1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

MÔ TẢ, ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO TỒN VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI THÁI MAI CHÂU, HÒA BÌNH

49 118 3

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Mô Tả, Đánh Giá Và Đề Xuất Giải Pháp Để Bảo Tồn Văn Hóa Truyền Thống Của Người Thái Mai Châu, Hòa Bình
Người hướng dẫn Ths. Trần Thị Phương Thúy
Trường học Trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Chuyên ngành Văn Hóa Các Dân Tộc Thiểu Số Việt Nam
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 2,08 MB

Cấu trúc

  • I. MỞ ĐẦU (4)
    • 1. Đặt vấn đề (4)
    • 2. Khái quát tỉnh Hoà Bình (0)
      • 2.1. Vị trí địa lý (5)
      • 2.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên (6)
    • 3. Khái quát chung về tộc người (0)
      • 3.1. Tên gọi (8)
      • 3.2. Nguồn gốc lịch sử (8)
      • 3.3. Phân bố dân cư (10)
  • II. ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƯỜI (11)
    • 1. Nhà ở (11)
    • 2. Trang phục (13)
    • 3. Ẩm thực (16)
    • 4. Phong tục tập quán (18)
      • 4.1. Hôn nhân của người Mường (18)
      • 4.2. Ma chay của người Mường (22)
      • 4.3. Lễ hội và các trò chơi dân gian của người Mường (23)
    • 5. Tín ngưỡng (27)
    • 6. Văn hóa nghệ thuật (sử thi, ca dao, múa, âm nhạc (0)
  • III. ĐÁNG GIÁ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG (0)
    • 1. Các biến đổi về văn hoá của người Mường ở Hoà Bình (31)
    • 2. Đánh giá (35)
    • 3. Đề xuất bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tộc người (0)
  • KẾT LUẬN (40)
  • Tài liệu tham khảo (41)

Nội dung

LỜI CẢM ƠNTrong quá trình thực hiện tiểu luận học phần Văn hóa các Dân tộc Thiểu số Việt Nam với đề bài “Mô tả, đánh giá và đề xuất giải pháp để bảo tồn văn hoá truyền thống của người Mường ở Hoà Bình”. Em xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tất cả các cá nhân, tập thể đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em trong quá trình học tập và nghiên cứu.Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Ths. Trần Thị Phương Thúy – Phó Trưởng khoa Quản lý Xã hội đồng thời là giảng viên học phần Văn hóa các Dân tộc Thiểu số Việt Nam, người đã trang bị cho em những kiến thức, kỹ năng cơ bản và cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu để em có thể hoàn thành bài tiểu luận này.Xin trân trọng cảm ơnMỤC LỤCNỘI DUNGI. MỞ ĐẦU………………………………………………………………..41. Đặt vấn đề……………………………………………………………..42. Khái quát tỉnh Hoà Bình…………...………………………………….52.1. Vị trí địa lý…………………………………………………………..52.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên………………………..63. Khái quát chung về tộc người…………………………………………83.1. Tên gọi……………………………………………………………….83.2. Nguồn gốc lịch sử……………………………………………………83.3. Phân bố dân cư………………………………………………………10II. ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƯỜI……………………..111. Nhà ở……………………………………………………………………112. Trang phục………………………………………………………………133. Ẩm thực…………………………………………………………………164. Phong tục tập quán………………………………………………………184.1. Hôn nhân của người Mường………………………………………….184.2. Ma chay của người Mường……………………………………………214.3. Lễ hội và các trò chơi dân gian của người Mường……………………225. Tín ngưỡng………………………………………………………………266. Văn hóa nghệ thuật (sử thi, ca dao, múa, âm nhạc..)……………………28III. ĐÁNG GIÁ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG…………………………………………………301. Các biến đổi về văn hoá của người Mường ở Hoà Bình…………………302. Đánh giá ………………………………………………………………….333. Đề xuất bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tộc người………………34KẾT LUẬN…………………………………………………………………38Tài liệu tham khảo………………………………………………………….39 NỘI DUNGI. MỞ ĐẦU1. Đặt vấn đềViệt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc anh em cùng chung sống. Mỗidân tộc có một nền văn hóa riêng biệt, độc đáo, tạo thành một bức tranh vănhóa sinh động. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam gắn vớixu thế hội nhập, văn hóa các dân tộc và đã góp phần tạo nên văn hóa ViệtNam “đa dạng trong thống nhất”. Trong số những dân tộc góp phần tạo nênvăn hóa Việt Nam “đa dạng trong thống nhất”, dân tộc Mường là một trongnhững dân tộc có đóng góp to lớn tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Dân tộc Mường là dân tộc có số dân đứng thứ 4 trong 54 dân tộc sau các dân tộc như Kinh, Tày, Thái. Họ cư trú trên địa bàn vùng đồi núi thấp thuộc các tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), riêng Hòa Bình người Mường chiếm 63,3% còn lại là các dân tộc khác như Kinh, Thái, Dao, Tày, Mông. Họ sống tập trung ở các huyện miền núi như: Lạc Thủy, Lạc Sơn, Tân Lạc, Kim Bôi… Hòa Bình là một vùng đất cổ, nơi còn lưu giữ lại nhiều nét văn hóa truyền thống của dân tộc Mường, trải qua những thăng trầm của lịch sử đến hôm nay vẫn còn bảo lưu nhiều yếu tố văn hóa truyền thống. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước đã tác động và làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội. Sự giao lưu văn hóa ngày càng được mở rộng giữa quốc gia này với quốc gia khác, tộc người này với tộc người khác. Sự phong phú cảnh quan, môi trường đã tác động rất lớn đến đời sống của người Mường, làm nên một đời sống văn hóa khá phong phú như hội cồng chiêng, văn hóa trống đồng, các trường ca, văn hóa ăn, ở, mặc, các nghi lễ thờ cúng cùng với các loại hình văn hóa khác. Tuy nhiên, có một thực tế đáng buồn hiện nay, dưới tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng từ mặt trái của nền văn hóa phương Tây, sự lợi dụng dân tộc và tôn giáo của các thế lực thù địch để phá hoại nền văn hóa dân tộc bản địa, nên nảy sinh lối sống thực dụng, hướng ngoại, phủ nhận văn hóa dân tộc. Sự chi phối của đồng tiền đã làm thay đổi nhiều quan niệm về giá trị văn hóa, làm văn hóa mai một dần theo thời gian, không còn giữ được những giá trị nguyên sơ như nó vốn có. Do vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Mường trên địa bàn tỉnh Hòa Bình mang tính thời sự cấp bách, nhằm góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề, đóng góp vào mục tiêu giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của cả nước nói chung và văn hóa dân tộc Mường của tỉnh Hòa Bình nói riêng, em đã chọn đề tài “Mô tả, đánh giá và đề xuất giải pháp để bảo tồn văn hoá truyền thống của người Mường ở Hoà Bình”. Bài tiểu luận được vận dụng những kiến thức được học trong học phần Văn hóa các Dân tộc Thiểu số Việt Nam để đi mô tả, đánh giá và đề xuất các giải pháp bảo tồn văn hoá truyền thống của người Mường 2. Khái quát về tỉnh Hoà Bình2.1. Vị trí địa lýHòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Việt Nam, có vị trí ở phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19 21°08 vĩ độ Bắc, 104°48 105°40 kinh độ Đông, phía Đông giáp thành phố Hà Nội, phía Bắc giáp tỉnhPhú Thọ, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Thanh Hóa, phía Đông Nam giáp tỉnhHà Nam, Ninh Bình, trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội 76 km theođường quốc lộ 6, là khu vực đối trọng phía Tây của thủ đô Hà Nội, có vị tríquan trọng trong chiến lược khu vực phòng thủ và cả nước.Hoà Bình hiện có 1 thành phố (thành phố Hoà Bình), 10 huyện (Lương Sơn, Cao Phong, Đà Bắc, Kim Bôi, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thuỷ, Mai Châu, Tân Lạc, Yên Thuỷ), 11 thị trấn (Lương Sơn, Cao Phong, Đà Bắc, Bo, Kỳ Sơn, Vụ Bản, Chi Nê, Mai Châu, Mường Khến, Hàng Trạm), 8 phường và 191 xã.Tỉnh có mạng lưới giao thông đường bộ và đường thủy tương đối phát triển, trong đó có các tuyến đường quốc gia quan trọng đi qua như: đường Hồ

