Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu này nhằm khám phá thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên, xác định các động cơ thúc đẩy học tập tích cực và phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hành vi học tập trong bối cảnh tương tác xã hội Mục tiêu cuối cùng là đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng học tập và giảng dạy tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán.
Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát của đề tài nghiên cứu, tác giả triển khai thành các mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
- Tìm hiểu thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên hiện nay bao gồm: nhận thức, thái độ và hành vi
- Tìm hiểu động cơ học tập tích cực của sinh viên hiện nay
Nghiên cứu các mối liên hệ giữa gia đình, giảng viên và bạn học là rất quan trọng để hiểu rõ hơn về hành vi học tập tích cực của sinh viên Các phương pháp giảng dạy và nội dung giáo trình từ giảng viên có thể ảnh hưởng lớn đến động lực học tập của sinh viên Đồng thời, sự hỗ trợ và tương tác từ gia đình cùng với mối quan hệ giữa các bạn học cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hành vi học tập tích cực Tất cả những yếu tố này kết hợp lại tạo nên một môi trường học tập hiệu quả và khuyến khích sinh viên phát triển toàn diện.
Đối tượng và khách thể nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Tính tích cực học tập của sinh viên” tập trung khảo sát tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán Tỉnh Quảng Ngãi, với đối tượng nghiên cứu chính là sinh viên và mức độ tích cực trong quá trình học tập của họ.
Khách thể nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Tính tích cực học tập của sinh viên - Khảo sát tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán Tỉnh Quảng Ngãi” tập trung vào đối tượng là sinh viên đại học chính quy đang theo học tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán, tỉnh Quảng Ngãi.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chọn mẫu điều tra bản câu hỏi
Nghiên cứu được thực hiện với đối tượng là sinh viên đại học chính quy tại trường ĐHTCKT, hiện có tổng cộng 1.649 sinh viên, bao gồm 403 sinh viên năm nhất, 406 sinh viên năm hai, 327 sinh viên năm ba và 513 sinh viên năm bốn Trong số này, có 1.387 sinh viên nữ và 262 sinh viên nam, học tại bốn khoa: Tài chính ngân hàng, Kế toán kiểm toán, Quản trị kinh doanh và Luật kinh tế Khoa Luật kinh tế, mới thành lập từ năm học 2016 – 2017, hiện có 41 sinh viên năm nhất, 55 sinh viên năm hai và 34 sinh viên năm ba, không có sinh viên năm bốn Đặc biệt, số lượng tuyển sinh của khoa Tài chính ngân hàng có xu hướng giảm dần qua các năm.
Từ năm 2015 đến 2019, số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu giảm dần từ 43 sinh viên năm 4 xuống còn 13 sinh viên năm 1 Để thực hiện nghiên cứu trong điều kiện thời gian và năng lực hạn chế, tác giả đã chọn kích thước mẫu là 400 sinh viên, sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất theo lớp Cụ thể, tác giả đã chọn 100 sinh viên năm nhất, 100 sinh viên năm 2, 100 sinh viên năm 3 và 100 sinh viên năm 4.
Phương pháp chọn mẫu phỏng vấn sâu
Trong nghiên cứu, tác giả đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện có chủ đích để thực hiện 20 cuộc phỏng vấn sâu với 20 sinh viên, bao gồm 5 sinh viên năm 1, 5 sinh viên năm 2, 5 sinh viên năm 3 và 5 sinh viên năm 4 Mỗi nhóm sinh viên được lựa chọn đảm bảo có đại diện từ các kết quả học tập trung bình, khá, giỏi và xuất sắc, cũng như từ cả sinh viên nông thôn và thành thị Tác giả đã đến các lớp học để giới thiệu về nghiên cứu và mời gọi sinh viên tự nguyện tham gia chia sẻ thông tin.
Phương pháp thu thập thông tin
6.2.1 Phương pháp điều tra bằng bản câu hỏi Để thu thập thông tin, tác giả đã tiến hành điều tra thông qua việc phát trực tiếp bản câu hỏi khảo sát (xem phụ lục 1) cho sinh viên, với 400 bản câu hỏi được gửi tới
400 sinh viên của trường Đại học Tài chính - Kế toán Trong đó, 100 bản câu hỏi cho
100 sinh viên năm nhất, 100 bản câu hỏi cho 100 sinh viên năm hai, 100 bản câu hỏi cho 100 sinh viên năm 3 và 100 bản câu hỏi cho 100 sinh viên năm tư
6.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu
Tác giả đã thực hiện phỏng vấn sâu bán cấu trúc với 20 sinh viên để tìm hiểu về quan niệm và mức độ học tập tích cực, cũng như các quá trình tương tác giữa sinh viên với giảng viên, bạn bè và gia đình Sau khi mời gọi và nhận được sự đồng ý từ sinh viên, tác giả đã ghi lại thông tin liên lạc và hẹn thời gian gặp gỡ Các cuộc phỏng vấn diễn ra tại trường học, nơi ở của sinh viên hoặc quán cà phê vào buổi chiều tối hoặc cuối tuần Tất cả 20 cuộc phỏng vấn đều được ghi âm và thực hiện chính thức bởi tác giả.
Phương pháp xử lý dữ liệu và phân tích thông tin
Để xử lý thông tin từ khảo sát bằng bản câu hỏi, tác giả loại bỏ những bản không phù hợp và sử dụng phần mềm SPSS để nhập liệu và tổng hợp số liệu, chạy thống kê mô tả Đối với thông tin từ các cuộc phỏng vấn sâu, tác giả cùng cộng sự ghi âm và kiểm tra nội dung với người độc lập để đảm bảo độ chính xác Sau đó, dữ liệu được trích lọc và đưa vào bảng ma trận theo từng vùng chủ đề trên phần mềm Excel, giúp phân tích sát với nội dung nghiên cứu từ khách thể cung cấp.
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp là một kỹ thuật nghiên cứu quan trọng, cho phép tác giả phân tích và đối sánh nội dung từ kết quả hoặc nhận định của các tác giả khác với kết quả nghiên cứu của mình Đây là cách thức hữu hiệu để xác thực và bổ sung thông tin, giúp tăng cường độ tin cậy và giá trị của nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu chỉ có giá trị đối với nhóm sinh viên được khảo sát và không thể suy rộng cho toàn bộ sinh viên trong trường Tuy nhiên, tác giả sẽ sử dụng các lý thuyết để khái quát hóa những đặc điểm chính của các mối tương tác xã hội trong nhóm nghiên cứu.
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận
Công trình nghiên cứu này hướng đến việc vận dụng các lý thuyết nghiên cứu và phương pháp luận để giải thích các sự kiện xã hội, góp phần làm phong phú thêm nguồn tư liệu nghiên cứu về xã hội học giáo dục Cụ thể, luận văn này sử dụng hai lý thuyết xã hội học quan trọng là lý thuyết xã hội bằng cấp và lý thuyết tương tác biểu tượng Thông qua nghiên cứu này, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sâu sắc thêm hiểu biết về tính tích cực học tập của người học, từ đó mở rộng kiến thức về xã hội học giáo dục.
Ý nghĩa thực tiễn
Tác giả mong muốn nghiên cứu của mình sẽ mang lại góc nhìn mới cho Đại học Tài chính – Kế toán trong việc khuyến khích tính tích cực học tập ở sinh viên Kết quả nghiên cứu cũng có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu liên quan, đồng thời những phát hiện và thiếu sót trong nghiên cứu này sẽ mở ra cơ hội cho các nghiên cứu mới trong tương lai.
Hạn chế trong quá trình thực hiện luận văn
Nghiên cứu này đã đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về vấn đề học tập tích cực của sinh viên, nhưng vẫn còn một số hạn chế do điều kiện và năng lực nghiên cứu của tác giả Đầu tiên, đối tượng nghiên cứu chỉ là sinh viên đại học chính quy tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán, tỉnh Quảng Ngãi, không đủ tính đại diện cho một nghiên cứu quy mô lớn Thứ hai, phương pháp chọn mẫu phi xác suất theo lớp không cho phép suy rộng kết quả cho tổng thể Thứ ba, tỷ lệ chênh lệch giới tính trong mẫu khảo sát (nữ 87,8%, nam 12,2%) có thể dẫn đến sự thiên lệch trong kết quả Cuối cùng, nghiên cứu chỉ tập trung vào khía cạnh nhận thức, thái độ và hành vi của sinh viên, cùng với động cơ học tập tích cực và mối liên hệ với các yếu tố tương tác, mà chưa khai thác sâu hơn vào các khía cạnh khác.
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, các phụ lục, bảng biểu, tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được trình bày trong 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận và tổng quan địa bàn nghiên cứu
Trong chương này, tác giả trình bày các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu và cách tiếp cận chính, bao gồm lý thuyết xã hội bằng cấp và lý thuyết tương tác biểu tượng Tác giả cũng giải thích cách áp dụng các lý thuyết này vào phân tích nội dung nghiên cứu Chương 1 còn mô tả địa bàn nghiên cứu tại trường Đại học Tài chính – Kế toán ở Quảng Ngãi, nhấn mạnh ý nghĩa đặc trưng của bối cảnh kinh tế - xã hội địa phương Cuối cùng, tác giả cung cấp thông tin về đặc điểm mẫu nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên hiện nay- Khảo sát tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán Tỉnh Quảng Ngãi
Trong chương này tác giả tìm hiểu thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên ở
Bài viết này tập trung vào ba khía cạnh chính: nhận thức, thái độ và hành vi Dữ liệu được thu thập từ một cuộc khảo sát với 400 sinh viên, kèm theo một số thông tin định tính bổ sung và những khám phá từ các cuộc phỏng vấn sâu.
