Lịch sử nghiên cứu đề tài
Hoạt động đối ngoại là một yếu tố quan trọng trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng Việt Nam Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về ngoại giao và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công tác đối ngoại, đặc biệt là về quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Liên Xô.
- Sách về hoạt động ngoại giao Việt Nam
Cuốn sách "Ngoại giao Việt Nam (1945 – 1995)" của tác giả Lưu Văn Lợi, phát hành bởi Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2004, đã hệ thống hóa một cách khoa học các hoạt động đối ngoại của Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Tác phẩm này cung cấp cái nhìn tổng quan về sự phát triển và biến chuyển của ngoại giao Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử quan trọng.
Giai đoạn 1976 – 1985 được tác giả phân tích chi tiết về các hoạt động đối ngoại của Việt Nam, cùng với những vấn đề ảnh hưởng đến quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô.
Cuốn sách “Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000” do nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Đình Bin biên soạn (Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia, 2005) là tài liệu quý giá cho nghiên cứu về ngoại giao Việt Nam hiện đại Tác phẩm này nêu rõ đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và sáng tạo của ĐCSVN qua các giai đoạn cách mạng Nó khái quát quá trình Việt Nam tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô, đồng thời phản ánh mối quan hệ phức tạp với Trung Quốc và nỗ lực kiên trì của Việt Nam trong việc khôi phục quan hệ hữu nghị với quốc gia láng giềng này.
+ Vũ Dương Ninh (2014) Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 –
Năm 2010, Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia đã xuất bản "Sự thật," một tác phẩm phản ánh toàn cảnh sinh động về quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ năm 1940 đến 2010 Tác giả trình bày quá trình thiết lập và củng cố quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các quốc gia, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô, trong bối cảnh đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới và đối phó với tình trạng bị bao vây, cấm vận từ năm 1975 đến 1986.
Cuốn sách “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua” do Bộ Ngoại giao Việt Nam biên soạn và Nhà xuất bản Sự thật phát hành năm 1979, phân tích những khía cạnh tiêu cực trong mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1954 đến 1979 Tác phẩm này cung cấp tư liệu quan trọng về các sự kiện minh chứng cho sự xấu đi của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong giai đoạn 1976 – 1985.
+ Cuốn sách “30 năm quan hệ (1950 – 1980)” của Bộ Ngoại giao
CHXHCNVN phối hợp cùng Bộ Ngoại giao Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-Viết biên soạn, do Nhà xuất bản Tiến bộ (Moscow) phát hành năm
1983 Cuốn sách là Tuyển tập những văn kiện quan trọng nhất điển hình cho sự phát triển quan hệ Việt Nam và Liên Xô từ năm 1950 đến năm 1980
Các bài diễn văn của lãnh đạo, thông báo về hội đàm, thông cáo chung từ các chuyến thăm, tuyên bố và hiệp định là minh chứng cho sự giao lưu thường xuyên giữa hai Đảng, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển mối quan hệ hai nước giai đoạn 1976 – 1985.
Cuốn sách “Quan hệ Việt Nam – Liên Xô (1917 – 1991) những sự kiện lịch sử” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân, được xuất bản bởi Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa năm 2010, cung cấp một cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên Xô trong suốt 74 năm Tác phẩm này không chỉ nghiên cứu mà còn hệ thống hóa các sự kiện nổi bật, tạo thành một biên niên sử quý giá về quan hệ giữa hai quốc gia.
Từ năm 1950 đến 1991, tác giả đã khắc họa một bức tranh toàn diện về mối quan hệ giữa Liên Xô và Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh vai trò quan trọng của Liên Xô trong quá trình khôi phục và phát triển đất nước sau chiến tranh giai đoạn 1976 – 1985.
- Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ
+ Quan hệ ngoại giao Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn 1976 – 1985 được nghiên cứu trong Luận văn thạc sĩ lịch sử của Nguyễn Văn Thành
Tiến trình lịch sử mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ năm 1975 đến nay đã chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng, thể hiện những bất đồng và căng thẳng giữa hai quốc gia Từ giữa năm 1975 đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX, những xung đột trong quan hệ Việt - Trung đã diễn ra, phản ánh sự phức tạp trong tình hình chính trị và an ninh khu vực.
+ Luận án tiến sĩ của Bùi Văn Hùng (2006) Hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 – 2005) Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí
Minh, đã khái quát các sự kiện lịch sử trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2005, trong đó có giai đoạn 1975 – 1985
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Mai Hoa, mang tên “Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quan hệ với Trung Quốc từ năm 1975 đến năm 2001”, được thực hiện tại Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2007 Tác giả đã phân tích và hệ thống hóa một cách khoa học mối quan hệ đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc qua các thời kỳ lịch sử, đồng thời làm rõ quá trình thực hiện quan hệ này dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn từ 1975 đến 2001.
- Các bài viết khoa học trên báo, tạp chí
+ Trần Thanh Tiến (2008) Vài nét về quan hệ Việt Nam – Liên Xô từ năm 1975 đến năm 1990 đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP
Bài viết tại số 13 Hồ Chí Minh tổng hợp những thành tựu nổi bật trong hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên Xô trong giai đoạn này Tác giả đã khắc họa những bước phát triển thăng trầm trong lịch sử quan hệ giữa hai quốc gia, thể hiện sự gắn bó và ảnh hưởng lẫn nhau trong bối cảnh quốc tế.