ĐẶC TRƯNG VĂN HOÁ CỦA TỘC NGƯỜI

Nhà ở

Người Mường coi ngôi nhà là tài sản lớn, nơi kết nối với tổ tiên và cội nguồn Họ rất chú trọng trong việc chọn đất và hướng xây nhà, đảm bảo phù hợp với địa hình và khuôn đất, đồng thời tránh đặt nhà ngược với hướng đồi núi Quan niệm của người Mường cho rằng xây nhà đúng hướng sẽ mang lại tài lộc và may mắn cho gia đình Bàn thờ cũng được đặt theo hướng nhà, với phần lớn các ngôi nhà hướng về phía Đông Nam.

Nhà ở truyền thống của người Mường chủ yếu là nhà sàn, được xây dựng từ nguyên liệu tự nhiên như cây que, gỗ tre và nứa lá Người Mường thường tự tay vào rừng chặt cây để xây nhà thay vì mua sẵn Kỹ thuật xây dựng nhà có hai cấp độ: kỹ thuật kém sử dụng cột ngoãm chôn xuống đất, trong khi kỹ thuật hiện đại hơn áp dụng cột kê và lắp ghép mộng Các gia đình giàu có thường chọn kỹ thuật hiện đại để xây nhà, trong khi phần lớn người dân vẫn sử dụng phương pháp truyền thống.

Ngôi nhà sàn của người Mường ở Hoà Bình có thiết kế đặc trưng với mái che bốn mái, trong đó hai mái trước và sau hình thang cân, còn hai mái đầu hồi có hình tam giác cân Cửa nhà thường mở ở hai đầu hồi, và cầu thang được đặt dưới mái để tránh mưa nắng Cấu trúc nhà sàn bao gồm các vì kèo, cột con và đòn nóc, mái lợp bằng cỏ tranh hoặc lá cọ Cột nhà thường làm bằng gỗ tròn, chân cột có thể chôn xuống đất hoặc kê bằng đá tảng Đối với người Mường, rùa không chỉ là biểu tượng gần gũi mà còn linh thiêng, có vị trí đặc biệt trong tín ngưỡng, từ đó ảnh hưởng đến thiết kế nhà sàn với hình mẫu "con rùa", trong đó bốn chân là bốn cột cái và mái sườn là cửa chạn.

Nhà sàn của người Mường được chia thành ba mặt bằng, với gác trên cùng để bảo quản lương thực và đồ dùng Phần giữa là bếp, bàn thờ, nơi tiếp khách và không gian sinh hoạt của gia đình Gầm sàn là nơi chứa dụng cụ sản xuất và nhốt gia súc Nhà sàn có hai cầu thang, cầu thang chính ở bên trái với chỗ rửa chân trước khi lên nhà, và cầu thang phụ dành cho thành viên trong gia đình Cửa sổ voóng trong nhà dành cho người cao tuổi, trong khi chỗ ngồi phía dưới dành cho người trẻ Phân chia không gian trong nhà cũng thể hiện sự khác biệt giữa nam và nữ.

Nhà sàn của người Mường, được làm chủ yếu bằng gỗ, tre, nứa và mái bằng rạ hoặc cỏ, đã trải qua sự thay đổi trong quá trình phát triển xã hội và giao lưu văn hóa Trước đây, những ngôi nhà sàn rộng có thể chứa hàng trăm người, nhưng hiện nay, chúng đã được thay thế bằng những ngôi nhà sàn nhỏ gọn hơn, với các cải tiến như gian bếp và công trình phụ Mặc dù vậy, khối nhà chính vẫn giữ được nét nguyên bản, phù hợp với cuộc sống hiện đại Được xây dựng trên địa hình vùng núi ẩm thấp, nhà sàn giúp tránh lũ, tạo không gian thoáng mát và an toàn cho cư dân Theo quan niệm duy vật, đây là yếu tố quyết định kiến trúc của nhà sàn, thể hiện tính ưu việt và đa năng, đồng thời cũng là nơi giáo dục các thành viên trong gia đình.

Trang phục

Hiện nay, trang phục truyền thống của phụ nữ Mường thường được mặc trong các dịp lễ, Tết, trong khi ngày thường chủ yếu do các bà, các mẹ sử dụng Để đáp ứng nhu cầu của người mặc, các bộ trang phục này đã được thiết kế hiện đại hơn với nhiều màu sắc bắt mắt, nhưng vẫn giữ hai màu sắc chủ đạo là nâu và trắng Điểm nhấn của trang phục nằm ở đầu váy và cạp váy, thể hiện sự trang nhã và sâu sắc, phản ánh tính cách của người phụ nữ Mường - chân thành, trầm lắng và tinh tế Ngoài ra, bộ trang phục truyền thống còn thể hiện rõ ràng gia thế, độ tuổi, tầng lớp và các vùng Mường.

Trang phục truyền thống của người Mường được làm từ vải bông và vải nhuộm màu, tất cả đều do phụ nữ Mường khéo léo thực hiện Họ lựa chọn nguyên liệu từ thiên nhiên, như cỏ cây hoa lá, gần gũi với cuộc sống hàng ngày Với nền kinh tế tự túc, người Mường tự đảm nhận mọi công đoạn từ trồng bông, dệt vải, nhuộm màu đến cắt may quần áo.

Trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Mường bao gồm những thành phần chính như khăn đội đầu, yếm, áo cánh ngắn, áo chùng, váy và thắt lưng.

