1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn xây dựng các sản phẩm du lịch liên quan đến cây lúa thái bình

80 5 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Xây Dựng Các Sản Phẩm Du Lịch Liên Quan Đến Cây Lúa Thái Bình
Trường học Trường Đại Học Thái Bình
Chuyên ngành Du Lịch
Thể loại luận văn
Năm xuất bản 2023
Thành phố Thái Bình
Định dạng
Số trang 80
Dung lượng 14,5 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN (4)
  • CHƯƠNG 2. MỘT SỐ SẢN PHẨM LIÊN QUAN ĐẾ (25)
    • 2.1.2.5. Tiềm năng về nhân tố con người (29)
    • 2.3.1.1. Cơm (34)
    • 3.2.1. Mộ (54)
  • KẾT LUẬN (0)
  • PHỤ LỤC (80)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN

Sản phẩm du lịch bao gồm nhiều thành phần khác nhau, cả hữu hình lẫn vô hình, như tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn, cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng dịch vụ và đội ngũ nhân viên Theo Michael M Coltman, sản phẩm du lịch có thể là món hàng cụ thể như thực phẩm hoặc yếu tố không cụ thể như chất lượng phục vụ và bầu không khí tại nơi nghỉ dưỡng.

Sản phẩm du lịch không chỉ là tập hợp các dịch vụ du lịch đơn lẻ, mà còn bao gồm tất cả giá trị vật chất và tinh thần của điểm đến, đáp ứng nhu cầu của du khách Từ góc độ của du khách, sản phẩm du lịch là những cảm xúc và trải nghiệm mà họ có được trong chuyến đi.

- Cơ cấu của sản phẩm du lịch:

+ Những thành phần tạo lực hút (lực hấp dẫn đối với du khách) bao gồm

+ Cơ sở du lịch (điều kiện vật chất để phát triển ngành du lịch) Cơ sở

+ Dịch vụ du lịch: là

Loại hình du lịch là tập hợp các sản phẩm du lịch có đặc điểm tương đồng, được phân loại dựa trên nhu cầu và động cơ của khách hàng, nhóm đối tượng mục tiêu, phương thức phân phối, tổ chức hoặc mức giá bán.

Cây lúa đã gắn bó với con người và làng quê Việt Nam từ ngàn đời nay, tạo nên nền văn minh lúa nước Không chỉ mang lại sự no đủ, cây lúa còn là biểu tượng văn hóa và tinh thần của người dân Hạt lúa và người nông dân cần cù là những yếu tố không thể thiếu trong bức tranh đồng quê Việt Nam, từ quá khứ cho đến tương lai Việt Nam, với vai trò là cái nôi của nền văn minh lúa nước, tiếp tục phát triển kinh tế dựa vào hạt gạo, biểu trưng cho sự thịnh vượng của dân tộc.

Lúa, một loại cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc, là cây lương thực chính không thể thiếu trong cuộc sống của con người Hạt gạo từ cây lúa đã trở thành một phần quen thuộc trong bữa ăn hàng ngày cũng như các bữa tiệc quan trọng Ngoài vai trò kinh tế - xã hội to lớn, cây lúa còn mang giá trị lịch sử, gắn liền với sự phát triển của dân tộc và in dấu ấn trong từng giai đoạn của đất nước Ngày nay, bên cạnh việc đảm bảo no đủ, cây lúa còn có khả năng làm giàu cho người nông dân và cả quốc gia nếu được biến thành hàng hóa có giá trị.

mái rạ vài ba năm lại phải thay mới , sau một hai mùa mưa nắng, mái ngả màu ghi xám, trông bàng bạc

Rơm là nguyên liệu đa năng, được sử dụng để lợp nhà, cho gia súc ăn, làm chất đốt hoặc ủ làm phân Trấu không chỉ được dùng làm chất đốt trong sinh hoạt hàng ngày mà còn là nguồn nguyên liệu thay thế cung cấp nhiệt trong sản xuất với chi phí thấp.

Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực quý giá mà còn là biểu tượng văn hóa sâu sắc trong đời sống người Việt, thể hiện qua hình ảnh "bát cơm" và "hạt gạo" Nó không chỉ mang lại sự no đủ mà còn góp phần tạo nên vẻ đẹp văn hóa và tinh thần Hạt lúa và người nông dân cần cù, mộc mạc là những yếu tố không thể thiếu trong bức tranh đồng quê Việt Nam, phản ánh giá trị truyền thống và sự gắn bó với đất đai.

“Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang , Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu”

“Trên đồng cạn, dưới đồng sâu Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”

“Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống

“Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn.”

“Được mùa chớ phụ ngô khoai, Đến khi thất bát lấy ai bạn cùng”

Thời tiết đóng vai trò quan trọng trong việc trồng lúa, ảnh hưởng đến từng giai đoạn phát triển của cây Do đó, nhiều tục ngữ đã được hình thành để phản ánh kinh nghiệm nhận biết thời tiết, giúp nông dân áp dụng vào quy trình canh tác lúa hiệu quả hơn.

“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, ếng sấm phất cờ mà lên.”

“Tua rua một tháng mười ngày, Cấy trốc luống cày cũng được lúa xôi” trong thơ ca a

“Em đi giữa biển vàng Nghe mênh mang trên đồng lúa hát

Hương lúa chín thoảng bay Làm lung lay hàng cột điện làm xao động cả rặng cây

Em đứng giữa cánh đồng lúa vàng rực, lắng nghe âm thanh du dương của gió thổi qua Những bông lúa nặng trĩu trong tay, như chứa đựng tất cả tinh túy của mưa, gió và nắng Chúng mang trong mình giọt mồ hôi của những người nông dân đã chăm sóc và nuôi dưỡng, để lúa lớn lên tươi tốt.

“Tôi hát bài ca ngợi ca cây lúa,

Và người trồng lúa cho quê hương

Quê hương ơi, có gì đẹp hơn thế: Đồng lúa hẹn hò những mùa gặt, Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, Ngày mai bắt đầu từ hôm nay…”

Trên sân khấu, các vở diễn và điệu múa thể hiện quy trình sản xuất nông nghiệp thông qua các thủ pháp ước lệ và tượng trưng Từ những công việc như vãi mạ, nhổ mạ, cấy lúa đến làm cỏ, bón phân, gặt, đập, và cả xay thóc, giã gạo, tất cả đều được thể hiện một cách tinh tế mà không cần đến dụng cụ cụ thể Chỉ với những động tác đơn giản của các nghệ sĩ, khán giả dễ dàng nhận ra các công việc đồng áng như sàng sẩy mà không cần đến những vật dụng thực tế.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo với truyền thống tín ngưỡng lâu đời Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam đều sở hữu những tín ngưỡng riêng, phản ánh mối liên hệ chặt chẽ giữa đời sống kinh tế và tâm linh của họ.

Trong tín ngưỡng của cư dân Đông Nam Á, thần lúa và thần mùa màng đóng vai trò quan trọng, được xem là biểu tượng của sự no đủ Việc thờ cúng các vị thần này không chỉ thiêng liêng trong các nghi lễ mà còn xuất hiện trong các lễ hội và truyền thuyết dân gian Tục thờ thần lúa hay thần mùa màng hiện diện ở hầu hết các quốc gia trong khu vực, thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên.

Tín ngưỡng phồn thực, bên cạnh tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, là một loại tín ngưỡng phổ biến với nhiều biểu hiện đa dạng Những hoạt động như tục cầu mưa, lễ cầu Mẹ nước, tục té nước và tục đi lấy nước thờ thể hiện rõ nét sự tôn thờ và cầu mong cho sự sinh sôi, phát triển.

Mưa là hiện tượng tự nhiên quan trọng, thường được tổ chức trong các bản làng để cầu cúng thần nông - vị thần cai quản ruộng đồng, vườn tược và gia súc Người dân xin thần cho cây cối xanh tươi, mùa màng bội thu, gia súc sinh sôi, và mong mọi người có cuộc sống no ấm.

 rong văn thơ, quen t trưng

Cánh đồng Inakadate được biến thành những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, với cây lúa là màu vẽ và những công cụ tự nhiên làm bút vẽ Sự ngạc nhiên từ những bức tranh này là yếu tố thu hút du khách, và người dân nơi đây tin rằng họ cần tạo ra những tác phẩm phức tạp hơn để khuyến khích du khách quay lại.