- Chương 3: Động cơ học tập tích cực và một số yếu tố ảnh hưởng tới tính tích cực học tập của sinh viên
Trong chương này, tác giả khám phá động cơ học tập tích cực của sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi học tập của họ Nghiên cứu tập trung vào mối tương tác giữa sinh viên với giảng viên, bao gồm phương pháp sư phạm và nội dung giáo trình, cũng như với bạn bè và gia đình, đặc biệt là bối cảnh gia đình và nghề nghiệp của cha mẹ Dữ liệu được thu thập từ 20 cuộc phỏng vấn sâu.
Phần B: TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – KẾ TOÁN TỈNH QUẢNG NGÃI
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Cách tiếp cận chính trong nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, tác giả áp dụng hai lý thuyết xã hội học quan trọng: lý thuyết xã hội bằng cấp của Randall Collins và lý thuyết tương tác biểu tượng của George Herbert Mead.
1.1.1 Cách tiếp cận theo lý thuyết xã hội bằng cấp - Randall Collins Đại diện tiêu biểu cho thuyết xã hội bằng cấp là Randall Collins, một nhà xã hội học người Mỹ Randall Collins đã đưa ra khái niệm “xã hội bằng cấp” để chỉ một xã hội mà trong đó mọi người quá coi trọng bằng cấp giáo dục và dựa chủ yếu vào bằng cấp để tuyển dụng lao động mà coi nhẹ năng lực thực sự của cá nhân Collins cho rằng các văn bằng, chứng chỉ như bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ là những biểu tượng vị thế, giống như những nhãn hiệu hàng hóa, chứ không phải là những chỉ báo tri thức và năng lực nghề nghiệp của một con người (Dẫn theo Lê Ngọc Hùng, 2015, tr.173) Tuy nhiên, đối với xã hội bằng cấp người ta có xu hướng đến trường chủ yếu chỉ để giành lấy một tấm bằng nhất định nào đó chứ không phải để phát triển năng lực: bạn đến trường trung học phổ thông để học lấy tấm bằng tốt nghiệp phổ thông, bạn đến trường đại học để lấy tấm bằng cử nhân, bạn đến một trung tâm ngoại ngữ để học lấy chứng chỉ ngoại ngữ Tại sao? Bởi vì người tuyển dụng lao động luôn đòi hỏi bạn phải trình những tấm chứng chỉ, những tấm bằng cho biết bạn đã hoàn thành chương trình giáo dục - đào tạo nào, ở đâu và bao giờ
Sự tương tác giữa nhóm người học chỉ nhằm lấy bằng cấp và những nhà tuyển dụng yêu cầu bằng cấp để trao việc làm đã hình thành nên “chủ nghĩa bằng cấp” Thực chất, “chủ nghĩa bằng cấp” phản ánh cơ chế mà các nhóm có vị thế sử dụng văn bằng, chứng chỉ để bảo vệ vị trí nghề nghiệp và lợi ích xã hội của họ (Lê Ngọc Hùng, 2015, tr.173).
Thuyết xã hội bằng cấp chỉ ra rằng giáo dục hiện nay quá chú trọng vào việc cấp phát bằng cấp và chứng chỉ, dẫn đến việc các trường học trở thành cỗ máy sản xuất giấy tờ mà không đáp ứng được nhu cầu thực tế về nâng cao năng lực và kỹ năng lao động của người học (Lê Ngọc Hùng, 2015, tr.175).
Nghiên cứu cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa thu nhập và trình độ học vấn: càng học cao, thu nhập càng lớn Mặc dù giáo dục không trực tiếp nâng cao năng suất lao động, nhưng những người có trình độ học vấn cao thường có khả năng tạo ra năng suất tốt hơn và nhận được mức lương cao hơn Điều này lý giải tại sao nhiều gia đình và cá nhân sẵn sàng đầu tư vào giáo dục, đặc biệt là học đại học, để có được công việc ổn định và thu nhập cao Từ mối tương quan này, vấn đề sùng bái bằng cấp đã xuất hiện, khi mà bằng cấp được xem như thước đo năng lực và trình độ chuyên môn của cá nhân, dẫn đến quan niệm rằng chỉ cần có bằng cấp là có trình độ tương ứng.
Thuyết xã hội bằng cấp chỉ ra rằng cơ chế tuyển dụng và chính sách tiền lương dựa vào bằng cấp của người lao động, dẫn đến sự sùng bái bằng cấp như một thước đo năng lực cá nhân Mối quan hệ giữa học vấn và thu nhập đã tạo ra áp lực cho sinh viên, khiến họ theo đuổi bằng cấp mặc dù không phù hợp với năng lực hay sở thích của bản thân Nhiều sinh viên cảm thấy bị ép buộc phải học đại học để có cơ hội việc làm tốt hơn, trong khi chưa nhận thức được tầm quan trọng của năng lực chuyên môn thực sự Điều này dẫn đến việc học mang tính đối phó để đạt được bằng cấp, thay vì phát triển kỹ năng cần thiết cho tương lai Tác giả áp dụng lý thuyết này để khám phá động cơ học tập của sinh viên hiện nay, xem họ có bị ảnh hưởng bởi bằng cấp và tiền lương như nghiên cứu của Randall Collins hay không.
1.1.2 Cách tiếp cận theo lý thuyết tương tác biểu tượng
Lý thuyết tương tác biểu tượng là một lý thuyết xã hội học vi mô, tập trung vào hành động xã hội và cách thức tạo ra ý nghĩa thông qua tương tác Xuất phát từ Mỹ, lý thuyết này được phát triển bởi George Herbert Mead, một trong những người sáng lập trường phái Chicago Nó được áp dụng để nghiên cứu các chủ đề như xu hướng dán nhãn hiện tượng lệch chuẩn, hoạt động nghề nghiệp, xã hội học y tế, tương tác trong lớp học, vấn đề nữ quyền và tín hiệu học.
Quan niệm về “cái tôi” là hạt nhân của thuyết tương tác biểu tượng của Mead
"Cái tôi" là cấu trúc xã hội hình thành từ trải nghiệm cá nhân trong mối quan hệ ba ngôi: cá nhân với cá nhân, cá nhân với người khác, và cá nhân với xã hội Đây là một cấu trúc toàn vẹn, chủ động và tích cực, với mọi hành động bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội và tâm lý Mead nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tìm ra cơ chế hành động của cá nhân, trong đó sự hình thành "cái tôi" và "tự tương tác" là hai yếu tố then chốt.
Cá nhân tương tác với bản thân thông qua cơ chế độc thoại và tự thoại, tức là tự "nói một mình", từ đó tác động đến chính mình Đồng thời, quá trình này cũng diễn ra qua việc tương tác với người khác (Lê Ngọc Hùng, 2015).
Bài viết sử dụng lý thuyết tương tác biểu tượng và lý thuyết vai trò của Mead để giải thích mối quan hệ giữa các vai trò xã hội Mỗi vai trò đều gắn liền với các vai trò khác; ví dụ, kỳ vọng của giáo viên về học trò sẽ tương ứng với kỳ vọng của học trò đối với giáo viên Phản ứng của những người trong các vai trò khác có thể củng cố hoặc làm thay đổi quan niệm của mỗi người về vai trò của mình, dẫn đến việc duy trì hoặc điều chỉnh cách thực hiện vai trò đó.
Tác giả áp dụng lý thuyết tương tác biểu tượng của Mead để phân tích vai trò của sinh viên trong việc hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự tích cực trong học tập Mối quan hệ của sinh viên với cha mẹ, thầy cô và bạn học thông qua các tương tác biểu tượng tạo nên mạng lưới xã hội của họ Sinh viên nhận thức và thực hiện vai trò của mình, từ học trò trong quan hệ với giảng viên đến con cái với cha mẹ và bạn học với nhóm bạn Hành vi học tập tích cực của họ chịu ảnh hưởng từ vai trò của những người xung quanh Do đó, sự tích cực học tập được xem là kết quả của các quá trình tương tác xã hội, mà lý thuyết tương tác biểu tượng giúp lý giải.
Mô hình phân tích
Tác giả xây dựng mô hình phân tích nhằm nghiên cứu thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên trường Đại học Tài chính - Kế toán từ ba khía cạnh: nhận thức, thái độ và hành vi Nghiên cứu cũng tập trung vào động cơ học tập tích cực của sinh viên, bao gồm cả động cơ bên trong và bên ngoài, để xác định động cơ nào ảnh hưởng nhiều nhất đến tính tích cực học tập hiện nay.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SV:
- Nhóm bạn học ĐỘNG CƠ HỌC TẬP TÍCH
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
HÀNH VI Động cơ học tập tích cực là nền tảng cho nhận thức – thái độ - hành vi học tập tích cực của sinh viên Đồng thời, tác giả tìn hiểu các yếu tố tác động đến tính tích cực học tập của sinh viên thông qua các mối tương tác xã hội giữa sinh viên với gia đình, giảng viên và nhón bạn học.
Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
- Câu hỏi nghiên cứu 1: Thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên hiện nay như thế nào?
- Câu hỏi nghiên cứu 2: Động cơ học tập tích cực của sinh viên hiện nay là gì?
- Câu hỏi nghiên cứu 3: Gia đình, giảng viên và bạn học có ảnh hưởng như thế nào đến tính tích cực học tập của sinh viên?