Chiếc khăn trắng thắt trên đầu, được người Mường gọi là bít trôốc (hoặc mũ), thường được sử dụng trong các dịp lễ Tết Khăn này có hình vuông, màu trắng tự nhiên của bông, không có hoa văn thêu thùa Để sử dụng, khăn được gấp theo một chiều bốn lần thành dải, sau đó buộc lên đầu và thắt đuôi khăn phía sau gáy Trong đời sống hàng ngày, người Mường thường dùng khăn màu nâu.

Phụ nữ người Mường sử dụng yếm để che phần ngực, giống như phụ nữ Kinh Yếm có thiết kế gồm một dải dây buộc lên cổ và một dải khác buộc ngang thân, giúp che kín vùng ngực Yếm thường có màu trắng tự nhiên hoặc nhuộm màu nâu; trong đó, yếm nâu được sử dụng trong lao động ngoài đồng, còn yếm trắng thường được cất giữ để sử dụng trong những dịp đặc biệt.

Chiếc áo truyền thống của người Mường có thiết kế ngắn, ôm sát cơ thể với chiều dài chấm eo lưng và kiểu xẻ ngực hoặc xẻ vai, cùng với ống tay áo nhỏ Áo của phụ nữ Mường thường được làm từ vải bông tự nhiên màu trắng và màu nâu từ củ nâu, trong đó áo màu trắng được sử dụng trong các ngày lễ còn áo màu nâu dành cho hoạt động hàng ngày Áo chùng, tương tự áo ngắn nhưng dài tới đầu gối và có phần dưới hơi xoè rộng, thường chỉ thấy trong các lễ hội hiện nay.

Váy truyền thống của phụ nữ Mường gồm hai phần chính là cạp váy và chân váy, trong đó cạp váy nổi bật với màu sắc rực rỡ và hoa văn tinh xảo Nghệ thuật trang trí cạp váy mang đậm ảnh hưởng từ nghệ thuật Đông Sơn, thể hiện qua các họa tiết hình học và động vật, như hình tượng mặt trời và các mô típ động vật như hươu, gà, và rồng Màu sắc được chọn lựa kỹ lưỡng để đảm bảo sự hài hòa với tổng thể trang phục Hoa văn không chỉ mang tính thẩm mỹ mà còn phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan của dân tộc, cùng với sự sáng tạo và khéo léo của những người thợ dệt.

Thắt lưng của phụ nữ Mường được làm từ vải hoặc lụa tơ tằm, mang màu xanh lục hoặc xanh lá mạ, dài khoảng 160 cm và rộng 35 cm, thường được thắt bên ngoài váy, quấn ngang hông Trong trang phục truyền thống, khăn đội đầu có vai trò quan trọng, với màu trắng tượng trưng cho sự tinh khiết và thanh cao, thể hiện lòng kính trọng và tôn vinh Nút thắt của khăn được đặt trên búi tóc, biểu trưng cho sự yên bình trong văn hóa Mường.

Người Mường luôn ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, vì vậy trang phục nam giới do phụ nữ Mường tự tay làm ra Để hoàn thành một bộ trang phục truyền thống, họ phải trải qua nhiều công đoạn như trồng bông, dệt vải, nhuộm màu và may áo Áo nam Mường thường có kiểu dáng xẻ ngực, xẻ tà hai bên, cổ tròn, và sử dụng cúc sừng ở vai Phần trước áo được trang trí bằng hai mảnh vải tạo thành túi, có thể có thêm hai túi nhỏ trên ngực trái, và gấu áo khâu vắt Cổ áo cao, bên trong được lót vải để tạo dáng đứng, theo hình vòng cung quanh cổ, và áo có thiết kế phủ kín mông.

Quần chân què được thiết kế với đũng ghép vải, mang lại sự thoải mái và rộng rãi khi mặc Cạp quần không có giải rút, người mặc thường gấp hai bên vào giữa và gập cạp xuống hoặc dùng khăn thắt ở bụng Tóc thường được cắt ngắn hoặc quấn khăn trắng, trong khi trước đây có phong tục để tóc dài búi lại Trong các lễ hội, trang phục thường bao gồm áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, và áo khoác đen dài tới gối với cúc ở nách và sườn phải.

Thiếu nữ Mường thường đeo bộ dây vắt (hay còn gọi là bộ xà tích) cùng với trang phục truyền thống, bao gồm 4 hoặc 8 dây bạc tết thành dây 4 cạnh dài hơn 1 thước tay Bộ dây này được gắn với hai con bướm bạc, một đầu buộc vào dây thắt lưng và một đầu kết hợp với ống đào, ống vôi, quả mây bạc, nanh hổ, móng hổ, và dao nhíp Không chỉ là trang sức, bộ dây vắt còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc trong văn hóa của dân tộc Mường.

Tất cả các món đồ trang sức đều được chế tác từ bạc, bao gồm dây chuyền, hoa tai, vòng cổ, vòng tay, trâm cài và quai nón Bộ trang sức này không chỉ đẹp mắt mà còn được xem như bùa hộ mệnh, mang lại may mắn cho mỗi người.

Ẩm thực

Mỗi món ăn, từ giản dị trong bữa cơm của người nghèo đến cầu kỳ trong tiệc tùng của giới thượng lưu, đều mang trong mình những câu chuyện văn hóa ẩm thực độc đáo Những sản vật đặc trưng và món ăn nổi tiếng của dân tộc Mường ở Hòa Bình phản ánh giá trị văn hóa phong phú của vùng đất này.

Ẩm thực và lao động sản xuất của người Mường được thể hiện qua câu nói đặc trưng: "Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới" Đối với cư dân Mường, nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp và canh tác lúa nước, trong đó cơm nếp đồ là món ăn không thể thiếu, mang ý nghĩa sâu sắc thể hiện lòng biết ơn đối với thiên nhiên cho mùa màng bội thu.

Khi cơm chín, người Mường thường đổ cơm vào thúng hoặc nia, sau đó quạt cho nguội để cơm giữ được độ dẻo và không bị nát, tạo ra món ăn ngon Tại một số địa phương, họ còn chế biến cơm nếp thành nhiều màu sắc bằng cách sử dụng cây cỏ, giã lấy nước rồi trộn với gạo trước khi đồ Các màu sắc được cho vào lần lượt, bắt đầu từ màu đỏ, tiếp theo là màu xanh, vàng, tím, và cuối cùng là màu trắng, sau đó trộn đều khi cơm đã chín.

Cơm lam là món ăn độc đáo của người Mường, được chế biến từ gạo nếp thơm dẻo Gạo nếp được cho vào ống nứa và nướng trên than hồng, cùng với nước cốt dừa để tạo hương vị đặc trưng Mùi thơm ngậy của nước cốt dừa hòa quyện với vị ngọt bùi của gạo nếp và hương thơm của tre, nứa non, mang lại trải nghiệm ẩm thực tinh tế Cơm lam thường được ăn kèm với thịt gà, măng chua, nhưng ngon nhất khi chấm với muối vừng.

Ngoài cơm nếp, người Mường còn phát triển nhiều món ăn truyền thống phong phú cho các dịp lễ và ngày thường, với đa dạng phương pháp chế biến như luộc, xào, nướng, nộm, nấu và dưa.