- Bối cảnh quốc tế tác động đến đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam 10 năm trước đổi mới (1975 – 1985) của Lê Thị Thái đăng ngày
Ngày 15 tháng 4 năm 2016, trên website Khoa Lí luận Chính trị của Trường Đại học Hà Tĩnh, bài viết tập trung phân tích các thuận lợi và thách thức trong bối cảnh quốc tế tác động đến chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1976 – 1986, được Thạc sĩ Hoàng Thị Thúy khái quát trong bài viết đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị vào ngày 26/9/2018, nêu bật những đặc điểm chính và những bài học kinh nghiệm quý giá Bài viết giúp độc giả hiểu rõ hơn về các chiến lược và quyết sách của Việt Nam trong bối cảnh lịch sử đặc biệt, đồng thời rút ra những kinh nghiệm có giá trị cho chính sách đối ngoại hiện tại và tương lai.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, hoạt động đối ngoại đóng vai trò quan trọng, được thể hiện rõ qua nhiều công trình nghiên cứu Những nghiên cứu này không chỉ tập trung vào quá trình hình thành và phát triển của ngoại giao Việt Nam mà còn làm nổi bật nghệ thuật ngoại giao đã giúp đất nước vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn Kể từ khi ĐCSVN ra đời và lãnh đạo cách mạng đạt được những thắng lợi, hoạt động đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể, đặc biệt trong giai đoạn 1976.
Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối của ĐCSVN về hoạt động đối ngoại
Tác giả áp dụng hai phương pháp chính là phương pháp lịch sử và phương pháp logic để phân tích các yếu tố và điều kiện ảnh hưởng đến quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại của ĐCSVN với Trung Quốc và Liên Xô trong giai đoạn 1976 – 1985 Bài viết tập trung vào việc hoạch định đường lối và lãnh đạo triển khai trong thời kỳ này, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo của ĐCSVN đối với các hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như phân tích – tổng hợp, so sánh, đối chiếu và thống kê để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
5.2 Nguồn tài liệu nghiên cứu Để thực hiện đề tài luận văn, tác giả tiếp cận và khai thác các nguồn tư liệu như sau:
- Các văn kiện, nghị quyết của ĐCSVN qua các kỳ Đại hội lần thứ IV,
V, VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII
- Các văn kiện đã được ký kết trong các hoạt động đối ngoại giữa Việt Nam và Liên Xô, Việt Nam và Trung Quốc
Các bài phát biểu và công trình nghiên cứu được công bố của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam trong các cuộc gặp gỡ và hội nghị với Liên Xô và Trung Quốc đã đóng góp quan trọng vào việc củng cố mối quan hệ ngoại giao và hợp tác giữa các quốc gia này.
Trong giai đoạn từ năm 1976 đến 1985, nhiều bài viết đã được đăng trên các báo chí và tạp chí đương thời như Nghiên cứu Quốc tế, Lịch sử Đảng, Nghiên cứu Trung Quốc, Lý luận Chính trị, Nhân dân, và Thống tấn xã Việt Nam Ngoài ra, các trang báo điện tử của cơ quan ngoại giao và ĐCSVN cũng đã đóng góp vào việc lưu giữ thông tin trong thời kỳ này.
Đóng góp của luận văn
Đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa (1976 – 1985) có những đóng góp cụ thể sau:
Luận văn tổng hợp các quan điểm và đường lối đối ngoại của ĐCSVN trong giai đoạn 1976 – 1985, nhằm làm rõ bức tranh đối ngoại của Việt Nam trong quá trình hình thành và phát triển, đặc biệt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Bài viết này cung cấp cái nhìn toàn diện và khách quan về giai đoạn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), nhấn mạnh những khó khăn và thử thách mà Đảng đã phải đối mặt.
Cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho hoạt động học tập, giảng dạy và nghiên cứu về lịch sử dân tộc, đặc biệt là lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1 Những nhân tố tác động đến hoạt động đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (1976 – 1985)
Chương 2 Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa (1976 – 1985)
Chương 3 Đánh giá và bài học kinh nghiệm từ quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại với các nước xã hội chủ nghĩa
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (1976 – 1985)
Những vấn đề chung về hoạt động đối ngoại
Đối ngoại là hoạt động thiết yếu cho sự phát triển của mỗi quốc gia, bao gồm các chính sách và chiến lược giao thiệp với nước ngoài Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, đối ngoại đề cập đến các đường lối và chính sách của nhà nước trong mối quan hệ quốc tế Nguyễn Lân (2000) định nghĩa đối ngoại là sự giao thiệp và đối xử với các quốc gia khác Bên cạnh đó, Nguyễn Như Ý (1999) nhấn mạnh rằng đối ngoại còn là chủ trương và chính sách mang tính quốc gia nhằm thiết lập quan hệ với nước ngoài.
Đối ngoại là quá trình tương tác giữa quốc gia với các nước và tổ chức quốc tế trong nhiều lĩnh vực, nhằm đạt được những mục tiêu phù hợp với lợi ích của quốc gia và dân tộc.
Chính sách là những sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt được mục đích nhất định, dựa trên đường lối chính trị và tình hình thực tế (Hoàng Phê, 1998) Mỗi chính sách được xây dựng dựa vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, kết hợp các phương pháp và kế hoạch phù hợp với thực tiễn để đạt mục tiêu Để có chính sách đúng đắn, cần phải rút ra bài học từ thực tiễn trong từng lĩnh vực và thời điểm, đồng thời kiên định với mục tiêu đã được xác định trong đường lối.
Trong lãnh đạo, chính sách là những chủ trương cụ thể nhằm phát triển đất nước một cách chiến lược Chính sách đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung của quốc gia và hỗ trợ hiệu quả cho chính sách đối nội.
Chính sách đối ngoại là những mục tiêu chung hướng dẫn hoạt động và mối quan hệ của một quốc gia trong tương tác với các quốc gia khác Nó không chỉ là một phần của chính sách chung mà còn là sự nối dài của chính sách đối nội Để thiết kế chính sách đối ngoại hiệu quả, các nhà cầm quyền cần xem xét hoàn cảnh lịch sử và điều chỉnh theo chính sách của các quốc gia giao tiếp Ngoại giao là công cụ quan trọng trong chính sách đối ngoại, và mọi hoạt động từ chiến tranh đến thương mại quốc tế đều phản ánh chính sách này Để phát triển đất nước, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và khẳng định vị thế trong cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia cần xây dựng đường lối và chính sách đối ngoại phù hợp với xu thế thời đại.