- Giả thuyết 1: Tính tích cực học tập của sinh viên hiện nay chưa cao
- Giả thuyết 2: Động cơ học tập tích cực chính của sinh viên hiện nay là để có bằng cấp và thu nhập cao
- Giả thuyết 3: Gia đình, giảng viên và bạn học có ảnh hưởng đến hành vi học tập tích cực của sinh viên.
Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.4.1 Khái niệm tính tích cực học tập (learning activeness)
Tính tích cực học tập đã thu hút sự chú ý của các nhà khoa học từ lâu, trở thành một chủ đề quen thuộc trong nghiên cứu Tuy nhiên, các nghiên cứu về tính tích cực này lại được tiếp cận từ nhiều góc độ và trường phái khác nhau, dẫn đến sự đa dạng trong phương diện nghiên cứu, đối tượng và khách thể nghiên cứu.
Tính tích cực học tập được nghiên cứu chủ yếu trong tâm lý học và giáo dục học, với định nghĩa của Thái Duy Tuyên (2003) cho rằng đây là quá trình huy động các yếu tố bên trong và bên ngoài để đạt được mục tiêu học tập Đỗ Thị Coỏng (2004) nhấn mạnh rằng tính tích cực học tập của sinh viên thể hiện qua hoạt động, nhận thức, thái độ, hành động và kết quả học tập, đồng thời cho thấy sự biến đổi và phát triển không ngừng của nó Tính tích cực học tập chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ quan đóng vai trò quyết định Để phát huy tính tích cực học tập, giảng viên cần tổ chức quá trình dạy học hấp dẫn và phong phú, khuyến khích sinh viên tự giác trong việc xác định mục tiêu và tổ chức hoạt động học tập Tuy nhiên, khái niệm này vẫn chưa được nghiên cứu dưới góc độ xã hội học, và PGS.TS Trần Hữu Quang đã gợi mở định nghĩa mới về mặt xã hội học.
Tính tích cực học tập là biểu hiện của sự chủ động và tự giác trong quá trình học, không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực cá nhân mà còn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố xã hội Những yếu tố chính tác động đến tính tích cực học tập bao gồm: (1) sự ảnh hưởng của giảng viên, phương pháp giảng dạy và nội dung giáo trình; (2) tác động từ nhóm bạn học; và (3) bối cảnh gia đình cũng như nghề nghiệp của cha mẹ.
Trong luận văn này, tác giả sử dụng các chỉ báo để nghiên cứu và phân tích thực trạng tính tích cực học tập của sinh viên.
Nhận thức của sinh viên về hoạt động học tập tích cực được thể hiện qua nhiều khía cạnh Trong giờ lên lớp, sinh viên cần đi học đúng giờ, tham gia đầy đủ và chăm chú nghe giảng, chép bài đầy đủ, phát biểu xây dựng bài, tóm tắt bài theo cách riêng, tranh luận với bạn bè, trao đổi với giảng viên về những vấn đề chưa hiểu, đặt câu hỏi và tham gia thảo luận nhóm Ngoài giờ lên lớp, sinh viên nên lập kế hoạch học tập cụ thể, tìm hiểu mục tiêu môn học, chọn phương pháp học tập phù hợp, chuẩn bị bài trước khi đến lớp, nộp bài đúng hạn, tìm tài liệu học từ Internet và thư viện, tham gia thảo luận, nghiên cứu khoa học, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, dành thời gian cho tự học, trao đổi nhóm, bảo quản tài liệu học tập và tự đánh giá kết quả học tập của bản thân.
Thái độ của một cá nhân đối với một đối tượng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến sự gắn kết giữa cá nhân và đối tượng, đồng thời quyết định cách thức ứng xử của cá nhân đối với đối tượng đó.
Thái độ học tập tích cực của sinh viên được xác định qua nhiều yếu tố quan trọng Đầu tiên, sinh viên cần có tâm trạng hào hứng trong giờ học trên lớp và cả trong giờ tự học Ngược lại, thái độ mệt mỏi và chán nản cần được hạn chế Việc cố gắng tích lũy kiến thức và kỹ năng, cũng như không phản ứng tiêu cực khi gặp khó khăn trong bài giảng, là rất cần thiết Bên cạnh đó, sinh viên cũng cần đảm bảo kỷ luật trong học tập và nỗ lực đạt thành tích học tập tốt một cách trung thực Sự độc lập trong thực hiện nhiệm vụ học tập và thái độ hăng hái trong giờ thảo luận, chữa bài tập cũng góp phần quan trọng vào thái độ học tập tích cực Cuối cùng, việc hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc là yếu tố không thể thiếu (Vũ Gia Hiền, 2005; Nguyễn Quý Thanh & Nguyễn Trung Kiên, 2012; Phạm Văn Tuân, 2011).
Hành vi được định nghĩa là một chuỗi các hành động liên tiếp, được thực hiện một cách tương đối nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của con người.
Sinh viên thực hiện các hành vi học tập tích cực thông qua nhiều hoạt động cụ thể trong giờ lên lớp, bao gồm việc đi học đúng giờ, đi học đầy đủ, chăm chú nghe giảng, chép bài đầy đủ và tham gia phát biểu xây dựng bài.
6 Tóm tắt bài theo cách riêng; 7 Tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ những vấn đề đã học; 8 Trao đổi với giảng viên những vấn đề bạn chưa hiểu; 9 Tham gia đặt câu hỏi; 10 Tham gia thảo luận nhóm b) Đối với hoạt động ngoài giờ lên lớp gồm: 1 Có lập kế hoạch học tập cụ thể; 2 Tìm hiểu mục tiêu môn học; 3 Tìm ra phương pháp học tập phù hợp cho từng môn học; 4 Chuẩn bị bài trước khi đến lớp; 5 Nộp bài đúng hạn;
6 Khi sắp thi mới học bài; 7 Tìm tài liệu phục vụ học tập (từ Internet, thư viện…); 8 Tham gia các buổi thảo luận, thuyết trình chuyên đề; 9 Tham gia nghiên cứu khoa học;
10 Vận dụng kiến thức một cách sáng tạo vào cuộc sống; 11 Dành nhiều thời gian cho việc tự học; 12 Trao đổi nhóm; 13 Giữ gìn, bảo quản tốt tài liệu học tập; 14 Nghiêm túc tự đánh giá kết quả học tập của bản thân (Võ Bình Nguyên, 2014)
Về các yếu tố có ảnh hưởng tới tính tích cực học tập bao gồm: (1) bối cảnh gia đình;
Ba yếu tố quan trọng trong giáo dục bao gồm giảng viên, phương pháp sư phạm và nội dung giáo trình, cùng với nhóm bạn học Tác giả đã chuyển đổi ba yếu tố này thành các chỉ báo cụ thể để áp dụng trong phỏng vấn sâu.
Bối cảnh gia đình ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của sinh viên, đặc biệt là về mặt kinh tế Nhiều sinh viên phải làm thêm để kiếm thêm thu nhập nhằm trang trải chi phí học tập Mức chi tiêu hàng tháng của họ thường phụ thuộc vào hoàn cảnh tài chính của gia đình, từ đó ảnh hưởng đến khả năng tập trung vào việc học và phát triển bản thân.
Tình trạng học tập của sinh viên (SV) có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, bao gồm điều kiện học tập như phương tiện học tập có đầy đủ hay không, và việc có phải phụ giúp gia đình trong công việc nhà Hơn nữa, tình trạng hôn nhân của bố mẹ, đặc biệt là sự hạnh phúc trong gia đình, cũng có thể tác động đến hiệu quả học tập của SV Cuối cùng, nghề nghiệp của bố mẹ, với sự khác biệt giữa cha mẹ làm nghề lao động trí óc và cha mẹ làm nghề lao động chân tay, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành định hướng và động lực học tập của sinh viên.
Tổng quan về địa bàn nghiên cứu và mẫu nghiên cứu
1.5.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Trường Đại học Tài chính – Kế toán, có lịch sử lâu dài, được thành lập từ Trường Trung học Tài chính Kế toán vào ngày 28 tháng 6 năm 1976, trực thuộc Bộ Tài chính và đặt tại Thị trấn La Hà, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi Trường đã trải qua ba giai đoạn phát triển quan trọng từ năm 1976.
Trường Đại học Tài chính – Kế toán, có diện tích 144.527 m² tại cơ sở chính, đã trải qua ba giai đoạn phát triển: bắt đầu từ năm 1996 với tên gọi Trường Trung học Tài chính Kế toán, tiếp theo là Trường Cao Đẳng Tài chính Kế toán từ năm 1997 đến 2011, và chính thức trở thành Trường Đại học Tài chính – Kế toán từ tháng 7 năm 2011 cho đến nay.
Trường hiện có 240 cán bộ công chức, viên chức, bao gồm giảng viên, giảng viên kiêm chức và cán bộ quản lý Nhà trường đào tạo 6 ngành chính: Tài chính – Ngân hàng, Kế toán, Kiểm toán, Kinh doanh quốc tế, Quản trị kinh doanh và Luật kinh tế, với 11 chuyên ngành cụ thể Phân hiệu trường Đại học Tài chính - Kế toán tại Thừa Thiên Huế được thành lập theo Quyết định số 64/QĐ-BGDĐT ngày 08/01/2018, tọa lạc tại xã Phú Thượng, huyện Phú Vang Do mới thành lập và chỉ tuyển sinh được 75 sinh viên trong khóa đầu tiên, tác giả không tiến hành khảo sát tại phân hiệu mà chỉ thực hiện khảo sát với sinh viên tại cơ sở chính.