Mỗi địa danh tại Mường Hoà Bình đều mang những sản phẩm và ẩm thực đặc trưng riêng, nổi bật với các món ăn đặc sắc của người Mường như sườn rang mắm tôm, nhộng ong rừng rang với nước măng chua, thịt trâu xào tiêu rừng, và thịt trâu nấu lá lồm Bên cạnh đó, các món như ốc vặn nấu lá lốt, canh cây chuối rừng, chả lá bưởi, thịt gà luộc gói lá chuối nướng, và nộm tai lưỡi cũng rất được ưa chuộng Không thể không nhắc đến các món ăn độc đáo khác như óc lợn, ớt cá lá kiệu, ớt gà vịt, măng chua, đu đủ muối tiết trâu bò, thịt lợn ướp thính, và dưa cá muối kiệu, tạo nên sự phong phú cho nền ẩm thực nơi đây.

Người dân tộc Mường ăn Tết với mâm cỗ truyền thống, trong đó thịt được bày trên lá chuối để giữ nguyên hương vị đặc trưng Mâm cỗ cần đảm bảo đầy đủ giá trị dinh dưỡng, chất lượng và tốt cho sức khỏe, đồng thời phải được thưởng thức trong không gian thoáng đãng, cùng bạn bè và khách quý để tăng thêm phần ý nghĩa Theo quan niệm của người Mường, món ăn phải thể hiện đủ ngũ vị: chua, cay, ngọt, mặn và chát, trong đó vị ngọt chỉ được sử dụng từ hoa quả tươi hoặc đường, mật để chấm với bánh bột.

Văn hóa ẩm thực của dân tộc Mường không chỉ phong phú với các món ăn mà còn nổi bật với các loại bánh truyền thống như bánh uôi, bánh ống, bánh ốc nhọn, bánh chưng, bánh dày và bánh trôi Thức uống của người Mường chủ yếu là các loại nước từ cây rừng, có tác động tích cực đến sức khỏe, đặc biệt là hệ tiêu hóa Rượu cũng là một phần quan trọng trong văn hóa ẩm thực nơi đây, với sự đa dạng như rượu trắng và rượu cần, trong đó rượu cần được xem là đặc sản Quá trình ủ men và nghệ thuật uống rượu của người Mường chứa đựng nhiều nét văn hóa độc đáo, phản ánh sự phong phú trong đời sống tinh thần và phong tục tập quán của họ.

Phong tục tập quán

Phong tục và tập quán của người Mường nổi bật với những lễ hội đặc sắc, tục cưới hỏi truyền thống, nghi lễ ma chay sâu sắc và sự hiện diện của các ông Mo huyền bí, những người có khả năng thực hiện những điều kỳ diệu khó có thể giải thích bằng khoa học.

4.1 Hôn nhân của người Mường

Tục cưới xin của người Mường ở Hòa Bình là một phần văn hóa hôn nhân gia đình quan trọng, phản ánh sự phong phú và đặc sắc trong đời sống cộng đồng Người Mường thường kết hôn sớm, với con trai lấy vợ từ 15 đến 20 tuổi và con gái từ 16 đến 18 tuổi; trên 25 tuổi được coi là quá lứa Hôn nhân truyền thống trải qua nhiều giai đoạn và nghi lễ phức tạp, tốn kém Trong trường hợp ly dị, nếu vợ chủ động thì phải hoàn trả lễ vật, còn nếu chồng chủ động thì tài sản chia đôi Ngoài ra, người góa phải chịu tang trong ba năm, ba tháng, mười ngày trước khi có thể tái hôn.

Nghi lễ cưới xin cổ truyền của người Mường - Hòa Bình được tiến hành theo trình tự lễ phong phú như sau:

• Trước tiên là tục Kháo tiếng (đi thăm dò, ướm hỏi)

Để trở thành vợ chồng, cần có những cuộc giao lưu, tiếp xúc giữa nam và nữ Họ thường gặp nhau trong các dịp lễ hội, phiên chợ, đám cưới, hay những buổi tối hát hò và uống rượu cần Những cuộc hẹn hò dưới gốc cây si vào đêm trăng sáng cũng là dịp để tìm hiểu lẫn nhau Mặc dù nhiều cặp đôi tự tìm hiểu, nhưng cũng có những trường hợp do gia đình sắp đặt, nếu hai bên ưng ý thì sẽ tiến hành các thủ tục hôn nhân.

Khi gia đình nhà trai muốn kết duyên với một cô gái, họ sẽ tìm một người khéo léo trong giao tiếp, được nhà gái quý mến, để làm ông mơ (ông mối) Ông mơ sẽ mang theo trầu, cau, rượu và quà bánh đến nhà cô gái để chính thức ngỏ lời Hai bên sẽ thảo luận và thống nhất ngày “kháo tiếng” Đến ngày hẹn, nhà trai chuẩn bị 02 gói chè, khoảng 10 quả cau để thực hiện nghi thức.

Trong truyền thống, 20 lá trầu được gói cẩn thận và trao cho ông mờ vào buổi chiều tối tại nhà cô gái Nếu sau ba ngày mà nhà gái không trả lại lễ vật, điều này có nghĩa là đã đồng ý Thời gian chờ đợi ba ngày là để bố của cô gái lắng nghe các âm thanh tự nhiên; nếu không có tiếng hươu, giác, vượn kêu, gà gáy dở, cây đổ hay đá lăn, thì xem như không có điềm gở, và việc hôn nhân được coi là thuận lợi.

Ông tự tay mở gói lễ vật và thông báo cho họ hàng về niềm vui trong gia đình, từ đó hai nhà trở thành thông gia và các con có thể thường xuyên thăm hỏi lẫn nhau.

• Ti nòm bánh (lễ bỏ trầu)

Ngày tốt, ông mối dẫn đoàn nhà trai đến nhà gái để thực hiện lễ ăn hỏi, mang theo lễ vật gồm một con lợn 20-25kg, hai gánh gạo 40-50kg, một gánh bánh chưng 120 cái, rượu, cau và trầu Sau khi ăn uống, đại diện nhà trai thưa chuyện, tiếp theo là người đại diện nhà gái Sau lễ ăn hỏi, nhà trai chuẩn bị cho ngày cưới chính thức, được gọi là nòm khảu Trước ngày cưới, nhà trai sắm lễ rượu hoặc trầu cau để xin cưới Nhà gái thông báo ngày cưới cho nhà trai Để chuẩn bị cho đám cưới, nhà trai mời ông bà nội ngoại bàn việc xin tiền, gạo từ xa gần, và mang quà như bánh hay chè biếu từng nhà Thân thuộc thường giúp đỡ bằng gạo và tiền, tùy theo khả năng của mỗi người.