Chính sách đối ngoại của một quốc gia bao gồm các chiến lược mà quốc gia đó áp dụng để tương tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế trong các lĩnh vực như chính trị, quốc phòng, kinh tế, và văn hóa - xã hội Mục tiêu của chính sách này là đạt được lợi ích quốc gia thông qua các chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược và sách lược cụ thể.
Chính sách đối ngoại là một phần quan trọng của chính sách quốc gia, phản ánh sự tiếp nối của chính sách đối nội Nó thể hiện phản ứng của quốc gia trước tình hình quốc tế và định hướng hoạt động trên trường quốc tế Mục tiêu chính của chính sách này là bảo vệ lợi ích quốc gia và dân tộc trong quan hệ với các chủ thể quốc tế khác.
Hoạt động đối ngoại là sự cụ thể hóa chính sách đối ngoại, bao gồm các hoạt động đồng bộ và toàn diện, góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước qua từng giai đoạn lịch sử Việt Nam đã trải qua nhiều thăng trầm và hoạt động đối ngoại đã trở thành một mặt trận chính thúc đẩy quan hệ quốc tế, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Những hoạt động phong phú và hiệu quả trong đối ngoại không chỉ nâng cao vị thế quốc gia mà còn bảo vệ lợi ích dân tộc trong giao thiệp với các nước Hoạt động này chịu sự tác động mạnh mẽ từ bối cảnh khu vực và quốc tế, đặc biệt là những biến chuyển phức tạp trong quan hệ quốc tế và chiến lược của các cường quốc Sự triển khai hiệu quả của hoạt động đối ngoại còn phụ thuộc vào nhận thức thực tiễn, đường lối của đảng cầm quyền và chính sách của nhà nước.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1976 – 1985 được xây dựng dựa trên đường lối của ĐCSVN và chính sách đối ngoại của Nhà nước XHCN Những hoạt động này không chỉ phản ánh các yếu tố lịch sử và bối cảnh trong nước mà còn chịu ảnh hưởng từ những diễn biến phức tạp ở khu vực và toàn cầu.
Tình hình thế giới và khu vực (1976 – 1985)
Từ giữa những năm 1970, thế giới chứng kiến sự biến đổi phức tạp với những thay đổi nhanh chóng và khó lường trong chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế, điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu giai đoạn 1973 – 1975 và 1980 – 1982 đã buộc các nước tư bản phải tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế và thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học và công nghệ Những thành tựu đột phá trong lĩnh vực này đã làm thay đổi hoàn toàn bức tranh kinh tế thế giới, đồng thời làm nổi bật sự khác biệt về trình độ và tốc độ phát triển giữa các quốc gia Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã chuyển hướng từ “chạy đua vũ trang” sang “chạy đua kinh tế”.
Vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, xu thế hòa hoãn Đông – Tây đã hình thành, dẫn đến sự “tan băng” trong quan hệ quốc tế giữa các cường quốc Thời kỳ này đánh dấu sự "tạm lắng dịu" trong mối quan hệ đối đầu gay gắt giữa Mỹ và Liên Xô, hai cường quốc chủ chốt của hệ thống TBCN và XHCN.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc vào năm 1945, trật tự hai cực Yalta được thiết lập đã dẫn đến sự đối đầu gay gắt giữa Mỹ và Liên Xô, với các cuộc chạy đua vũ trang gây ảnh hưởng tiêu cực đến chính trị, kinh tế và xã hội, làm suy giảm vị thế của hai siêu cường Đến đầu thập niên 70, cả hai nước nhận thấy cần có giải pháp để giảm bớt gánh nặng chi phí quân sự và tập trung vào phát triển kinh tế, dẫn đến những thay đổi quan trọng trong chính sách đối ngoại, hướng tới hòa dịu hơn Từ những năm 1950, Liên Xô đã khởi xướng chương trình “Chung sống hòa bình”, với luận điểm cơ bản nhằm thúc đẩy sự hợp tác và giảm căng thẳng giữa các quốc gia.
Liên Xô coi trọng sự phát triển hòa bình quốc tế bền vững, tập trung vào cạnh tranh kinh tế thay vì xung đột quân sự với các nước tư bản chủ nghĩa Để phù hợp với lợi ích của mình, Liên Xô mong muốn xây dựng mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau với các nước phương Tây, đồng thời tránh các cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ nhằm duy trì ổn định quốc tế.
Mỹ luôn theo đuổi chính sách "kềm chế Liên Xô" và tăng cường sức mạnh quân sự toàn cầu Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ quốc phòng Liên Xô đã khiến Mỹ phải điều chỉnh đánh giá về sức mạnh thực sự của Liên Xô Nhận thấy tiềm lực quân sự của Liên Xô không thua kém, Mỹ đã quyết định tránh đối đầu trực tiếp và áp dụng chiến lược "phản ứng linh hoạt" hơn.