Hiện tại, trường đang đào tạo và bồi dưỡng 1.649 sinh viên đại học chính quy, trong đó có 403 sinh viên năm 1, 406 sinh viên năm 2, 327 sinh viên năm 3 và 513 sinh viên năm 4 Tỷ lệ sinh viên nam chiếm 15,9% với 262 sinh viên, trong khi sinh viên nữ chiếm 84,1% với 1.387 sinh viên Ngoài ra, trường còn cung cấp chương trình đào tạo cho sinh viên liên thông và cao đẳng.
Trường Đại học Tài chính - Kế toán tại Quảng Ngãi chịu ảnh hưởng từ các yếu tố kinh tế-xã hội địa phương, điều này thể hiện qua đặc điểm của sinh viên Nhiều sinh viên chọn trường làm nguyện vọng 1 do học lực không cao và mong muốn tiết kiệm chi phí so với việc học tại các thành phố lớn Một số sinh viên khác chọn nguyện vọng 2 vì không đậu vào các trường lớn tại Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Đà Nẵng, từ đó họ lựa chọn học gần nhà Bên cạnh đó, nền tảng học tập từ các cấp học dưới cũng ảnh hưởng đến tính tích cực trong học tập của sinh viên, khi mà phương pháp học ở đại học khác biệt so với trung học.
Tỉnh Quảng Ngãi, trung tâm công nghiệp miền Trung với 19 khu công nghiệp, đang đối mặt với vấn đề tâm lý nghề nghiệp của sinh viên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông Nhiều bạn trẻ thường phải lựa chọn giữa việc tiếp tục học tập hoặc trở thành công nhân, dẫn đến sự định kiến xã hội về nghề nghiệp trí óc và nghề nghiệp tay chân Tác giả, với kinh nghiệm làm việc tại trường và tiếp xúc với sinh viên, nhận thấy sự lo lắng của họ về việc trở thành công nhân, từ đó ảnh hưởng đến động lực học tập Bài luận văn này sẽ nghiên cứu vấn đề học tập của sinh viên tại trường Đại học Tài chính-Kế toán ở Quảng Ngãi, nhằm làm rõ những đặc điểm văn hóa-xã hội của địa phương.
1.5.2 Mô tả mẫu nghiên cứu
1.5.2.1 Đặc điểm mẫu điều tra bằng bản câu hỏi
Mẫu điều tra bằng bản câu hỏi bao gồm 400 khách thể, với các đặc điểm về giới tính, khóa học, khu vực sinh sống và mức sống gia đình được trình bày trong bảng dưới đây.
Bảng 1.1 Mô tả mẫu theo giới tính, số năm học, khu vực sống và mức sống Đặc điểm mẫu nghiên cứu Tần số Tỷ lệ phần trăm Ghi chú
Khu vực sinh sống theo hộ khẩu
Mức sống của gia đình
(Nguồn: Số liệu khảo sát của luận văn, 12.2018)
Kết quả từ bảng 1.1 cho thấy tỷ lệ nữ sinh viên là 87,8% và nam sinh viên là 12,2%, cho thấy sự phân bố không đồng đều về giới tính trong các ngành đào tạo tại Trường Đại học Tài chính – Kế toán, với nữ sinh viên chiếm ưu thế Điều này cũng phản ánh hạn chế của phương pháp chọn mẫu thuận tiện, khi những người được khảo sát dễ tiếp cận Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên đại học chính quy toàn trường là 15,9% nam và 84,1% nữ, cho thấy mẫu nghiên cứu đạt tỷ lệ tương ứng với tổng thể sinh viên của trường.
Theo khảo sát, số lượng sinh viên tham gia từ các năm học là đồng đều, với 100 sinh viên năm nhất (SV1), 100 sinh viên năm hai (SV2), 100 sinh viên năm ba (SV3) và 100 sinh viên năm tư (SV4), mỗi nhóm chiếm 25% Tác giả cho rằng tỷ lệ này là hợp lý do sự chênh lệch số lượng sinh viên giữa các khóa không lớn, cụ thể là sinh viên năm 1 có 403, năm 2 có 406, năm 3 có 327 và năm 4 có 513.
Theo khảo sát, sinh viên có hộ khẩu thường trú tại nông thôn chiếm 54,2%, trong khi sinh viên từ thành phố chỉ chiếm 45,8% Điều này cho thấy Trường Đại học Tài chính – Kế toán không chỉ thu hút sinh viên từ nông thôn mà còn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với sinh viên thành phố.
Theo khảo sát về mức sống gia đình, 74,5% sinh viên Đại học Tài chính – Kế toán đánh giá gia đình mình ở mức trung bình, trong khi chỉ có 2,0% cho rằng gia đình họ giàu Mức sống khá chiếm 9,0%, cận nghèo là 6,8% và nghèo là 7,8% Điều này cho thấy đa số sinh viên đến từ những gia đình có mức sống trung bình.
1.5.2.2 Đặc điểm mẫu phỏng vấn sâu
Trong phần tiếp theo, tác giả sẽ trình bày về đặc điểm của mẫu phỏng vấn sâu, bao gồm 20 khách thể Đặc điểm nhân khẩu của mẫu khảo sát sẽ được mô tả chi tiết, nhằm cung cấp cái nhìn rõ hơn về đối tượng nghiên cứu.
Trước khi mô tả chi tiết về đặc điểm nhân khẩu, tác giả đã tổng hợp thông tin cơ bản về nhân khẩu và hoàn cảnh gia đình của các đối tượng trong bảng dưới đây.
Bảng 1.2 Khái lược thông tin mẫu khảo sát
Tôn giáo Nơi thường trú Nơi ở đi học
Nguyện vọng đăng ký xét tuyển/thi đại học
Kết quả học tập học kỳ vừa qua
Số thành viên trong gia đình
Tình trạng hôn nhân của cha mẹ
Thu nhập bình quân của gia đình/tháng
SV01 Nữ 1999 Kế toán kiểm toán 3 Kinh Không
Xã Tịnh Thọ, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Ký túc xá 2 Không khá 5 Hôn nhân Nông Công nhân 11.000.000đ
SV02 Nữ 1998 Kế toán kiểm toán 4 Kinh Không
Xã Phổ Minh, Đức Phổ, Quảng Ngãi
Ký túc xá 2 Không Xuất sắc 4 Ly hôn Xây dựng Nông 7.400.000đ-
Xã Bình Hiệp, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Gia đình 1 Không Giỏi 4 Hôn nhân Giáo viên
SV04 Nam 1997 Kế toán kiểm toán 4 Kinh Không
Thành phố Buôn Ma Thuột, Đắc Lắc
Nhà trọ 1 Không Trung bình 4 Hôn nhân
Giám đốc Cty xây dựng
SV05 Nam 1999 Quản trị kinh doanh 3 Kinh Phật giáo
Xã Bình Trị, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Nhà trọ 1 Không Trung bình 6 Hôn nhân Ngư nghiệp
SV06 Nam 2001 Kế toán kiểm toán 1 Kinh Phật giáo
Lộ, Thành phố Quảng Ngãi, Quảng Ngãi
Gia đình 1 Không Giỏi 4 Hôn nhân
Giáo viên về hưu (may
SV07 Nam 2001 Kế toán kiểm toán 1 Kinh
Xã Bình Thạnh, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Nhà trọ 2 Không Trung bình 5 Hôn nhân Thợ hồ Phụ hồ 17.000.000đ –
SV08 Nữ 2001 Luật Kinh tế 1 Kinh Không
Xã Tân Thành, Hướng Hóa, Quảng Trị
Ký túc xá 2 Có Trung bình 5 Hôn nhân Xe ôm Nông 6.000.000đ-
SV09 Nữ 2001 Tài chính ngân hàng 1 Kinh Không
Lộ, Thành phố Quảng Ngãi, Quảng Ngãi
Gia đình 2 Không Giỏi 4 Hôn nhân
SV10 Nữ 2001 Quan trị kinh doanh 1 Kinh Không
Xã Bình Dương, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Nhà trọ 1 Có Khá 5 Hôn nhân Nông Nông 6.500.000đ
SV11 Nam 2000 Kế toán kiểm toán 2 Kinh Không
Gia đình 2 Không Giỏi 4 Hôn nhân Giáo viên
SV12 Nữ 2000 Quản trị kinh doanh 2 Kinh Không
Gia đình 1 Không Xuất sắc 4 Hôn nhân Giáo viên
SV13 Nam 1999 Tài chính ngân hàng 2 Kinh Không
Xã Bình Long, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Nhà trọ 1 Không Trung bình 4 Mẹ đơn thân Không
SV14 Nữ 2000 Kê toán kiểm toán 2 Kinh Không
Gia đình 1 Không Trung bình 6 Mồ côi cha mẹ Ông bà làm nông 6.000.000đ-
SV15 Nữ 2000 Luật kinh tế 2 Kinh Không Xã Bình Trung, Gia đình 2 Có Trung 4 (Cha đã Cha đã Nông, 6.000.000đ-
Bình Sơn, Quảng Ngãi bình mất) mất) buôn bán
SV16 Nữ 1998 Kê toán kiểm toán 3 Kinh Không
Gia đình 2 Không Xuất sắc 4 Hôn nhân Giáo viên
SV17 Nữ 1999 Kê toán kiểm toán 3 Kinh Phật giáo
Xã Tịnh Bình, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Nhà trọ 1 Không Trung bình 4 Hôn nhân Nông Nông 8.000.000đ
SV18 Nữ 1998 Tài chính ngân hàng 4 Kinh Không
Xã Bình Dương, Bình Sơn, Quảng Ngãi
Nhà trọ 2 Không Khá 4 Hôn nhân Nông Nông 8.000.000đ
SV19 Nam 1997 Quản trị kinh doanh 4 Kinh Không Thành phố Tam
Kỳ, Quảng Nam Nhà trọ 1 Không Trung bình 3 Hôn nhân
SV20 Nữ 1997 Kê toán kiểm toán 4 Kinh Không
Xã Tịnh Hà, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Gia đình 1 Không Trung bình 4 Hôn nhân Nông Nông 10.000.000đ
(*) Ghi chú: Để đảm bảo nguyên tắc ẩn danh, tác giả đã đổi tên của những người được khảo sát thành các ký hiệu riêng
Theo bảng 1.2, nhóm khách thể khảo sát có độ tuổi dao động từ 19 đến 23, với độ tuổi cao nhất là 23 tuổi (sinh năm 1997) và độ tuổi thấp nhất là 19 tuổi (sinh năm 2001).