• Tiếp theo là Ti cháu (Lễ cưới lần thứ nhất)

Sau khi cuộc họp kết thúc, lễ cưới chính thức bắt đầu với tên gọi “Ti cháu” tại mường Bi Số lượng khách mời từ nhà trai thường dao động từ 30 đến 40 người, do ông mối dẫn đầu Hai chàng trai khác sẽ mang theo hai chén cơm đã nấu chín, không có gà, gọi là piềng Nếu đến sớm hơn quy định, nhà trai có thể phải chờ hàng giờ mới được vào Khi đoàn khách rửa chân chuẩn bị vào nhà, những cô gái bên nhà gái thường chờ sẵn để giật dây tổ kiến đỏ và kiến đen xuống, gây rối cho khách Riêng chú rể và hai phù rể phải ở lại tiếp khách nhà gái Đến tối thứ ba, nhà gái tổ chức một bữa tiệc nhỏ gọi là “chụ cháu” để tiếp đãi rể, đánh dấu sự kết thúc của các hoạt động trong ngày cưới.

Hôn nhân của người Mường ở Hoà Bình có quy định đặc biệt, thường phải chờ một đến vài năm mới được đón dâu Trong thời gian này, chàng rể sẽ được gọi đến giúp đỡ gia đình nhà gái và phải ngủ ở gian ngoài, chưa được gần gũi vợ mình.

Thời gian chuẩn bị hôn lễ là giai đoạn quan trọng để cô dâu và chú rể hiểu rõ tính cách của nhau Trong thời gian này, nếu có bất kỳ sơ suất nào từ một bên, bên còn lại có quyền từ chối hôn lễ và yêu cầu trả lại của cải.

• Cuối cùng là Ti du (Lễ đón dâu)

Lễ đón dâu là sự kiện quan trọng mà mọi chi phí do nhà trai đảm nhận Vào ngày đón dâu, họ hàng nhà trai sẽ mang lễ vật, chủ yếu là tiền, cùng với vải tự dệt hoặc váy áo đã may sẵn để mừng Nhà gái thường mời từ 30 đến 50 người, bao gồm cả họ nội và ngoại, để tham gia vào buổi lễ này.

Ngày về nhà chồng, cô dâu phải đội nón, mặc váy áo đẹp và áo dài màu đen, thắt 2 nút ở phía trước Đoàn nhà gái, dẫn đầu là ông mối và hai cô gái trẻ, đến đón dâu vào lúc xẩm tối Nhà trai đã chuẩn bị rượu cần, ông mối khấn rượu, khấn cơm và khấn bàn thờ tổ tiên, đưa cô dâu ra trình diện trước bàn thờ ma nhà Khi cô dâu đã quen nếp sống ở nhà chồng, nhà trai sẽ chọn một bà phúc hậu, dễ nuôi con để chuẩn bị cho ngày lành tháng tốt, trải chiếu và căng màn cho đôi vợ chồng mới.

Khi ấy, chàng rể mới không còn phải “bù ma ruộng” - chấm dứt thời gian thử thách, nằm gian ngoài, để vào ngủ gian trong.

4.2 Ma chay của người Mường

Trong phong tục của người Mường ở Hòa Bình, tang ma đóng vai trò quan trọng, thể hiện niềm tin vào linh hồn và cuộc sống sau cái chết Họ tin rằng người chết sẽ chuyển lời nguyện cầu của người sống tới tổ tiên, và tổ tiên sẽ hướng dẫn linh hồn người đã khuất ở thế giới bên kia.

Nghi thức tang ma của người Mường được quy định nghiêm ngặt, trong đó vai trò của ông Mo là rất quan trọng Ông Mo không chỉ hướng dẫn mà còn thuyết phục người chết hiểu quy luật tự nhiên giữa sự sống và cái chết Đối với người Mường, việc mai táng không thể diễn ra nếu không có sự hiện diện của ông Mo, vì người đã khuất cần phải tách biệt khỏi thế giới của người sống.

Khi có người sắp qua đời, gia đình sẽ gióng 3 hồi chiêng, mỗi hồi 3 tiếng, để thông báo cho họ hàng tụ tập nhìn mặt người sắp chết lần cuối Người đã khuất sẽ được đắp một chiếc chăn bông cùng hàng chục chiếc chăn đơn, và trải hai tấm lụa tơ tằm bên cạnh Những người thân trong gia đình mặc quần áo tang, trong khi người con trai cả sẽ đến cửa sổ, rút dao chặt ba nhát lên thành cửa, biểu thị rằng anh ta sẽ là người đảm nhận việc thờ cúng tổ tiên.

Tín ngưỡng

Quan niệm vũ trụ của người Mường được chia thành ba tầng và bốn thế giới Tầng cao nhất là Mường Trời, nơi cư trú của Vua trời và các phò tá của Ngài Tầng giữa là Mường Pưa, nơi sinh sống của con người, được tổ chức thành các gia đình, xóm làng và mường Tầng thứ ba bao gồm hai thế giới: Mường Pưa Tín dưới mặt đất và Mường Vua Khú ở đáy nước Thế giới dưới đất không phải là âm ty hay siêu nhiên, mà là nơi cư trú của những người tí hon và gia xúc tí hon, với lối thông lên thế giới trên mặt đất Mường Vua Khú là vương quốc của bọn khú, dưới sự cai quản của Vua Khú.

Hệ thống vũ trụ “ba tầng – bốn thế giới” của người Mường lấy Mường Pưa, thế giới của người sống, làm trung tâm, nơi mọi đường đi xuất phát và các thế giới quy tụ về Mỗi thế giới có bản chất riêng, dẫn đến sự thông thương giữa chúng bị hạn chế Mường Pưa là thế giới tự nhiên, là “cõi sống” của người Mường, trong khi Mường Pưa Tín, mặc dù cũng là thế giới tự nhiên, nhưng kém hơn Mường Trời là thế giới siêu nhiên hoàn chỉnh nhất với thời gian vô tận, còn Mường Vua Khú mang tính chất cổ tích hơn là tôn giáo, cũng thuộc về thế giới siêu nhiên.

Theo quan niệm của người Mường, mỗi người có nhiều vía, với số lượng vía giữa đàn ông và đàn bà không khác nhau, nhưng phân bố không đều trên cơ thể Sau khi chết, con người mất đi thể xác nhưng linh hồn vẫn tồn tại; một phần linh hồn lên trời, trong khi phần khác gắn liền với xác chết, tiếp tục sống trong bóng tối, thể hiện sự ghen tị và tồn tại gần xác chết, trong và xung quanh quan tài, cũng như tại ngôi mộ.

Người Mường ở Hòa Bình theo đa thần giáo, tin rằng mọi vật đều có linh hồn và thần linh có thể ảnh hưởng đến cuộc sống con người Thầy mo được coi là sứ giả giữa thế giới thần linh và nhân gian, giữ vai trò quan trọng trong tín ngưỡng và tâm linh của cộng đồng Ông không chỉ ghi nhớ hàng trăm bài cúng mà còn thể hiện nghệ thuật diễn xướng qua giọng đọc và cử chỉ Lời mo mang tính nhân văn sâu sắc, gây cảm động và sẻ chia giữa người sống và người đã khuất.