Dựa trên những quan điểm đã nêu, Mỹ và Liên Xô nhanh chóng thiết lập các bước hợp tác tích cực Chính quyền Tổng thống Richard M Nixon tuyên bố chấm dứt tình trạng đối đầu và chuyển sang "đối thoại" với Liên Xô, thông qua cuộc gặp với Leonid Brezhnev tại Moscow vào tháng
Vào tháng 5/1972, Mỹ và Liên Xô đã ký kết văn kiện “Những cơ sở của mối quan hệ tương trợ lẫn nhau”, cam kết không can thiệp sâu vào cuộc Chiến tranh Việt Nam và thiết lập bộ quy tắc ứng xử nhằm tránh đối đầu trực tiếp, ngăn chặn chiến tranh hạt nhân Những nguyên tắc “chung sống hòa bình” đã trở thành nền tảng cho mối quan hệ Xô – Mỹ, được Hennery Kissinger nhấn mạnh trong các phát biểu của mình Cùng thời điểm này, hai nước cũng đạt được thỏa thuận Hiệp ước giới hạn vũ khí tiến công chiến lược giai đoạn I (SALT 2 - I) và giai đoạn II (SALT – II), có hiệu lực đến năm 1985 Đỉnh cao của thời kỳ hòa hoãn diễn ra vào ngày 1/7/1975, khi 35 nước châu Âu, Liên Xô và Canada ký kết Định ước về an ninh và hợp tác châu Âu tại Helsinki, xác nhận chính sách hòa hoãn và nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước Tuy nhiên, thời kỳ hòa hoãn Xô – Mỹ không kéo dài lâu và đã chấm dứt vào cuối thập niên 70.
Quan hệ Xô – Mỹ dưới thời Tổng thống Mỹ Jimmy Carter (1976 –
Năm 1980, căng thẳng gia tăng do nhiều sự kiện quan trọng, bao gồm sự hiện diện của Việt Nam tại Campuchia, cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung vào năm 1979, xung đột giữa Mỹ và Iran, và sự hình thành hệ thống quan hệ đối tác của Liên Xô tại châu Phi.
Các Cuộc Đàm Phán Giới Hạn Vũ Khí Chiến Lược (SALT) tập trung vào việc kiểm soát vũ khí hạt nhân chiến lược, bao gồm các tên lửa xuyên lục địa có tầm bắn trên 5500 km và máy bay ném bom có khả năng hoạt động tương tự Những cuộc đàm phán này nhằm giảm thiểu nguy cơ xung đột hạt nhân và thúc đẩy an ninh toàn cầu.
– nơi được coi là địa bàn quyền lợi quan trọng của phương Tây Quan hệ Xô –
Mỹ càng thêm rạn nứt khi Liên Xô đưa quân vào lãnh thổ Afganistan tháng
Từ năm 1980, Mỹ khôi phục chính sách chống Liên Xô, với các hành động như tẩy chay Thế vận hội Olympic tại Moscova và ngừng chuyển giao công nghệ cao Trong nhiệm kỳ của Tổng thống R Reagan (1981 – 1989), căng thẳng giữa hai siêu cường gia tăng, Mỹ đã thành công trong việc khuyến khích Liên Xô tham gia cuộc chạy đua vũ trang, dẫn đến những chi phí khổng lồ và góp phần vào sự kiệt quệ kinh tế của Liên Xô Mặc dù có mâu thuẫn sâu sắc, cả hai bên đều kiềm chế để tránh xung đột hạt nhân, trừ khi có mối đe dọa trực tiếp Giai đoạn này cho thấy Liên Xô bị cuốn vào vòng xoáy chính trị - quân sự phức tạp, ảnh hưởng lớn đến tiềm lực kinh tế và nguồn lực đối ngoại của họ.
Xu thế hòa hoãn giữa Đông và Tây đã làm thay đổi mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, từ mâu thuẫn chuyển sang hợp tác để đối phó với Liên Xô Mỹ đã khéo léo tận dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để phục vụ cho chính sách đối ngoại của mình Trong giai đoạn mâu thuẫn Xô – Trung từ 1957 đến 1961, Mỹ không đánh giá đúng tình hình, nhưng đến năm 1969, Tổng thống Nixon và Cố vấn an ninh Quốc gia Henry Kissinger đã nhận thức rõ hơn và nhanh chóng khai thác mâu thuẫn này Hình thức “ngoại giao bóng bàn” thành công đã dẫn đến Thông cáo Thượng Hải năm 1972, đánh dấu bước tiến quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung.
Giai đoạn hòa dịu từ 1972 đến 1979 chứng kiến sự gia tăng quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, với nhiều thông cáo quan trọng được đưa ra nhằm củng cố mối quan hệ này.
Vào các năm 1973, 1978 và 1982, quan hệ Mỹ - Trung đã có những bước chuyển mình quan trọng, nhưng hai nước vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức do phải đối mặt với nhiều thách thức nội bộ từ sau năm 1972 Sự thỏa hiệp giữa Mỹ và Trung Quốc trong giai đoạn này đã giúp Trung Quốc có được vị trí thay thế Đài Loan tại Liên Hiệp Quốc, đánh dấu bước đầu tiên đưa Trung Quốc lên vị thế mới trên trường quốc tế Sau khi Mao Trạch Đông qua đời vào năm 1976, nền kinh tế Trung Quốc rơi vào tình trạng khủng hoảng, và Đặng Tiểu Bình đã lãnh đạo đất nước với chiến lược dựa vào vốn và công nghệ phương Tây nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau nhiều năm bị ảnh hưởng bởi Cách mạng văn hóa (1966-1976).
1976) Tháng 1/1979, Mỹ và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao trên cơ sở Trung Quốc tạm gác lại những yêu sách loại bỏ quan hệ
Từ năm 1980, Mỹ đã hỗ trợ Trung Quốc trong việc sản xuất công nghệ cho các phương tiện liên lạc quân sự và máy bay vận tải, đồng thời khuyến khích hợp tác giữa Trung Quốc và Nhật Bản từ năm 1978 Mục tiêu của Mỹ là xây dựng một liên minh giữa Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản nhằm đối phó với Liên Xô.