Trong cuộc khảo sát, tác giả đã mời 8 sinh viên nam và 12 sinh viên nữ tham gia, do số lượng sinh viên nam trong trường khá ít so với nữ Sự nhiệt tình tham gia phỏng vấn của nữ sinh viên cũng cao hơn, vì họ thường cởi mở và sẵn sàng chia sẻ hơn nam.
Về tôn giáo, có một sinh viên theo Thiên chúa giáo, ba sinh viên theo Phật giáo và mười sáu sinh viên không theo tôn giáo nào
THỰC TRẠNG TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – KẾ TOÁN
Thực trạng nhận thức của sinh viên về học tập tích cực
Nhận thức của sinh viên về học tập tích cực đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập Bài viết này sẽ trình bày kết quả khảo sát về thực trạng nhận thức của sinh viên đối với hoạt động học tập tích cực trong giờ lên lớp cũng như ngoài giờ lên lớp.
2.1.1 Thực trạng nhận thức của sinh viên đối với hoạt động học tập tích cực trong giờ lên lớp
Hoạt động học tập trong giờ lên lớp là rất quan trọng, yêu cầu sinh viên tham gia, tự tin bộc lộ ý kiến và suy nghĩ của mình Điều này không chỉ giúp sinh viên khám phá những điều chưa rõ mà còn tạo mối quan hệ giao tiếp và hợp tác giữa sinh viên với giảng viên và giữa các sinh viên với nhau, từ đó nâng cao hiệu quả dạy và học Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải tất cả sinh viên đều nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động này Kết quả khảo sát sẽ được trình bày trong bảng sau.
Bảng 2.1 Nhận thức của sinh viên về học tập tích cực trong giờ lên lớp
Nhận thức của SV Đúng Sai Không ý kiến
4 Tham gia thảo luận nhóm 377 2 21 400 94,25 5,75
6 Trao đổi với giảng viên những vấn đề bạn chưa hiểu 349 9 42 400 87,25 12,75
7 Tham gia phát biểu xây dựng bài 346 7 47 400 86,50 13,50
8 Tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ những vấn đề đã học 338 7 55 400 84,50 15,50
9 Tham gia đặt câu hỏi 323 12 65 400 80,75 19,25
10 Tóm tắt bài theo cách riêng 315 18 67 400 78,75 21,25
11 Làm việc riêng trong giờ học 25 340 35 400 15,00 85,00
(Nguồn : Số liệu khảo sát của luận văn, 12.2018)
Chú thích: A= % nhận thức đúng về học tập tích cực = (số lượng sinh viên nhận thức đúng về học tập tích cực / 400)*100%
B= % nhận thức sai và không có ý kiến về học tập tích cực = (nhận thức sai, băn khoăn và không biết về học tập tích cực /400)*100%
Trong 12 biến quan sát tác giả dùng để hỏi sinh viên đối với các hoạt động học tập tích cực trong giờ lên lớp có hai biến tác giả sử dụng để kiểm tra việc hoàn thành bản câu hỏi của sinh viên chứ không mang ý nghĩa lý luận, gồm: Làm việc riêng trong giờ học và ngủ gật trong lớp Các hoạt động học tập tích cực trong giờ lên lớp khi được hỏi với 400 sinh viên tham gia trả lời, kết quả sinh viên có lựa chọn đúng cao nhất với hoạt động đi học đúng giờ là 395 sinh viên chiếm 98,75%; thứ hai là đi học đầy đủ có
392 sinh viên chiếm 98,0%; tiếp đến là chăm chú nghe giảng có 387 sinh viên chiếm 96,75%; tham gia thảo luận nhóm là 377 sinh viên chiếm 94,24%; chép bài đầy đủ là
351 sinh viên chiếm 87,75%; trao đổi với giảng viên những vấn đề bạn chưa hiểu là
Trong số 400 sinh viên tham gia khảo sát, có 349 sinh viên (chiếm 87,25%) đã tham gia phát biểu xây dựng bài, 346 sinh viên (86,5%) tham gia tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ những vấn đề đã học, và 338 sinh viên (84,5%) đã tham gia đặt câu hỏi Số lượng sinh viên tóm tắt bài theo cách riêng là 315, chiếm 78,75% Đáng chú ý, chỉ có 5 sinh viên (chiếm 1,25%) lựa chọn sai, không biết hoặc băn khoăn về việc đi học đúng giờ.
Theo kết quả khảo sát, có 8 sinh viên (2,0%) đi học đầy đủ, 13 sinh viên (3,25%) chăm chú nghe giảng, và 49 sinh viên (12,25%) chép bài đầy đủ Bên cạnh đó, 85 sinh viên (21,25%) băn khoăn về việc tóm tắt bài, 77 sinh viên (19,25%) tham gia đặt câu hỏi, và 62 sinh viên (15,5%) tranh luận với bạn bè để làm rõ vấn đề đã học Ngoài ra, 54 sinh viên (13,5%) phát biểu xây dựng bài, 51 sinh viên (12,75%) trao đổi với giảng viên về những vấn đề chưa hiểu, 23 sinh viên (5,75%) tham gia thảo luận nhóm, và 5 sinh viên (1,25%) đi học đúng giờ Kết quả cho thấy hầu hết sinh viên trường ĐHTCKT có nhận thức tốt về các hoạt động học tập tích cực trong giờ lên lớp, điều này cũng được xác nhận qua các cuộc phỏng vấn sâu với sinh viên.
Học tập tích cực bao gồm việc đi học đầy đủ, tập trung lắng nghe giảng viên, hoàn thành các bài tập và nhiệm vụ được giao, cũng như chuẩn bị bài trước khi đến lớp Sinh viên nên tìm kiếm tài liệu bổ sung và chăm chỉ làm bài tập để nâng cao kiến thức.
Một sinh viên năm 3 có học lực xuất sắc đã chia sẻ quan niệm về học tích cực một cách chi tiết hơn:
Học tập tích cực ở đại học yêu cầu sinh viên phải chủ động và tự giác trong việc học Điều này bao gồm việc đi học đều đặn và đúng giờ, lắng nghe giảng viên, ghi chép những điểm quan trọng, hoàn thành bài tập và công việc được giao Sinh viên cũng cần chuẩn bị bài trước khi đến lớp, đánh dấu những phần khó hiểu để hỏi giảng viên và bạn bè, cũng như tìm thêm tài liệu từ thư viện để củng cố kiến thức Mục tiêu là nắm vững kiến thức từng môn học để đạt kết quả học tập tốt.
Một sinh viên khác cũng có học lực xuất sắc thì nhấn mạnh đến yếu tố học tập tích cực là một quá trình liên tục:
Học tập tích cực ở đại học đòi hỏi sinh viên phải chủ động trong việc học, bao gồm việc tìm hiểu mục tiêu môn học và lập kế hoạch cụ thể cho từng môn Sinh viên cần đặt ra mục tiêu điểm số cho mỗi môn học và xây dựng kế hoạch chi tiết để nỗ lực đạt được những mục tiêu đó Việc cố gắng hàng ngày là rất quan trọng, thay vì chờ đến mùa thi mới bắt đầu ôn tập, vì điều này có thể dẫn đến thất bại trong học tập.
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên có nhận thức tốt về các hoạt động học tập tích cực trong lớp, với tỷ lệ nhận thức đúng từ 78,75% đến 98,75% Qua các cuộc phỏng vấn sâu, chỉ có từ 1,25% đến 21,25% sinh viên bày tỏ sự băn khoăn hoặc không biết về các hoạt động này Đặc biệt, sinh viên nhận thức đúng cao nhất về các quy định nội quy, như đi học đúng giờ (98,75%), đi học đầy đủ (98,0%) và chăm chú nghe giảng (96,75%).