Thầy Mo không chỉ am hiểu văn tự cổ và bảo tồn nhiều sách cổ, phong tục tập quán, lễ nghi của dân tộc, mà còn có khả năng giao tiếp với các đấng siêu nhiên để cầu xin cho con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc Ông cũng hướng dẫn cách ứng xử với các thế lực siêu nhiên, phù hợp với đạo lý, truyền thống văn hóa dân tộc và quy luật cuộc sống Người Mường từ trước đến nay vẫn duy trì những giá trị đẹp trong phong tục thờ cúng.

Khi trong gia đình có người ốm đau, người ta tin rằng đó là do vía đi lạc, không tìm được đường về với chủ Vì vậy, bên cạnh việc chữa trị bằng thuốc, nhiều đồng bào còn thực hiện lễ cúng ma để cầu mong sức khỏe cho người bệnh.

Lễ kéo si là một nghi thức cúng ma đặc trưng của người Mường, nhằm gọi linh hồn người lạc về với chủ khi có người trong gia đình đau ốm Khi phương pháp chữa bệnh bằng thuốc lá không hiệu quả, họ tổ chức lễ “kéo si” để cầu an cho người bệnh Theo quan niệm của người Mường, mỗi người khi sinh ra đều gắn liền với một cành cây si, và khi người đó qua đời, cành cây si cũng héo tàn Lễ kéo si được thực hiện vào ngày lành tháng tốt, trong đó con dâu trưởng đi xin gạo từ từng gia đình trong làng, trong khi con trai trưởng cắt một cành si nhỏ từ cây cổ thụ hướng đông để mang về nhà Nghi lễ được tổ chức tại nhà người bệnh với ba mâm cỗ cúng.

Người Mường tổ chức nhiều lễ cúng quan trọng như cúng bản, cúng mường, và cầu cho bản mường được bình yên, no ấm Họ cũng thực hiện các nghi lễ cúng đưa hồn người đã khuất lên trời, cúng khi có người đau ốm, khi chuyển vào nhà mới, trong đám cưới, khi xuống đồng, mừng cơm mới, và cúng vía.

Người Mường, giống như người Việt, có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với bàn thờ được lập và bát hương được đặt cho đến bốn đời Kích thước và trang trí bàn thờ phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình, từ đơn giản đến sang trọng như nhà giàu người Kinh Dù bàn thờ lớn hay nhỏ, nó luôn được đặt ở vị trí trang trọng Ngoài bàn thờ chính thờ tổ tiên, có thể có bàn thờ phụ bên trái để thờ những người chết không có con cái hoặc các vị khác Một điều kiêng kỵ quan trọng là không được nằm hướng chân về phía bàn thờ từ mọi hướng trong nhà.

Ngày giỗ không phải là ngày kỷ niệm cái chết, mà là ngày tưởng nhớ và tổ chức lễ cúng cho tổ tiên đã khuất Ngày này thường được chọn theo ngày giỗ của người chết gần nhất trong dòng họ, nhằm tôn vinh và nhắc nhở về nguồn cội và các thế hệ đã qua Trong trường hợp một người con qua đời trước cha mình, thì ngày giỗ sẽ bao gồm cả những người đã mất trong ba đời trước đó, tạo thành một dịp để gia đình quây quần và tri ân tổ tiên.

6 Văn hoá nghệ thuật (sử thi, ca dao, múa, âm nhạc…)

Người Mường sở hữu nền văn nghệ dân gian phong phú, bao gồm văn học và nghệ thuật dân gian Văn học dân gian chủ yếu được truyền miệng, do trước đây người Mường chưa có chữ viết Giống như nhiều dân tộc khác, họ chọn lưu giữ tác phẩm văn học dưới dạng thơ, với cấu trúc tu từ chính xác giúp nội dung cốt truyện ổn định, dễ tiếp thu và dễ nhớ cho người dân.

Các truyện thơ nổi tiếng của người Mường như Út Lót Hồ Liêu, Nàng Nga Hai Mối, và Nàng Ờm chàng Bồng Hương, thường xoay quanh chủ đề tình yêu nam nữ, thể hiện những mối tình thủy chung nhưng đầy trắc trở Những tác phẩm này không chỉ tôn vinh tình yêu chân thành, trong sáng mà còn phản ánh cuộc sống vất vả của con người, đặc biệt là những số phận kém may mắn như trẻ mồ côi.

Người Mường không chỉ có truyện thơ mà còn sở hữu nhiều làn điệu dân ca độc đáo như hát Sắc bùa, hát Thường, hát Bọ mẹng, và hát Ví, Đúm Hát Sắc bùa thường được sử dụng để chúc tụng trong các buổi gặp gỡ vui vẻ, kèm theo âm thanh của cồng, với quy tắc nhất định phù hợp với từng tình huống Làn điệu Thường (còn gọi là rằng thường hoặc xưởng) ca ngợi những nỗ lực trong công việc và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Trong khi đó, hát Bọ mẹng hay Lệ giọng là hình thức giao duyên giữa các chàng trai và cô gái.

Nội dung bài hát chứa đựng tâm tư tình cảm của tuổi trẻ ước ao tìm bạn đời,

ĐÁNG GIÁ, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY VĂN HOÁ TRUYỀN THỐNG

Các biến đổi về văn hoá của người Mường ở Hoà Bình

Xây dựng ngôi nhà sàn của người Mường là một quá trình tốn thời gian và công sức, bắt đầu bằng việc tìm kiếm gỗ để làm cột, kèo, và các cấu trúc khác Tuy nhiên, sự khan hiếm vật liệu xây dựng hiện nay đã khiến nhiều người không đủ khả năng để xây nhà sàn, dẫn đến việc chuyển sang xây nhà trệt Những kiểu nhà mới này có thể sử dụng nguyên vật liệu tự nhiên hoặc kết hợp giữa tự nhiên và nhân tạo, thậm chí là nhà kiên cố hoặc nhà cao tầng với kiến trúc hiện đại Sự chuyển đổi này diễn ra mạnh mẽ, khiến cho những ngôi nhà sàn truyền thống của người Mường ngày càng ít đi và có nguy cơ bị xóa sổ.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, xu hướng thời trang mới đã du nhập và ảnh hưởng đến trang phục của phụ nữ dân tộc, khiến chúng ngày càng được cải tiến để phù hợp với sinh hoạt và lao động hàng ngày Mặc dù trang phục truyền thống của đồng bào Mường vẫn được sử dụng trong các dịp lễ hội, nhưng việc mặc chúng hàng ngày, đặc biệt là ở nam giới, đã trở nên ít phổ biến Bên cạnh đó, trang phục của đồng bào Mường cũng đã có sự cách tân đáng kể, không chỉ về kiểu dáng mà còn về chất liệu, khi mà vải vóc hiện nay chủ yếu là vải công nghiệp thay vì dệt thủ công như trước đây.

Trong bối cảnh hội nhập và sự phát triển của nền kinh tế, văn hóa truyền thống của người Mường, đặc biệt là văn hóa ẩm thực, đã trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ Những thay đổi này chủ yếu do ảnh hưởng từ các dân tộc khác và sự hiện đại hóa của xã hội hiện nay.

