồn, bao gồm phụ cấp hàng tháng cho các chức danh trong cộng đồng và trợ cấp xã hội theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP Nhìn chung, nhóm người Hoa cao tuổi này có cuộc sống ổn định, với nhiều người tự nhận định cuộc sống “ổn định”, “tạm ổn” hoặc “đủ sống”, không ai rơi vào tình trạng nghèo.

Người Hoa cao tuổi thể hiện đặc trưng lao động và tham gia xã hội thông qua các công việc hàng ngày, bao gồm cả những hoạt động tạo ra thu nhập và không có thu nhập Họ cũng tích cực tham gia vào việc giữ gìn và xây dựng mối quan hệ trong gia đình, đồng thời giao tiếp với cộng đồng xung quanh.

1.2 Lao động trong người Hoa cao tuổi:

Trong nghiên cứu về lao động của người Hoa cao tuổi, tác giả chú trọng đến các hoạt động tạo ra thu nhập và không tạo ra thu nhập Những hoạt động này bao gồm việc nội trợ, chăm sóc gia đình, dạy dỗ con cháu, cũng như tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, câu lạc bộ, hội thiện nguyện và cơ sở tôn giáo.

Dựa trên dữ liệu thu thập từ nhóm khách thể nghiên cứu, tác giả đã xác định được các loại hình lao động và sự tham gia xã hội của người Hoa cao tuổi hiện nay.

Lao động tạo ra thu nhập bao gồm hoạt động kinh doanh, sản xuất và cho thuê nhà Ngoài ra, các cụ còn tham gia vào các tổ chức chính trị - xã hội tại địa phương và nhận phụ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước cho các chức danh như Bí thư Chi bộ, Trưởng Khu phố, Trưởng Ban Công tác Mặt trận và Tổ trưởng Tổ dân phố theo quy định tại Nghị định số.

Ủy ban nhân dân thành phố đã ra 17 quyết định công nhận Quận 5 hoàn thành mục tiêu không còn hộ cận nghèo theo chuẩn Thành phố trong giai đoạn 2019 – 2020 Điều này có nghĩa là toàn quận không còn hộ dân nào có thu nhập bình quân đầu người dưới 36 triệu đồng.

Nghị định 34/2019/NĐ-CP, ban hành ngày 24/4/2019, quy định về việc sửa đổi và bổ sung một số điều liên quan đến cán bộ, công chức cấp xã cùng với những người hoạt động không chuyên trách tại cấp xã, thôn và tổ dân phố Nghị định này nhằm cập nhật và điều chỉnh các quy định đã được nêu trong Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn hiện nay.

Người Hoa cao tuổi đóng vai trò quan trọng trong việc nội trợ gia đình, bao gồm quản lý tài chính, nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, dạy dỗ và trông coi các cháu, cũng như đưa đón các cháu đi học và quản lý cửa hàng Khi được phỏng vấn về công việc hàng ngày tại nhà, các cụ ông cụ bà đều chia sẻ những nhiệm vụ này như một phần thiết yếu trong cuộc sống gia đình.

DV1: “…Cái thứ hai, trông con cháu Đối với người Việt cũng vậy thôi, lớn tuổi trông con cháu chứ làm gì”

DV2: “… thì có khi nó ở dưới nó mua gì cho tui thì tui ăn, còn có khi thì tui nấu tui nói

“Thôi bữa nay má có nấu canh thì má tự nấu má tự ăn” (cười) Chớ bây giờ nó mắc làm công chuyện đồ kia mình cũng hổng ấy”

DV4: “Cơm nước thì có mấy đứa ở trong nhà lo, cũng có phụ ngó chừng nhà chừng cửa vậy thôi, quét dọn sạch sẽ vậy thôi.”

DV5: "Vì vậy, nhiều khi khi mẹ nó đi rước, hay khi chồng nó bận mua sắm hoặc đi công việc, Tư thường phải ở lại giữ tiệm."

DV6: "Hai ông bà cần chăm sóc lẫn nhau, vì con cái sáng đi làm không có thời gian Thêm vào đó, mình còn phải lo cho hai đứa cháu ngoại nữa Sáng mẹ chúng đi làm, ba chúng cũng đi làm, ai sẽ chăm sóc chúng?"

DV7 thường dành thời gian ở nhà để quét dọn và chăm sóc cháu, bao gồm cả việc đón cháu về học Bên cạnh đó, DV7 cũng tham gia vào những công việc phù hợp với sức khỏe của mình.

Người Hoa cao tuổi không chỉ thực hiện các công việc nội trợ hàng ngày mà còn tham gia vào nhiều hoạt động theo sở thích như tập thể dục, đi bộ, đạp xe và tập dưỡng sinh Họ thường xem ti-vi, đọc báo, chăm sóc cây cảnh, giao lưu với bạn bè và người thân, đi lễ chùa, du lịch, cũng như tham gia các hoạt động văn nghệ Đặc biệt, họ tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng do địa phương tổ chức, bao gồm tổng vệ sinh khu phố, họp tổ dân phố và các sự kiện của các đoàn thể như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Khuyến học, Hội Chữ Thập Đỏ và các câu lạc bộ sở thích.