2.1.2 Thực trạng nhận thức của sinh viên đối với hoạt động học tập tích cực ngoài giờ lên lớp Đối với sinh viên đại học thì học tập tích cực không chỉ trong giờ học trên lớp mà việc học tập tích cực ngoài giờ lên lớp cũng vô cùng quan trọng và không thể thiếu nếu muốn đạt được kết quả học tập tốt nhất Đặc biệt, với học chế tín chỉ hiện nay, một giờ học trên lớp sinh viên nên có ít nhất hai giờ tự học ở nhà thì mới có thể đáp ứng được yêu cầu học tập ở đại học Điều này chứng tỏ việc học tập tích cực ngoài giờ lên lớp là vô cùng quan trọng đối với sinh viên Kết quả khảo sát về nhận thức của sinh viên đối với hoạt động học tập tích cực ngoài giờ lên lớp được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2.2 Nhận thức của sinh viên về học tập tích cực ngoài giờ lên lớp
Nhận thức của SV Đúng Sai Không ý kiến
2 Nghiêm túc tự đánh giá kết quả học tập của bản thân 376 5 19 400 94,00 6,00
4 Giữ gìn, bảo quản tốt tài liệu học tập 361 8 31 400 90,25 9,75
5 Có lập kế hoạch học tập cụ thể 353 5 42 400 88,25 11,75
6 Chuẩn bị bài trước khi đến lớp 352 12 36 400 88,00 12,00
7 Tìm ra phương pháp học tập phù hợp cho từng môn học 350 4 46 400 87,50 12,50
8 Tìm tài liệu phục vụ học tập
9 Tìm hiểu mục tiêu môn học 333 6 61 400 83,25 16,75
10 Dành nhiều thời gian cho việc tự học 330 21 49 400 82,50 17,50
11 Tham dự các buổi thảo luận, thuyết trình chuyên đề 328 23 49 400 82,00 18,00
12 Vận dụng kiến thức một cách sáng tạo vào cuộc sống 317 11 72 400 79,25 20,75
13 Tham gia nghiên cứu khoa học 265 23 112 400 66,25 33,75
14 Khi sắp thi mới học bài 74 268 58 400 33,00 67,00
(Nguồn: Kết quả khảo sát của luận văn, 12.2018)
Chú thích: A= % nhận thức đúng về học tập tích cực = (số lượng sinh viên nhận thức đúng về học tập tích cực / 400)*100%
B= % nhận thức sai, băn khoăn và không biết về học tập tích cực = (nhận thức sai, băn khoăn và không biết về học tập tích cực /400)*100%
Kết quả khảo sát từ bảng 2.2 cho thấy biến quan sát thứ 6, "Khi sắp thi mới học bài", không phản ánh hoạt động học tập tích cực Tuy nhiên, tác giả sử dụng biến này với hai mục đích: kiểm tra việc hoàn thành bản câu hỏi của sinh viên và kiểm định tình hình thực tế của sinh viên.
Kết quả khảo sát cho thấy 67% sinh viên đã chọn sai về khái niệm học tập tích cực, trong khi chỉ có 33% chọn đúng hoặc băn khoăn Câu nói “văn ôn, võ luyện” nhấn mạnh rằng để thành thạo, sinh viên cần thực hành và ôn tập thường xuyên Việc học chỉ vào thời điểm thi không mang lại hiệu quả lâu dài, mà chỉ là cách học đối phó Một sinh viên năm 2 đã chia sẻ rằng nỗ lực hàng ngày là quan trọng hơn là chờ đến mùa thi Do đó, cần có biện pháp hỗ trợ sinh viên hiểu đúng về học tập tích cực, nhận thức rằng học đại học không chỉ để vượt qua kỳ thi hay nhận bằng cấp, mà là quá trình tự học để áp dụng kiến thức vào công việc tương lai.
Tác giả phân chia 13 biến quan sát thành hai nhóm để phân tích: Nhóm đầu tiên bao gồm các hoạt động học tập tích cực ngoài giờ lên lớp chịu sự chi phối của các yếu tố khách quan như chuẩn bị bài trước khi đến lớp, nộp bài đúng hạn, tham dự thảo luận và thuyết trình, tham gia nghiên cứu khoa học, và trao đổi nhóm Nhóm thứ hai bao gồm các hoạt động học tập tích cực chịu chi phối bởi chủ thể, bao gồm lập kế hoạch học tập cụ thể, tìm hiểu mục tiêu môn học, xác định phương pháp học tập phù hợp, tìm tài liệu học tập từ Internet và thư viện, vận dụng kiến thức sáng tạo vào cuộc sống, dành thời gian cho tự học, bảo quản tài liệu học tập, và nghiêm túc tự đánh giá kết quả học tập.
Kết quả khảo sát từ 400 sinh viên cho thấy hoạt động nộp bài đúng hạn được lựa chọn đúng nhiều nhất với 96,25%, tiếp theo là trao đổi nhóm (90,25%), chuẩn bị bài trước khi đến lớp (88,0%), tham dự thảo luận và thuyết trình chuyên đề (82,0%), và thấp nhất là tham gia nghiên cứu khoa học (66,25%) Số sinh viên không chắc chắn hoặc cho rằng lựa chọn của mình sai cao nhất là ở hoạt động nghiên cứu khoa học (33,75%), tiếp theo là thảo luận và thuyết trình (18,0%), chuẩn bị bài (12,0%), trao đổi nhóm (9,75%), và nộp bài đúng hạn (3,75%) Qua phỏng vấn sâu, hầu hết sinh viên đều nhận thức tốt về học tập tích cực, cho thấy sự quan tâm và hiểu biết về các hoạt động này.
Học tích cực bao gồm việc tham gia đầy đủ các buổi học, tập trung lắng nghe giảng viên, ghi chép bài đầy đủ và thường xuyên đọc tài liệu tại thư viện Sinh viên cần chăm chỉ học tập, làm bài tập đều đặn, tham gia học nhóm, học hỏi từ bạn bè và thầy cô, cũng như tích cực tham gia các hoạt động lớp, phong trào và chuyên đề của khoa Những yếu tố này sẽ giúp nâng cao hiệu quả học tập và cải thiện xếp loại học lực.
Hay một sinh viên khác cho biết thêm:
Thực trạng thái độ học tập tích cực của sinh viên
Thái độ học tập tích cực là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả học tập, đặc biệt đối với sinh viên đại học, nơi tự học đóng vai trò chủ chốt Sinh viên cần có ý chí quyết tâm cao, thái độ học tập ổn định, nghiêm túc và đầy hào hứng Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải tất cả sinh viên đều thể hiện thái độ học tập tích cực như mong đợi Tác giả đã tiến hành khảo sát để đánh giá thực trạng thái độ học tập của sinh viên tại trường ĐHTCKT, với kết quả cụ thể sẽ được trình bày.
Bảng 2.3 Thái độ học tập tích cực của sinh viên
1 Đảm bảo kỷ luật để học tốt 2,50 7,50 90,00
2 Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập của mình một cách trung thực
3 Hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc 4,00 18,75 77,25
4 Cố gắng tích lũy nhiều kiến thức và kỹ năng 6,25 19,25 74,50
5 Hăng hái nhiệt tình trong giờ thảo luận và chữa bài tập 10,75 33,00 56,25
6 Thích độc lập thực hiện nhiệm vụ học tập 19,00 32,00 49,00
7 Tâm trạng hào hứng đối với giờ học trên lớp 7,50 43,75 48,75
8 Không vội vàng phản ứng tiêu cực nếu có chỗ nào chưa hiểu hoặc không nhất trí với bài giảng
9 Tâm trạng hào hứng đối với giờ tự học ngoài giờ lên lớp 14,00 55,25 30,75
10 Tâm trạng mệt mỏi, chán nản đối với giờ tự học ngoài giờ lên lớp
11 Tâm trạng mệt mỏi, chán nản đối với giờ học trên lớp 41,75 48,50 9,75
(Nguồn : Số liệu khảo sát của luận văn, 12.2018)
Kết quả khảo sát từ 400 sinh viên cho thấy thái độ học tập tích cực được đánh giá cao, với 90% sinh viên thường xuyên đảm bảo kỷ luật để học tốt Bên cạnh đó, 83,25% sinh viên thể hiện nỗ lực đạt thành tích học tập tốt và trung thực, trong khi 12,5% đánh giá mức độ thỉnh thoảng Thái độ hoàn thành nhiệm vụ học tập nghiêm túc cũng được ghi nhận, phản ánh sự cam kết của sinh viên trong việc nâng cao kết quả học tập.
Trong một khảo sát về thái độ học tập của sinh viên, 77,25% trong số 309 sinh viên đánh giá mức độ tham gia học tập của họ là thường xuyên, trong khi 18,75% cho rằng họ tham gia thỉnh thoảng và 4% hiếm khi tham gia Về việc cố gắng tích lũy kiến thức và kỹ năng, 74,5% sinh viên đánh giá là thường xuyên, 19,25% thỉnh thoảng và 6,25% hiếm khi Đối với thái độ hăng hái trong giờ thảo luận và chữa bài tập, 56,25% sinh viên cho biết họ thường xuyên tham gia, 33% thỉnh thoảng và 10,75% hiếm khi Khi nói đến việc thực hiện nhiệm vụ học tập một cách độc lập, 49% sinh viên đánh giá là thường xuyên, 32% thỉnh thoảng và 19% hiếm khi Cuối cùng, 195 sinh viên cho biết họ thường xuyên cảm thấy hào hứng trong giờ học trên lớp.
Theo khảo sát, có 48,75% sinh viên đánh giá thái độ học tập tích cực ở mức thường xuyên, trong khi 43,75% cho rằng họ chỉ thỉnh thoảng thể hiện thái độ này và 7,5% hiếm khi Về việc không vội vàng phản ứng tiêu cực khi không hiểu bài giảng, 43% sinh viên đánh giá thường xuyên, 30% thỉnh thoảng và 27% hiếm khi Đối với tâm trạng hào hứng trong giờ tự học ngoài giờ lên lớp, 30,75% sinh viên đánh giá thường xuyên, 55,25% thỉnh thoảng và 14% hiếm khi Ngược lại, tâm trạng mệt mỏi và chán nản trong giờ tự học có 13,75% sinh viên đánh giá thường xuyên, 39,5% thỉnh thoảng và 46,75% hiếm khi Cuối cùng, thái độ mệt mỏi trong giờ học trên lớp được 9,75% sinh viên đánh giá thường xuyên, 48,5% thỉnh thoảng và 41,75% hiếm khi.