Ngày nay, ăn cơm nếp đồ là một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực của người Mường, đặc biệt trong các dịp lễ tết và bữa ăn hàng ngày Những món ăn truyền thống như cơm đồ, rau đồ, lợn thui, và thịt gà nấu măng chua hạt dổi được ưa chuộng và thường xuyên xuất hiện trong các bữa tiệc Người Mường có xu hướng đơn giản hóa món ăn, tránh sự cầu kỳ, khiến những món ăn này trở thành thực phẩm hàng ngày Họ cũng đã bắt đầu sử dụng đũa, thìa, và cốc trong bữa ăn, đồng thời không chỉ tự cung cấp thực phẩm mà còn mua sắm tại các chợ và cửa hàng, với sự xuất hiện của bia và nước có ga bên cạnh rượu cần.

1.4 Phong tục tập quán và tín ngưỡng

Đám cưới của người Mường ngày nay gần giống với người Kinh, bao gồm các bước chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu Trong quá trình đính hôn, ông mối vẫn cần thiết nhưng chủ yếu mang tính hình thức Tục thách cưới vẫn phổ biến nhưng đã trở nên tượng trưng, với lễ vật không còn yêu cầu cao như trước Một số thanh niên đã tổ chức tuần trăng mật ở thị trấn, cho thấy sự ảnh hưởng của văn hóa mới Thời gian tổ chức lễ cưới cũng được rút ngắn, thường chỉ kéo dài 2 ngày với các thủ tục đơn giản hơn.

Lễ tang của người Mường ngày nay đã có nhiều thay đổi so với trước đây, với thời gian tổ chức rút ngắn và các thủ tục tang lễ đơn giản hơn Mặc dù một số trình tự truyền thống vẫn được duy trì, nhiều thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, giúp lễ tang diễn ra trang trọng và phù hợp với đạo lý dân tộc Thời gian tổ chức lễ tang được thực hiện đúng quy định, không kéo dài nhiều ngày, và các hủ tục lạc hậu đã cơ bản bị loại bỏ Trong các đám tang, sự hỗ trợ từ ban, ngành, đoàn thể và hàng xóm giúp gia đình tổ chức lễ tang chu đáo Đặc biệt, việc rắc tiền thật trong lễ đưa tang đã được xoá bỏ, trong khi việc rắc tiền vàng mã cũng đang được hạn chế.

48 giờ Người mất được chôn cất chu đáo, đúng nơi quy định

Lễ hội truyền thống ở địa phương đang dần bị mai một, nhưng tại Xóm Nghĩa (Vụ Bản), lễ hội xuống đồng (Tết khai hạ) vẫn được duy trì và tổ chức vào mồng 7 tháng Giêng hàng năm Lễ hội này thu hút đông đảo đồng bào Mường tham gia, với sự góp sức từ tiền, gạo và công sức của cộng đồng.

Các hội làng hiện nay không còn được tổ chức thường xuyên như trước, chỉ diễn ra khoảng 2-3 năm một lần, chủ yếu là các hoạt động như hội cồng chiêng, đánh mảng, ném còn, hát đôi, và hát đúm, thường kết hợp với ngày hội đoàn kết văn hóa dân tộc Các hội lớn như sắc bùa gần như đã biến mất, chỉ còn lại những người già biết đến truyền thống này.

Sự biến động trong văn hóa truyền thống thể hiện qua việc các trò chơi dân gian đang dần bị lãng quên, nhường chỗ cho các môn thể thao hiện đại như bóng đá và bóng chuyền trong các lễ hội và ngày đầu năm Những áng Mo, sử thi, ca dao, tục ngữ không còn thu hút giới trẻ như trước, mà thay vào đó là sự lên ngôi của các chương trình giải trí đặc sắc.

Sự ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất đã giúp người lao động trở nên chủ động hơn, giảm bớt sự phụ thuộc vào thiên nhiên Quan niệm “vạn vật hữu linh” và các tục lệ nông nghiệp như rước vía lúa hay lễ cầu mùa đang dần mai một, phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất Người Mường cũng tổ chức các lễ hội tương tự như người Kinh, cho thấy sự giao thoa văn hóa và mối liên kết sâu sắc giữa hai dân tộc này.

Đánh giá

Trong bối cảnh hiện đại hóa và giao lưu văn hóa đa dạng, việc bảo tồn bản sắc dân tộc trở thành thách thức lớn đối với nền văn hóa Việt Nam Tại Hoà Bình, đặc biệt là đối với tộc người Mường, chính quyền địa phương đã triển khai một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Tuy nhiên, những nỗ lực này vẫn chưa đủ để ngăn chặn tình trạng mai một và chảy máu bản sắc văn hóa.

Văn hóa Mường không chỉ tiếp thu các yếu tố độc đáo từ nền văn hóa khác, đặc biệt là dân tộc Kinh, mà còn làm phong phú thêm bản sắc truyền thống của mình bằng cách loại bỏ những hủ tục lỗi thời Tuy nhiên, sự biến đổi này cũng dẫn đến việc mất dần bản sắc văn hóa truyền thống, thể hiện rõ qua sự suy giảm phổ biến của một số lễ hội nổi tiếng như hội sắc bùa, hội xuống đồng và Tết cơm mới, đặc biệt trong giới trẻ ngày nay.

Sự biến đổi trong tập quán và công cụ sản xuất, tiêu dùng được thể hiện qua việc ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, như việc đưa giống cây trồng và vật nuôi mới vào sản xuất Ngoài ra, việc thay thế các công cụ sản xuất thô sơ bằng công cụ hiện đại, chẳng hạn như máy cày thay cho trâu, máy xay xát thay cho giã gạo thủ công, và máy tuốt chạy bằng động cơ thay cho máy tuốt thủ công, đã góp phần nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế, từ đó cải thiện mức sống của người dân.

Sự biến đổi trong văn hóa Mường đang theo hướng đơn giản hóa, loại bỏ các hủ tục lạc hậu và thủ tục rườm rà, tiết kiệm thời gian và chi phí Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc mất đi những tập quán tín ngưỡng và lễ hội truyền thống, vốn là bản sắc đặc trưng của người Mường Đồng thời, các lễ hội mới được bổ sung, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của cộng đồng này.

Sự biến đổi văn hóa không chỉ là sự chuyển mình từ truyền thống sang hiện đại mà còn phản ánh sự phát triển văn hóa Trong quá trình này, nhiều diễn biến tuân theo quy luật xã hội, nhưng cũng có những thay đổi không phù hợp, gây tổn hại đến văn hóa truyền thống Điều này cho thấy văn hóa cần kế thừa và phát triển dựa trên nền tảng truyền thống, tiến dần đến hiện đại một cách hợp lý.

Để bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tộc người Mường tại tỉnh Hòa Bình, cần xây dựng hệ thống thể chế, chính sách và pháp luật hiệu quả Việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền cũng rất quan trọng nhằm xóa bỏ các hủ tục lạc hậu Tác giả đề xuất áp dụng tổng hợp các biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại và bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc Mường.