Ngày đăng: 09/08/2021, 15:49

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Drs. Linda K. George and Kenneth F. Ferraro. (2015). Handbook of Aging and the Social Sciences 8 th editons. Elsevier publishers Sách, tạp chí
Tiêu đề: Handbook of Aging and the Social Sciences
Tác giả: Linda K. George, Kenneth F. Ferraro
Nhà XB: Elsevier publishers
Năm: 2015
2. Đinh Tuấn Việt, Sesbatian Eckardt và Philip O’Keefe. (2016). Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam – Chuyên đề: Hướng tới cuộc sống khỏe mạnh và năng động cho người cao tuổi Việt Nam. World Bank Group Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam – Chuyên đề: Hướng tới cuộc sống khỏe mạnh và năng động cho người cao tuổi Việt Nam
Tác giả: Đinh Tuấn Việt, Sesbatian Eckardt, Philip O’Keefe
Nhà XB: World Bank Group
Năm: 2016
3. Giang Thanh Long and Wade Donald Pfau. (2007). “The Elderly Population in Vietnam during Economic Transformation: An Overview”. Chapter 7 in Giang, T. L., and K.H. Duong (eds.) Social Issues under Economic Integration and Transformation in Vietnam, Volume 1: 122-141. Hanoi: Vietnam Development Forum (VDF) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Social Issues under Economic Integration and Transformation in Vietnam, Volume 1
Tác giả: Giang Thanh Long, Wade Donald Pfau
Nhà XB: Vietnam Development Forum (VDF)
Năm: 2007
4. Ghazy Mujahid, Nguyễn Văn Tiên, Đặng Huy Hoàng. (2019), Toward a comprehensive ageing policy, UNFPA Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toward a comprehensive ageing policy
Tác giả: Ghazy Mujahid, Nguyễn Văn Tiên, Đặng Huy Hoàng
Nhà XB: UNFPA
Năm: 2019
6. Janet Z. Giele, Glen H. Elder Jr. (1998). Life Course Research Development of a Field, Methods of Life Course Research: Qualitative and Quantitative Approaches (pp. 5-27). SAGE Publications, Inc; 1 edition Sách, tạp chí
Tiêu đề: Methods of Life Course Research: Qualitative and Quantitative Approaches
Tác giả: Janet Z. Giele, Glen H. Elder Jr
Năm: 1998
7. Lyn Richards. (2015). Handling Qualitative Data : A Practical Guide. SAGE Publications, Inc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Handling Qualitative Data : A Practical Guide
Tác giả: Lyn Richards
Nhà XB: SAGE Publications, Inc
Năm: 2015
8. Mélanie Levasseur, Lucie Richard, Lise Gauvin and Émilie Raymondi. (2010). Inventory and Analysis of Definitions of Social Participation Found in the Aging Literature Sách, tạp chí
Tiêu đề: Inventory and Analysis of Definitions of Social Participation Found in the Aging Literature
Tác giả: Mélanie Levasseur, Lucie Richard, Lise Gauvin, Émilie Raymondi
Năm: 2010
9. Nicholas H. Woolf and Christina Silver. (2018). Series: Developing qualitative inquiry Qualitative Analysis, Using Nvivo: The five- level qda® method. Routledge Publisher Sách, tạp chí
Tiêu đề: Qualitative Analysis, Using Nvivo: The five-level qda® method
Tác giả: Nicholas H. Woolf, Christina Silver
Nhà XB: Routledge
Năm: 2018
10. Pat Baze and Lyn Richards. (2000). The Nvivo Qualitative Project Book, SAGE Publications, Inc; 3 edition Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Nvivo Qualitative Project Book
Tác giả: Pat Baze, Lyn Richards
Nhà XB: SAGE Publications, Inc
Năm: 2000
12. UNFPA. (2011). Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam - Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách. Ha Noi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Già hóa dân số và người cao tuổi ở Việt Nam - Thực trạng, dự báo và một số khuyến nghị chính sách
Tác giả: UNFPA
Nhà XB: Ha Noi
Năm: 2011
13. UNFPA và HelpAge International. (2012). Báo cáo tóm tắt: Già hóa trong Thế kỷ 21: Thành tựu và Thách thức. Ha Noi Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tóm tắt: Già hóa trong Thế kỷ 21: Thành tựu và Thách thức
Tác giả: UNFPA, HelpAge International
Nhà XB: Ha Noi
Năm: 2012
15. WTO. (2002). Active Ageing: A Policy Framework, A contribution of the World Health Organization to the Second United Nations World Assembly on Ageing, Madrid, Spain, April 2002.TÀI LIỆU TRONG NƯỚC Sách, tạp chí
Tiêu đề: Active Ageing: A Policy Framework
Tác giả: WTO
Nhà XB: World Health Organization
Năm: 2002
1. Bế Quỳnh Nga. (2005). Chiến lược sống của người cao tuổi trước những biến đổi của gia đình nông thôn hiện nay. Tạp chí Xã hội học, vol.1, no.89, tr. 65-72 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược sống của người cao tuổi trước những biến đổi của gia đình nông thôn hiện nay
Tác giả: Bế Quỳnh Nga
Nhà XB: Tạp chí Xã hội học
Năm: 2005
2. Bùi Nghĩa. (2018). Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ, Học viện Khoa học xã hội Hà Nội, 2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách đối với người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: Bùi Nghĩa
Năm: 2018
3. Bùi Thế Cường. (1994). Người cao tuổi và an sinh xã hội. NXB Khoa học xã hội Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người cao tuổi và an sinh xã hội
Tác giả: Bùi Thế Cường
Nhà XB: NXB Khoa học xã hội Hà Nội
Năm: 1994
5. Glen H. Elder Jr., Monica Kirkpatrick Johnson, Robert Crosnoe (auth.), Jeylan T Khác
11. Vern L. Bengtson, Merril Silverstein, Norella M. Putney and Daphna Gans. (2009). Handbook of Theories of Aging (pp. 31-32). Springer Publishing Company; 2 edition Khác
14. UNFPA. (2016) Summary assessment of UNFPA’s piloted community-based model on care for older people (Thông tin tóm tắt đánh giá mô hình thí điểm chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng của Quỹ dân số Liên Hợp quốc tại tỉnh Hải Dương và tỉnh Bến Tre áp dụng thí điểm từ 2013 đến 2015) Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w