Kết quả khảo sát cho thấy sinh viên trường ĐHTCKT thường xuyên có thái độ tích cực đối với việc đảm bảo kỷ luật trong học tập, với 90% sinh viên cho rằng việc này rất quan trọng Hầu hết sinh viên đều nhận thức rõ về việc đi học đúng giờ (98,75%) và đi học đầy đủ (98%) Để đạt hiệu quả cao trong học tập, việc tuân thủ kỷ luật trong và ngoài giờ học là rất cần thiết Sinh viên cần có thái độ tự nguyện và nghiêm túc thực hiện các quy định chung của nhà trường và lớp học, và nếu không tuân thủ, việc học tập sẽ gặp khó khăn Ngoài ra, kỷ luật trong giờ tự học cũng đóng vai trò quan trọng, giúp sinh viên nâng cao kết quả học tập Tính kỷ luật không chỉ cần thiết trong học tập mà còn được nhấn mạnh trong giáo dục, như lời Bác Hồ đã chỉ rõ về quân đội Khẩu hiệu “Kỷ cương, hội nhập” tại trường ĐHTCKT cũng thể hiện tầm quan trọng của kỷ luật trong quá trình học tập Thái độ tích cực của sinh viên đối với kỷ luật sẽ là nền tảng vững chắc để đạt được kết quả học tập cao.
Các thái độ học tập tích cực được sinh viên đánh giá ở mức tương đối cao như:
Sinh viên trường ĐHTCKT thể hiện ý chí và nỗ lực cao trong việc đạt thành tích học tập tốt, với 83,25% thường xuyên cố gắng học tập trung thực Họ cũng hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách nghiêm túc (77,25%) và tích lũy kiến thức, kỹ năng (74,5%) Những con số này cho thấy sinh viên có quyết tâm mạnh mẽ và đây là dấu hiệu tích cực cho các hành vi học tập của họ.
Các thái độ học tập tích cực được sinh viên đánh giá ở mức tương đối thấp như:
Hơn một nửa sinh viên trường ĐHTCKT thể hiện sự hăng hái trong giờ thảo luận và chữa bài tập, trong khi gần 49% thích thực hiện nhiệm vụ học tập một cách độc lập Tuy nhiên, thái độ học tập tích cực của sinh viên vẫn còn hạn chế, đặc biệt trong các hoạt động tự học Điều này cho thấy sinh viên cần nhận thức rõ vị trí của bản thân trong hành trình học đại học và tìm thấy niềm vui, sự hứng thú trong việc học Học đại học thực chất là quá trình tự học có sự hướng dẫn của giảng viên, do đó, sinh viên cần rèn luyện khả năng tự học và phát triển thái độ tích cực trong việc học tập Việc này sẽ giúp sinh viên cập nhật kịp thời với sự thay đổi của kiến thức, tránh bị tụt hậu trong hành trình học tập suốt đời.
Thái độ học tập tích cực của sinh viên hiện đang ở mức khá thấp, với chỉ 30,75% sinh viên thường xuyên cảm thấy hào hứng trong giờ tự học ngoài lớp Ngược lại, 13,75% sinh viên thường xuyên cảm thấy mệt mỏi và chán nản trong giờ tự học, trong khi 9,75% cảm thấy như vậy trong giờ học trên lớp Kết quả phỏng vấn cho thấy thái độ học tập tích cực không được duy trì liên tục, đặc biệt là đối với các môn đại cương, trong khi sinh viên thường có thái độ tích cực hơn đối với các môn chuyên ngành Khi được hỏi về các môn học không yêu thích, nhiều sinh viên cho biết họ không thích học các môn như “chính trị”, “Mác Lê-nin” và “tin học đại cương” do lý thuyết quá nhiều, khó hiểu và không ứng dụng thực tế trong công việc sau này.
Nhiều sinh viên trong ngành kế toán kiểm toán bày tỏ sự không thích đối với các môn học lý thuyết chính trị như Mác-Lê Nin Một sinh viên năm 2 cho biết: “Em không thích nhất mấy môn chính trị, khả năng học bài của em hơi kém, với lý thuyết suông thì hơi không thích cho lắm.” Tương tự, một sinh viên năm 1 chia sẻ: “Môn em không thích thì mấy môn về Mác Lê nin, học toàn lý thuyết, khó hiểu Với mấy môn này em không thấy liên quan gì nhiều đến công việc sau này của em nên em cũng không hứng thú và đầu tư nhiều.”
Khi được hỏi về môn học yêu thích, hầu hết sinh viên đều chọn các môn chuyên ngành, coi đây là nền tảng cho sự nghiệp tương lai Các môn học như quản lý hành chính công, thuế, toán cao cấp, xác suất thống kê và nguyên lý thống kê được đặc biệt yêu thích Một sinh viên năm 3 chia sẻ: “Môn em thích nhất là nguyên lý thống kê, vì đây là môn cốt lõi của ngành kế toán Em luôn chuẩn bị tinh thần để yêu thích và đầu tư vào môn học này, mặc dù nó không dễ.”
Thực trạng hành vi học tập tích cực của sinh viên
Hành vi học tập tích cực của sinh viên có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả học tập Dù sinh viên có nhận thức và thái độ tốt, nếu không thể hiện qua hành động học tập tích cực, kết quả học tập sẽ không cao Để hiểu rõ hơn về thực trạng này, tác giả đã khảo sát hành vi học tập tích cực của 400 sinh viên trường ĐHTCKT trong và ngoài giờ lên lớp, và sẽ trình bày kết quả chi tiết dưới đây.
2.3.1 Thực trạng hành vi học tập tích cực trong giờ lên lớp của sinh viên
Hoạt động học trên lớp của sinh viên đóng vai trò trung tâm trong quá trình dạy và học ở bậc đại học, với sự tham gia và gắn kết của sinh viên trong các nhiệm vụ học tập ở ba bình diện: nhận thức, hành vi và thái độ (Nguyễn Hoàng Đan Huy) Tác giả đã trình bày kết quả khảo sát về mức độ tự đánh giá của sinh viên đối với các hành vi học tập tích cực trong giờ lên lớp qua bảng dưới đây.
Bảng 2.4 Hành vi học tập tích cực trong giờ lên lớp của sinh viên
Hành vi học tập tích cực trong giờ lên lớp của sinh viên
4 Tóm tắt bài theo cách riêng 18,0 35,75 46,25
5 Tham gia thảo luận nhóm 14,25 42,00 43,75
7 Tranh luận với bạn bè để làm sáng tỏ những vấn đề đã học 16,75 42,25 41,00
8 Tham gia phát biểu xây dựng bài 14,75 52,75 32,50
9 Trao đổi với giảng viên những vấn đề chưa hiểu 27,25 42,50 30,25
10 Tham gia đặt câu hỏi 29,50 44,50 26,00
11 Làm việc riêng trong giờ học 65,25 26,00 8,75
(Nguồn : Số liệu khảo sát của luận văn, 12.2018)
Kết quả khảo sát từ bảng 2.4 chỉ ra rằng sinh viên thường xuyên tự đánh giá hành vi học tập tích cực với mức độ cao nhất là việc chăm chú nghe giảng.
Trong một khảo sát, 235 sinh viên cho biết họ đánh giá việc tham gia học tập thường xuyên chiếm 58,75%, trong khi 140 sinh viên cho rằng họ tham gia thỉnh thoảng với tỷ lệ 35,0%, và 25 sinh viên hiếm khi tham gia, chiếm 6,25% Về việc đi học đầy đủ, 229 sinh viên thường xuyên tham gia với tỷ lệ 57,25%, 143 sinh viên thỉnh thoảng tham gia (35,75%), và 28 sinh viên hiếm khi tham gia (7,0%) Cuối cùng, trong khía cạnh đi học đúng giờ, 221 sinh viên cho biết họ thường xuyên đến lớp (55,25%), trong khi 152 sinh viên tham gia thỉnh thoảng (38,0%).
Kết quả khảo sát cho thấy 27 sinh viên hiếm khi tham gia học tập, chiếm 6,75%, trong khi 185 sinh viên thường xuyên tham gia, chiếm 46,25% Đối với việc tóm tắt bài, có 143 sinh viên thỉnh thoảng tham gia (35,75%) và 72 sinh viên hiếm khi (18,0%) Về thảo luận nhóm, 175 sinh viên thường xuyên tham gia (43,75%), 168 sinh viên thỉnh thoảng (42,0%) và 57 sinh viên hiếm khi (14,25%) Việc chép bài đầy đủ có 172 sinh viên thường xuyên (43,0%), 166 sinh viên thỉnh thoảng (41,5%) và 62 sinh viên hiếm khi (15,5%) Đối với tranh luận với bạn bè, 164 sinh viên thường xuyên (41,0%), 169 sinh viên thỉnh thoảng (42,25%) và 67 sinh viên hiếm khi (16,75%) Tham gia phát biểu xây dựng bài có 130 sinh viên thường xuyên (32,5%), 211 sinh viên thỉnh thoảng (52,75%) và 59 sinh viên hiếm khi (14,75%) Trao đổi với giảng viên có 121 sinh viên thường xuyên (30,25%), 170 sinh viên thỉnh thoảng (42,25%) và 109 sinh viên hiếm khi (27,25%) Về việc đặt câu hỏi, 104 sinh viên thường xuyên (26,0%), 178 sinh viên thỉnh thoảng (44,5%) và 118 sinh viên hiếm khi (29,5%) Sinh viên năm nhất có ý thức học tập tốt hơn so với các năm sau, do vẫn giữ tính kỷ luật từ phổ thông Tuy nhiên, sinh viên năm hai và ba có xu hướng xem nhẹ việc đến lớp Số liệu cho thấy sinh viên năm nhất có số buổi vắng học thấp nhất (3,3 lượt/sinh viên), trong khi năm ba có số lượt vắng học cao nhất (8,7 lượt/sinh viên) Thái độ của sinh viên đối với nội quy học tập được đánh giá cao, với 98,75% sinh viên đi học đúng giờ và 98% đi học đầy đủ.