Phát triển nền kinh tế là yếu tố then chốt để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khi kinh tế vững mạnh, đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng sẽ được cải thiện, từ đó nâng cao đời sống văn hóa Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các lễ hội thường xuyên, khuyến khích sự tham gia của người dân vào các hoạt động văn hóa.

Giáo dục pháp luật về văn hóa cần được triển khai đến từng cơ sở văn hóa trong tỉnh, thông qua việc tuyên truyền và phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh, huyện, xã, làng và bản Điều này nhằm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Bên cạnh đó, cần thông tin rõ ràng về các điều luật, quy chế và chế tài liên quan đến hình phạt đối với các hành vi xâm phạm, đánh cắp và phá hoại di sản văn hóa.

Tăng cường quản lý và bảo tồn các di tích, danh lam thắng cảnh tại tỉnh Hòa Bình là cần thiết để phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc nơi đây Việc này không chỉ phục vụ cho giáo dục truyền thống mà còn góp phần vào phát triển kinh tế, kết nối bảo tồn di sản văn hóa với du lịch Đầu tư vào việc khôi phục và tổ chức các lễ hội truyền thống, đồng thời kết hợp với các hoạt động văn hóa hiện đại, sẽ thu hút sự tham gia đông đảo của cộng đồng.

Tỉnh Hòa Bình cần chú trọng phát triển văn hóa tại các khu vực tái định cư, nơi mà cuộc sống của người dân đang gặp nhiều khó khăn Việc nghiên cứu và triển khai các biện pháp hiệu quả để bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống là rất cần thiết, đặc biệt khi dọc lòng hồ Hòa Bình có nhiều di chỉ khảo cổ học quan trọng cần được bảo vệ, minh chứng cho nền văn hóa Hòa Bình.

Tuyên truyền và giáo dục văn hóa truyền thống cho học sinh, sinh viên trong tỉnh là rất quan trọng Việc nâng cao ý thức tôn trọng và phát triển bản sắc văn hóa truyền thống trong thế hệ trẻ cần được tích cực thực hiện Điều này có thể được lồng ghép vào chương trình giảng dạy tại các trường học để đảm bảo sự duy trì và phát triển văn hóa địa phương.

Trang báo của tỉnh cần có chuyên mục di sản văn hóa, tập trung vào việc giới thiệu các giá trị văn hóa Mường và các dân tộc khác trong tỉnh Cần duy trì các lớp huấn luyện ngắn về nghệ thuật cồng chiêng, cũng như phát triển nghề truyền thống dệt thổ cẩm và các lĩnh vực văn hóa khác.

Cần thúc đẩy phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” nhằm phát triển các hoạt động văn hoá cho mọi tầng lớp, lứa tuổi Mọi người đều có cơ hội tham gia sáng tạo, biểu diễn và thưởng thức các hoạt động văn hoá, đặc biệt là trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường.

Đẩy mạnh mô hình sinh hoạt văn hóa là rất quan trọng, với các hoạt động như lễ hội cồng chiêng, hát xéc bùa, và hát ví không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa mà còn thu hút du khách Hàng năm, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về món ăn truyền thống của người Mường nhằm nâng cao kỹ năng nấu ăn, khôi phục các món ăn đặc trưng và phục vụ cho ngành du lịch.

Khôi phục và phục dựng nhà sàn cổ, xây dựng bảo tàng nhằm bảo tồn giá trị văn hóa Mường cô, giúp du khách và người dân tiếp cận các hiện vật lịch sử quý giá Đồng thời, nâng cao phát triển du lịch văn hóa kết hợp với du lịch sinh thái tại các bản Mường, tổ chức lễ hội truyền thống và xây dựng các bản Mường thành những điểm đến văn hóa đặc sắc Việc khôi phục nghề thủ công truyền thống và tích cực quảng bá du lịch, cùng với các chương trình hướng dẫn tham quan làng nghề sẽ góp phần phát triển bền vững du lịch tại khu vực này.

Đề xuất bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống tộc người

Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình trong nền kinh tế thị trường hiện nay là một thách thức lớn, đòi hỏi nhiều giải pháp tích cực Điều này không chỉ liên quan đến đời sống văn hoá của nhân dân mà còn ảnh hưởng đến sự phát triển của dân tộc Vai trò của người Mường, đặc biệt là thế hệ trẻ, là rất quan trọng trong việc tiếp nối và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc mình.

Dân tộc Mường ở Hoà Bình sở hữu nền văn hoá phong phú và đặc sắc, do đó việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc là vô cùng quan trọng Cần loại bỏ những hủ tục lạc hậu để tạo điều kiện cho sự phát triển, đồng thời bảo vệ các giá trị văn hoá đang bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế thị trường Để giữ gìn bản sắc văn hoá Mường, cần tập trung vào giải pháp phát triển kinh tế, chính trị và xã hội, đồng thời đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc Sự tham mưu từ chính quyền tỉnh Hoà Bình trong các chính sách phù hợp với điều kiện địa phương là cần thiết, nhằm khơi dậy lòng tự hào dân tộc và khuyến khích người dân tự giác bảo vệ và phát huy bản sắc văn hoá truyền thống, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.

Ngày đăng: 06/08/2021, 15:41

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (2001), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội tr 13 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hoá sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 2001
2. Vương Anh (2003), Tiếp cận với văn hoá bản Mường, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiếp cận với văn hoá bản Mường
Tác giả: Vương Anh
Nhà XB: Nxb Văn hoá dân tộc
Năm: 2003
3. Hoàng Hữu Bình (Chủ biên) (2009), Văn hoá dân tộc Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình, Nxb Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá dân tộc Mường huyện Kim Bôi tỉnh Hoà Bình
Tác giả: Hoàng Hữu Bình (Chủ biên)
Năm: 2009
4. Bùi Chỉ (2001), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình
Tác giả: Bùi Chỉ
Nhà XB: Nxb Văn hoá Dân tộc
Năm: 2001
5. Nguyễn Đức Từ Chi (1996), Người Mường ở Hoà Bình, Hội khoa học lịch sử Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Người Mường ở Hoà Bình
Tác giả: Nguyễn Đức Từ Chi
Năm: 1996
6. Bùi Xuân Đính (2012), Các dân tộc ở Viêt Nam, Nxb thời đại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc ở Viêt Nam
Tác giả: Bùi Xuân Đính
Nhà XB: Nxb thời đại
Năm: 2012
7. Cao Sơn Hải (2006), Văn hóa dân gian Mường, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa dân gian Mường
Tác giả: Cao Sơn Hải
Nhà XB: Nxb Văn hóa Dân tộc
Năm: 2006
9. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc)
Tác giả: Viện Dân tộc học
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1978
8. Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình (1995), Nội dung cuộc vận động nếp sống văn hóa tỉnh Hòa Bình Khác
10.file:///C:/Users/Admin/Downloads/tailieuchung_3_tranthinhung_vh901_2675.pdf Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w