Những nhân tố lịch sử
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam Trong bối cảnh mới, đất nước phải đối mặt với nhiều thách thức, và mặt trận ngoại giao trở thành yếu tố quan trọng, góp phần vào những thắng lợi vĩ đại Nền ngoại giao hiện đại của Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, tạo điều kiện cho ĐCSVN mở rộng quan hệ với ĐCS Trung Quốc và ĐCS Liên Xô, hai đồng minh chủ chốt của hệ thống XHCN, nhằm huy động nguồn lực lớn cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mỹ cứu nước của Việt Nam
Kể từ năm 1950, chiến dịch Biên giới đã mở ra cơ hội cho ĐLĐVN thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nhiều chính đảng trên thế giới, bao gồm ĐCS Trung Quốc và ĐCS Liên Xô Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II vào tháng 2 năm 1951, Tuyên ngôn của ĐLĐVN đã khẳng định chủ trương đối ngoại là “đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác”.
Trong giai đoạn 1950-1951, Việt Nam tập trung củng cố quan hệ ngoại giao với Liên Xô và Trung Quốc, đồng thời tăng cường kết nối với các phong trào đấu tranh toàn cầu, nhận được sự ủng hộ cả về vật chất lẫn tinh thần Đấu tranh ngoại giao mạnh mẽ đã góp phần vào những chiến thắng quân sự quan trọng, đặc biệt là trong chiến dịch Điện Biên Phủ (1954), dẫn đến Hội nghị Genève về hòa bình Đông Dương Thành công này phản ánh sự linh hoạt và khéo léo trong hoạt động ngoại giao của Đảng Lao động Việt Nam, thực hiện chủ trương “thêm bầu bạn bớt kẻ thù”.
Bước sang thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), trong Nghị quyết Đại hội III của ĐLĐVN (9/1960) ĐLĐVN tiếp tục chủ trương:
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo, nhằm củng cố sự đoàn kết và tình hữu nghị vững bền giữa Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa anh em Đồng thời, Đảng cũng khẳng định việc phát triển quan hệ hợp tác và tương trợ với các nước này theo nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Sau năm 1954, Đảng Lao động Việt Nam đã khéo léo kết hợp giữa đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, góp phần làm thất bại các chiến lược leo thang chiến tranh của đế quốc.
Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, ĐLĐVN đã lãnh đạo các hoạt động đối ngoại nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp và không để cuộc kháng chiến bị đơn độc Tổ chức này đã tích cực tuyên truyền và vận động quốc tế, làm rõ âm mưu của Mỹ nhằm phá hoại Hiệp định Genève Từ 1954 đến 1975, ĐLĐVN đã củng cố quan hệ ngoại giao với các nước XHCN, đặc biệt trong bối cảnh bất đồng giữa ĐCS Trung Quốc và ĐCS Liên Xô, Việt Nam đã kiên định duy trì mối quan hệ đồng minh với cả hai quốc gia ĐLĐVN thực hiện chính sách đối ngoại mềm dẻo, không công khai phê phán mà kiên trì thuyết phục để tạo sự cân bằng giữa hai nước lớn Nhờ đó, cuộc kháng chiến không bị đơn độc và có được sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần Những thành tựu đối ngoại trong giai đoạn này đã thể hiện trí tuệ và bản lĩnh của Việt Nam, góp phần vào việc tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, từ đó tạo ra điều kiện thuận lợi cho cách mạng Việt Nam Việc nhận thức đúng tình hình quốc tế và nắm bắt thời cơ đã giúp hoạt động đối ngoại đạt hiệu quả cao, phân hóa và cô lập kẻ thù.
Tình hình Việt Nam (1976 – 1985)
1.4.1 Tình hình Việt Nam năm 1975
Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, Việt Nam bước vào giai đoạn mới với hòa bình, độc lập và thống nhất, phát triển chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc Đất nước bắt đầu khắc phục hậu quả chiến tranh và khôi phục kinh tế, văn hóa, xã hội Quốc hội khóa VI của nước Việt Nam thống nhất đã họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội từ ngày 24/6 đến 2/7/1976, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thành thống nhất về mặt nhà nước.
Quốc hội đã thông qua các chính sách đối nội và đối ngoại, xác định tên nước là Cộng hòa XHCN Việt Nam, với Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca và Quốc huy mang dòng chữ “Cộng hòa XHCN Việt Nam” Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa VI thành công đã hoàn thành việc thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, tạo tiền đề cho sự thống nhất trong các lĩnh vực khác liên quan đến nhiệm vụ của cuộc cách mạng XHCN Tuy nhiên, tình hình hai miền Nam – Bắc sau ngày giải phóng diễn ra phức tạp, với nhiều thử thách cho việc “hồi sinh” đất nước sau những năm dài chiến tranh.
Sau 21 năm (1954 - 1975) tiến hành cách mạng XHCN, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, văn hóa và xã hội Tuy nhiên, hai cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành đã tàn phá nặng nề, để lại hậu quả lâu dài Thực tế, miền Bắc chỉ có khoảng 7 năm từ 1958 đến cuối 1964 để xây dựng chủ nghĩa xã hội Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV khẳng định rằng: "chiến tranh đã phá huỷ hầu hết những cái mà nhân dân đã tốn biết bao công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm và làm đảo lộn cả nền nếp quản lý kinh tế" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, trang 482).
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đóng vai trò là hậu phương vững chắc cho miền Nam, đồng thời phải khôi phục và phát triển Tuy nhiên, mọi thành quả lao động của nhân dân và chính quyền miền Bắc đều bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc không kích của đế quốc Mỹ.
“Gần như toàn bộ các thành phố, thị xã đều bị đánh phá, trong đó
Trong cuộc chiến, 12 thị xã và 51 thị trấn đã bị phá hủy hoàn toàn, với 4.000 trong tổng số 5.788 xã bị đánh phá, trong đó 30 xã bị tiêu diệt hoàn toàn Tất cả các khu công nghiệp đều bị tàn phá, nhiều khu vực chịu mức độ hủy diệt nghiêm trọng Các nhà máy điện bị hư hỏng nặng nề, dẫn đến 5 triệu mét vuông nhà ở bị phá hủy, chưa kể đến khu vực nông thôn Hệ thống giao thông, bao gồm 100% cầu, toàn bộ hệ thống bến cảng, đường biển, đường sông và kho tàng, cũng bị tấn công Địch đã gây thiệt hại cho 1.600 công trình thủy lợi, hầu hết các nông trường và hàng trăm nghìn hécta ruộng vườn, cùng với việc giết hại 40.000 trâu, bò Đế quốc Mỹ đã tấn công 3.000 trường học và 350 bệnh viện, trong đó có 10 bệnh viện bị san phẳng (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2004, trang 482).