Hành vi học tập tích cực của sinh viên tại trường ĐHTCKT hiện đang ở mức khá thấp, với tỷ lệ tham gia các hoạt động như tóm tắt bài theo cách riêng (46,25%), thảo luận nhóm (43,75%), và chép bài đầy đủ (43,0%) chỉ đạt mức thường xuyên Ngoài ra, việc tranh luận với bạn bè (41,0%), phát biểu xây dựng bài (32,5%), trao đổi với giảng viên (30,25%), và đặt câu hỏi (26,0%) cũng cho thấy sinh viên còn thụ động trong học tập Điều này phản ánh sự cần thiết phải khuyến khích các hành vi học tập như thảo luận nhóm, tóm tắt bài, và đặt câu hỏi, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và tự học của sinh viên, phù hợp với yêu cầu của Luật Giáo dục 2019 về việc phát huy tính tích cực và khả năng tự học của người học.
Sinh viên tự đánh giá hành vi học tập của mình ở mức rất thấp, với chỉ 8,75% thường xuyên làm việc riêng trong giờ học và 3,5% thường xuyên ngủ gật trong lớp Hai hành động này không được xem là hành vi học tập tích cực, mà chỉ nhằm kiểm tra sự hoàn thành bản câu hỏi của sinh viên Kết quả cho thấy vẫn còn một tỷ lệ nhỏ sinh viên thực hiện các hành vi không tích cực này trong lớp học.
Phân tích kết quả từ bảng 2.4 cho thấy sinh viên trường ĐHTCKT còn hạn chế trong việc thực hiện các hành vi học tập tích cực, chủ yếu thể hiện qua sự thụ động và thiếu sáng tạo trong quá trình học Họ chỉ thường xuyên thực hiện các hành vi mang tính kỷ luật như đi học đầy đủ, đúng giờ và chú ý nghe giảng Ngược lại, các hoạt động học tập chủ động và sáng tạo, yêu cầu tư duy lô-gic và sự tích cực trong giờ học, lại chỉ được thực hiện ở mức độ khá thấp Điều này bao gồm việc tham gia thảo luận nhóm, tóm tắt bài theo cách riêng, tranh luận với bạn bè, phát biểu xây dựng bài, trao đổi với giảng viên và đặt câu hỏi Do đó, cần thiết phải có những giải pháp kịp thời để khuyến khích sinh viên học tập một cách chủ động, sáng tạo và tư duy lô-gic.
2.3.2 Thực trạng hành vi học tập tích cực ngoài giờ lên lớp của sinh viên
Hành vi học tập tích cực ngoài giờ lên lớp của sinh viên đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập, vì học đại học chủ yếu là tự học Giảng viên chỉ định hướng và hướng dẫn, trong khi sinh viên là người quyết định kết quả học tập của mình Kết quả khảo sát về hành vi học tập tích cực của sinh viên được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 2.5 Hành vi học tập tích cực ngoài giờ lên lớp của sinh viên
Hành vi học tập tích cực ngoài giờ lên lớp của sinh viên
1 Nghiêm túc tự đánh giá kết quả học tập của bản thân 8,50 32,25 59,25
3 Dành nhiều thời gian cho việc tự học 7,75 38,00 54,25
4 Giữ gìn, bảo quản tốt tài liệu học tập 9,00 35,00 56,00
5 Tìm ra phương pháp học tập phù hợp cho từng môn học 12,50 33,50 54,00
6 Tìm hiểu mục tiêu môn học 14,00 38,00 48,00
8 Có lập kế hoạch học tập cụ thể 13,00 40,50 46,50
9 Vận dụng kiến thức một cách sáng tạo vào cuộc sống 20,25 36,75 43,00
10 Chuẩn bị bài trước khi đến lớp 17,25 39,75 43,00
11 Khi sắp thi mới học bài 43,50 27,50 29,00
12 Tìm tài liệu phục vụ học tập (từ Internet, thư viện…) 34,50 40,25 25,25
13 Tham gia nghiên cứu khoa học 42,00 35,50 22,50
14 Tham dự các buổi thảo luận, thuyết trình chuyên đề 34,00 46,25 19,75
(Nguồn : Số liệu khảo sát của luận văn, 12.2018)
Theo kết quả từ bảng 2.5, trong số 400 sinh viên tham gia khảo sát, hành vi tự đánh giá kết quả học tập được thực hiện thường xuyên nhất, với 237 sinh viên (chiếm tỷ lệ cao) cho biết họ thường xuyên tự đánh giá.
Theo kết quả khảo sát, có 59,25% sinh viên cho biết họ thường xuyên tham gia vào việc học, trong khi 32,25% thỉnh thoảng tham gia và 8,5% hiếm khi tham gia Về việc giữ gìn và bảo quản tài liệu học tập, 56,0% sinh viên trả lời thường xuyên, 35,0% thỉnh thoảng và 9,0% hiếm khi Đối với việc nộp bài đúng hạn, 54,75% sinh viên cho biết họ thường xuyên thực hiện, 34,0% thỉnh thoảng và phần còn lại hiếm khi.
Trong một khảo sát về hành vi học tập của sinh viên, có 45 sinh viên (11,25%) cho biết họ hiếm khi dành thời gian cho việc học Đáng chú ý, 217 sinh viên (54,25%) thường xuyên học tập, trong khi 152 sinh viên (38,0%) thỉnh thoảng tham gia học Về việc tìm ra phương pháp học tập phù hợp cho từng môn, 216 sinh viên (54,0%) cho biết họ thường xuyên thực hiện, 134 sinh viên (33,5%) thỉnh thoảng, và 50 sinh viên (12,5%) hiếm khi Cuối cùng, 192 sinh viên (48,0%) thường xuyên tìm hiểu mục tiêu của môn học.
Trong một khảo sát, 152 sinh viên cho biết họ thường xuyên học tập với tỷ lệ 38,0%, trong khi 56 sinh viên (14,0%) hiếm khi tham gia Về việc trao đổi nhóm, 192 sinh viên (48,0%) cho biết họ tham gia thường xuyên, 162 sinh viên (40,5%) thỉnh thoảng, và 46 sinh viên (11,5%) hiếm khi Đối với việc lập kế hoạch học tập, 186 sinh viên (46,5%) thường xuyên lập kế hoạch, 162 sinh viên (40,5%) thỉnh thoảng, và 52 sinh viên (13,0%) hiếm khi Khi áp dụng kiến thức vào cuộc sống, 172 sinh viên (43,0%) thường xuyên thực hiện, 147 sinh viên (36,75%) thỉnh thoảng, và 81 sinh viên (20,25%) hiếm khi Về việc chuẩn bị bài trước khi đến lớp, 172 sinh viên (43,0%) thường xuyên chuẩn bị, 159 sinh viên (39,75%) thỉnh thoảng, và 69 sinh viên (17,25%) hiếm khi Cuối cùng, khi sắp thi, 116 sinh viên (29,0%) cho biết họ thường xuyên học bài, 110 sinh viên (27,5%) thỉnh thoảng, và 69 sinh viên (17,25%) hiếm khi.
Internet, thư viện…) có 101 sinh viên trả lời thường xuyên chiếm 25,25%; 161 sinh viên trả lời thỉnh thoảng chiếm 40,25%; 138 sinh viên trả lời hiếm khi chiếm 34,5%
Trong một nghiên cứu khoa học, có 90 sinh viên tham gia trả lời thường xuyên, chiếm 22,5%; 142 sinh viên trả lời thỉnh thoảng, chiếm 35,5%; và 168 sinh viên hiếm khi tham gia, chiếm 42,0% Ngoài ra, có 79 sinh viên tham dự các buổi thảo luận và thuyết trình chuyên đề.
19,75%; 185 sinh viên trả lời thỉnh thoảng chiếm 46,25%; và 136 sinh viên trả lời hiếm khi chiếm 34,0%
Kết quả khảo sát cho thấy mức độ thực hiện các hành vi học tập tích cực ngoài giờ lên lớp của sinh viên trường ĐHTCKT còn hạn chế, với tỷ lệ thực hiện thường xuyên chỉ đạt từ 19,75% đến 59,25% Mức độ thực hiện thỉnh thoảng dao động từ 27,5% đến 46,25%, trong khi tỷ lệ hiếm khi thực hiện chỉ từ 7,75% đến 43,5% Một sinh viên cho biết mặc dù có kiến thức về học tập tích cực, nhưng thực hành vẫn chưa đủ: “Dạ em nghĩ là vậy nhưng mà em chưa có làm được bao nhiêu hết Cô ơi nên kết quả học tập của em mới thấp vậy đó Cô” (SV05, Khoa Quản trị kinh doanh, Xếp loại học lực trung bình).