Sau chiến tranh, miền Bắc phải đối mặt với hậu quả nặng nề, với nền kinh tế mất cân đối và trì trệ, nhiều khu vực vẫn duy trì nền kinh tế tự cung tự cấp Cơ sở hạ tầng yếu kém và nguồn nguyên vật liệu khan hiếm dẫn đến tình trạng thiếu thốn hàng hóa, lương thực, thực phẩm cần thiết cho cuộc sống Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân phát triển chậm, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế không đáp ứng được nhu cầu thực tiễn Cuộc sống của người dân miền Bắc vẫn gặp nhiều khó khăn, phải áp dụng chính sách “thắt lưng buộc bụng” và cơ chế phân phối bao cấp trước năm 1975 để đảm bảo nhu cầu thiết yếu.
Tình hình miền Nam sau giải phóng cũng gặp rất nhiều khó khăn do những “di chứng” của chủ nghĩa đế quốc để lại trên mọi phương diện
Xã hội miền Nam sau khi thống nhất diễn ra phức tạp với nhiều thách thức trong quá trình cải tạo và phát triển Lực lượng tại chỗ từng làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khoảng 1,5 triệu người, có nhiều đối tượng bất mãn, thường xuyên kích động quần chúng và liên kết với lực lượng phản động nước ngoài, gây rối loạn xã hội Công tác quản lý an ninh, trật tự gặp khó khăn do nhiều người dân chưa hòa nhập vào cuộc sống mới và cần việc làm để ổn định cuộc sống Tình trạng trẻ em lang thang, côn đồ, và tội phạm gia tăng khiến miền Nam thêm bất ổn Từ tháng 5 đến tháng 10/1975, Nam Bộ ghi nhận khoảng 8.073 vụ phá hoại và hơn 1.800 vụ cướp, giết người Mâu thuẫn giữa nhân dân cách mạng và người hồi hương từ vùng kiểm soát Sài Gòn cũng nảy sinh, trong khi tàn dư văn hóa nô dịch và tình trạng nghiện ngập, mại dâm vẫn tồn tại.
Dưới tác động của đế quốc, nền kinh tế miền Nam Việt Nam phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn mang tính chất lạc hậu, chủ yếu dựa vào sản xuất nhỏ và phụ thuộc vào viện trợ từ bên ngoài Từ năm 1954 đến 1975, chính quyền Sài Gòn đã nhận hơn 26 tỷ đô la viện trợ không hoàn lại, với 90% hàng hóa và nguyên liệu được nhập khẩu từ Mỹ hoặc do Mỹ tài trợ Sau chiến tranh, nguồn viện trợ từ tư bản bị cắt giảm hoàn toàn, dẫn đến tình trạng khó khăn cho nền kinh tế miền Nam, nhiều cơ sở sản xuất thiếu nguyên liệu và sản xuất bị đình trệ Đồng thời, các tư thương đã lợi dụng tình hình khó khăn để thao túng thị trường, gây ra sự bất ổn định về giá cả.
Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức kinh tế và xã hội sau chiến tranh, đặc biệt tại khu vực biên giới với Campuchia và Trung Quốc Ngay sau ngày thống nhất, chính quyền Pol Pot gia tăng các hoạt động xâm lấn lãnh thổ, với các vụ tấn công vào Phú Quốc và Thổ Chu, dẫn đến cái chết của hàng trăm người dân vô tội Cuối năm 1975, tình hình biên giới Việt Nam - Campuchia trở nên căng thẳng hơn khi các cuộc tấn công của Khmer Đỏ gia tăng Đồng thời, quan hệ Việt - Trung cũng leo thang khi Trung Quốc thực hiện các cuộc tấn công nhỏ và điều chỉnh cột mốc biên giới để khiêu khích Trong bối cảnh này, Mỹ triển khai “kế hoạch hậu chiến” nhằm chống phá chính quyền cách mạng Việt Nam, xây dựng mạng lưới gián điệp và thực hiện các phi vụ phá hoại, lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để kích động bạo loạn.
Tại Tây Nguyên, tổ chức chính trị cực đoan FULRO đang tích cực hoạt động nhằm đòi chia quyền lực với chính quyền cách mạng FULRO thực hiện nhiều hoạt động chống phá, bao gồm việc rải truyền đơn nhằm xuyên tạc đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước.
FULRO, viết tắt từ tiếng Pháp “Front Unifiê de Lute des Races Opprimées”, là một tổ chức được hình thành trong bối cảnh xâm lược của thực dân Pháp Tổ chức này đã thực hiện nhiều hành động như tấn công quân đội, khủng bố, bắt cóc cán bộ, ám sát và phục kích, gây ra nhiều khó khăn cho công tác an ninh trật tự và quá trình xây dựng cuộc sống mới ở các vùng dân tộc.
Sau khi chiến tranh kết thúc, đất nước Việt Nam trở lại hòa bình nhưng phải đối mặt với nhiều thách thức Nhân dân cần tập trung mọi nỗ lực để khôi phục và phát triển đất nước trong bối cảnh có nhiều mối đe dọa từ cả bên trong lẫn bên ngoài Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) phải giải quyết đồng thời nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm.
1.4.2 Tình hình Việt Nam (1976 – 1980) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của ĐCSVN (12-1976) đã xác định đường lối xây dựng và phát triển chung cho đất nước Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) được đề ra trên cơ sở Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV về phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật hướng tới khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh với hai mục tiêu cơ bản và cấp thiết nhất là xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, thực tế lại bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập khiến cho Việt Nam lâm vào khủng hoảng
Trong quá trình khôi phục nền kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều lĩnh vực đã không đạt kết quả như mong muốn, đặc biệt là công nghiệp và thương mại Việc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam không hiệu quả, dẫn đến sự chậm trễ trong phát triển kinh tế, trong khi nhu cầu tiêu dùng và nguyên vật liệu ngày càng gia tăng Cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt nghiêm trọng, với kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 24% so với nhập khẩu trong giai đoạn 1976-1980 Việt Nam rơi vào tình trạng "làm không đủ ăn", trong khi mô hình tập thể hóa nông nghiệp bộc lộ nhiều vấn đề, gây trì trệ trong sản xuất nông nghiệp Thêm vào đó, thiên tai và lũ lụt liên tiếp trong những năm 1978 và 1979 đã gây thiệt hại lớn về người và tài sản, dẫn đến tình trạng khan hiếm và đói kém Năm 1979 đánh dấu sự sụt giảm kinh tế đầu tiên với GDP giảm 1,7%, thu nhập quốc dân giảm 2%, và chỉ tiêu kế hoạch 5 năm chỉ đạt 50% Trong giai đoạn 1976-1980, sản xuất công nghiệp chỉ tăng 0,6% mỗi năm, trong khi dân số tăng 4,5 triệu người.
Sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng vào năm 1994 đã dẫn đến những hệ lụy xã hội sâu sắc, làm xáo trộn công tác quản lý an ninh và trật tự Cuộc sống trở nên khó khăn, tạo ra "làn sóng di cư" của những người tìm kiếm cơ hội mới.
Chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa (1976 – 1985)
2.1.1 Chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng Lao động Việt Nam sau ngày giải phóng thống nhất đất nước năm 1975
Ngày 30/4/1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam với hòa bình, độc lập và phát triển Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) cùng nhân dân luôn ghi nhớ và biết ơn sự hỗ trợ to lớn từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác Sau khi thống nhất đất nước, ĐLĐVN tiếp tục hợp tác chặt chẽ với Trung Quốc và Liên Xô để khôi phục kinh tế, đặc biệt trong việc thăm dò dầu khí trên toàn quốc Nghị quyết số 244-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 9/8/1975 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định kế hoạch hợp tác với Liên Xô và tiếp tục nhận sự giúp đỡ từ Trung Quốc Do đó, ĐLĐVN đã lựa chọn hai đối tác hàng đầu trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa để hỗ trợ cho hoạt động kinh tế quan trọng này.
Vào tháng 9 năm 1975, Báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị lần thứ 24 của Ban Chấp hành Trung ương ĐLĐVN đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đối ngoại, xác định đây là một nhiệm vụ quan trọng trong bối cảnh đất nước.
Tích cực tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, đồng thời củng cố quốc phòng và an ninh Đảng ta và nhân dân Việt Nam sẽ tham gia vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Tăng cường đoàn kết với Lào và Campuchia, tôn trọng độc lập chủ quyền, thực hiện hợp tác lâu dài để xây dựng một lực lượng vững chắc cho cách mạng và hòa bình ở Đông Nam Á Củng cố quan hệ hợp tác xã hội chủ nghĩa với các nước anh em và phát triển quan hệ hữu nghị với các nước trong thế giới thứ ba, dựa trên năm nguyên tắc chung sống hòa bình.
Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại, đặc biệt là trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN), với mục tiêu tăng cường đoàn kết và hợp tác kinh tế với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em Sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước trong hệ thống XHCN được coi là cần thiết, với nền kinh tế XHCN ở miền Bắc Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ làm minh chứng cho sự hợp tác hiệu quả Sau khi đất nước thống nhất, ĐLĐVN dự kiến mở rộng hơn nữa sự hợp tác và phân công giữa các nước XHCN Đồng thời, ĐLĐVN cũng khẳng định tầm quan trọng của việc mở rộng đối tượng hợp tác, bao gồm cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhằm tận dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật để đạt được lợi ích kinh tế Việc mở rộng trao đổi kinh tế và kỹ thuật giữa các quốc gia, bất kể hệ thống chính trị, là một quy luật tất yếu trong bối cảnh hiện nay, và ĐLĐVN cam kết tận dụng quy luật này để xây dựng một nền kinh tế XHCN độc lập, tự chủ và hiện đại.
Sau khi phân tích tình hình và tầm quan trọng của hoạt động đối ngoại đối với đất nước, các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc tiếp theo của Đảng đã khẳng định rõ chủ trương và chính sách đối ngoại trong mục tiêu phát triển chung Đồng thời, Đảng cũng tích cực triển khai các hoạt động đối ngoại với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô.
2.1.2 Chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
Sau khi ổn định tình hình đất nước, ĐLĐVN chú trọng đến việc củng cố và mở rộng mối quan hệ hữu nghị với các nước XHCN, đặc biệt là Trung Quốc và Liên Xô Chủ trương thắt chặt mối quan hệ đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau theo tinh thần quốc tế vô sản được thể hiện qua nhiều văn kiện quan trọng Tuy nhiên, từ sau năm 1975, những tác động phức tạp giữa Việt Nam và Trung Quốc đã dẫn đến việc ĐLĐVN phát triển hoạt động đối ngoại với Liên Xô mạnh mẽ hơn trong giai đoạn 1976-1981.
Ngày 23/2/1976, trong Thư chào mừng Đại hội XXV ĐCS Liên Xô, Ban Chấp hành Trung ương ĐLĐVN khẳng định mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai ĐCS và nhân dân Việt – Xô ngày càng sâu sắc ĐLĐVN cam kết nỗ lực tăng cường quan hệ hợp tác Việt – Xô, vun đắp tình hữu nghị bền vững giữa hai dân tộc Sự khẳng định này thể hiện sự kiên định của ĐLĐVN đối với tình hữu nghị Xô – Việt, đã được xây dựng từ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1954 – 1975).
Vào ngày 13/7/1976, trong Điện cảm ơn gửi tới Đảng Cộng sản Liên Xô, đại diện của ĐLĐVN đã nhấn mạnh triển vọng mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô, khẳng định rằng tình hữu nghị này, dựa trên nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ tiếp tục khẳng định chủ trương hợp tác toàn diện với các nước XHCN nhằm thúc đẩy công cuộc khôi phục và phát triển đất nước.
IV của Đảng diễn ra tại Hà Nội, từ ngày 14 đến ngày 20/12/1976, đã đề ra đường lối phát triển chung cho đất nước trong giai đoạn mới:
Trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cần tận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi để hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật Đồng thời, cần củng cố quốc phòng và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, cũng như tiếp tục hợp tác với các nước XHCN và các dân tộc trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới ngày càng phức tạp, Việt Nam cần tận dụng tối đa các điều kiện thuận lợi để phát triển, đặc biệt là thông qua việc duy trì và phát triển mối quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới, bao gồm cả các nước XHCN Các điều kiện quốc tế thuận lợi sẽ cung cấp nguồn lực bên ngoài, góp phần tăng cường nội lực của đất nước ĐCSVN đã khẳng định quan điểm "kề vai, sát cánh với các nước XHCN" nhằm hàn gắn những vết thương chiến tranh và thúc đẩy sự phát triển của đất nước Nhân dịp Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng vào ngày 19/12/1976, đại diện Đảng và Nhà nước Việt Nam đã gửi Điện mừng tới Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Liên Xô L.
I Brezhnev, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 ngày sinh của Đồng chí Trong Điện mừng, một lần nữa các nhà lãnh đạo của ĐCSVN khẳng định niềm tin tưởng vào sự phát triển ngày càng tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị với ĐCS Liên Xô: “…, trong lao động hòa bình, nhân dân Việt Nam “vẫn có thể hoàn toàn trông cậy vào sự ủng hộ của Đảng Lê-nin, của Đất nước Xô-viết” Những lời nói chí tình đó càng làm cho chúng tôi tin chắc rằng Liên Xô sẽ hết lòng giúp đỡ nhân dân chúng tôi xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn thịnh” (Tài liệu Việt Nam - Liên Xô , 1983, trang 493) Qua đó cho thấy ĐCSVN chủ trương gắn kết với Liên Xô ngày càng chặt chẽ và dựa vào sự giúp đỡ của ĐCS Liên Xô ngày càng rõ ràng hơn Đồng thời, trong các chuyến thăm hữu nghị chính thức của ĐCSVN tới các nước XHCN, các nhà lãnh đạo Đảng cũng thể hiện rõ chủ trương tăng cường hợp tác với Liên Xô Điển hình là sáng ngày 11/8/1977, tại trụ sở Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Liên Xô, trong cuộc gặp gỡ với đồng chí A P Kirilenko, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Liên Xô, đồng chí Trường Chinh Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN đã nêu rõ ĐCSVN rất coi trọng việc phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước trước những ủng hộ quý báu, sự giúp đỡ hết lòng của Liên Xô trước đây dành cho Việt Nam: “Đảng Cộng sản Việt Nam coi việc củng cố những quan hệ hữu nghị và sự hợp tác nhiều mặt giữa nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của mình” (Tài liệu Việt Nam - Liên Xô , 1983, trang 518) Tiếp đến, trong bài diễn văn tại cuộc họp liên tịch trọng thể của Ban Chấp hành Trung ương ĐCS Liên Xô nhân dịp kỷ niệm lần thứ 60 Cách mạng XHCN tháng Mười ở Moscow, ngày 2/11/1977, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN tiếp tục khẳng định “tình đoàn kết chiến đấu keo sơn không gì lay chuyển” giữa hai ĐCS của hai nước Đồng thời, nhấn mạnh ĐCSVN “quyết ra sức củng cố và phát triển không ngừng tình hữu nghị vĩ đại và mối quan hệ tốt đẹp” (Tài liệu Việt Nam - Liên
Năm 1978, mối quan hệ giữa ĐCSVN và ĐCS Trung Quốc diễn biến phức tạp, thúc đẩy sự gắn kết chặt chẽ hơn giữa ĐCSVN và ĐCS Liên Xô ĐCSVN thể hiện niềm tin vào sự ủng hộ và giúp đỡ của ĐCS Liên Xô trong việc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và bảo vệ đất nước Sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng đã dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác vào ngày 3 tháng 11 năm 1978, đánh dấu một giai đoạn mới trong quan hệ Việt – Xô.
Trong bối cảnh khôi phục và xây dựng đất nước theo kế hoạch 5 năm 1976 – 1980, các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã chú trọng đến việc chỉ đạo các hoạt động đối ngoại Hội nghị lần thứ tư của khóa IV, diễn ra vào tháng 7/1978, đã xác định một trong những nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện.
Hoạt động đối ngoại của Việt Nam cần được mở rộng để phục vụ cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng thời thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế (Nguyễn Hòa, 2016) Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ chín vào tháng 12/1980 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Liên Xô và tăng cường quan hệ kinh tế với các nước XHCN khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế Trước những diễn biến phức tạp trong quan hệ với Campuchia và Trung Quốc, từ giữa năm 1978, ĐCSVN đã điều chỉnh một số chủ trương và chính sách đối ngoại, đặc biệt chú trọng vào việc tăng cường hợp tác với Liên Xô.
Xô là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại của Việt Nam