- hoa cũng góp phần tôn vinh hoạt động sản xuất nông nghiệp Quốc huy nước ta cũng có hình bông lúa bao quanh

MỘT SỐ SẢN PHẨM LIÊN QUAN ĐẾ

Tiềm năng về nhân tố con người

Nông dân Thái Bình nổi tiếng với truyền thống thâm canh lúa nước Tính đến năm 2002, dân số Thái Bình ước đạt khoảng 1 triệu 827 ngàn người, trong đó 94,2% là dân số nông thôn và 5,8% là dân số thành thị Mật độ dân số trong khu vực này là 1.183 người/km2, với bình quân nhân khẩu là 3,75 người/hộ Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên hiện nay là 1,02%.

Nguồn lao động trong độ tuổi tại khu vực này là 1 triệu 73 ngàn người, trong đó lao động trong ngành nông, lâm nghiệp chiếm 74,3%, công nghiệp và xây dựng chiếm 17%, còn khu vực dịch vụ - thương mại chiếm 8,7%.

Lao động qua đào tạo chiế ông nhân kỹ thuật và nghiệp vụ 13,5%, trung cấp 5,5%, cao đẳng, đại học và trên đại học 4,5%

Hàng năm, Thái Bình có khoảng 19.000 học sinh tốt nghiệp THPT, tạo ra một nguồn lao động trẻ có trình độ văn hóa nhưng chưa có điều kiện học đại học Nhóm lao động này có thể tiếp tục học tại các trường trung cấp hoặc các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh, đồng thời cũng có thể được đào tạo tại chỗ ở các doanh nghiệp sản xuất Điều này sẽ cung cấp nguồn nhân lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Sau hơn 20 năm đổi mới, nông thôn Thái Bình đã chứng kiến sự phát triển đáng kể, nhờ vào sự chú trọng của Đảng và Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

Từ một vùng chuyên canh cây lúa với phương thức canh tác lạc hậu, nông nghiệp Thái Bình đã chuyển mình sang sản xuất hàng hóa với sản lượng lớn và chất lượng cao Trong giai đoạn 2000 - 2010, tỉnh đã đầu tư bình quân 125 tỷ đồng mỗi năm cho sản xuất nông nghiệp Các giống lúa ngắn ngày có giá trị kinh tế cao đang dần thay thế những giống lúa dài ngày hiệu quả thấp Thái Bình là tỉnh tiên phong trong công nghiệp hóa sản xuất giống cây trồng Đến năm 2010, tổng giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh đạt trên 6100 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng 6,27%, vượt xa kế hoạch 4,5% Điều này đặc biệt quan trọng đối với tỉnh có hơn 70% dân số sống bằng nông nghiệp.

Năm 2010, tổng giá trị ngành nông nghiệp Thái Bình đạt trên 6.100 tỷ đồng, tăng 6,27% so với năm 2009 Đây là năm thứ hai tỉnh triển khai xây dựng nông thôn mới, với 8 xã điểm được đầu tư và nhiều xã tự giác tham gia phong trào Điển hình là kế hoạch dồn điền đổi thửa và quy hoạch vùng sản xuất hàng hóa tập trung, giúp Thái Bình từ 8 xã ban đầu đã có hơn 20 xã hoàn thành việc này Điều này tạo ra bước đệm quan trọng cho sản xuất nông nghiệp, lan tỏa đến từng thôn quê Trong mùa vụ 2011, tỉnh gieo cấy hơn 83.500 ha, với năng suất lúa ước đạt trên 62 tạ/ha và diện tích cây vụ đông đạt trên 40.000 ha.

Vào năm 2010, Sở Công Thương Thái Bình đã chỉ đạo Trung tâm Xúc tiến Thương mại Thái Bình phối hợp với công ty TNHH hội chợ triển lãm Bắc Hà tổ chức "Hội chợ Nông nghiệp Quốc tế đồng bằng Bắc bộ 2010" Sự kiện này được phê duyệt trong chương trình xúc tiến thương mại quốc gia theo Quyết định số 1169/QĐ-BCT ngày 09/3/2010 của Bộ Công Thương.

- Quy mô:Trên 400 gian hàng

- Các mặt hàng trưng bày:

Sản phẩm nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông thôn, bao gồm các máy móc, công cụ và thiết bị hiện đại, giống cây trồng và vật nuôi chất lượng cao, công nghệ sinh học tiên tiến, cùng với phân bón, thuốc trừ sâu và thuốc sát trùng hiệu quả Bên cạnh đó, thức ăn gia súc cũng là yếu tố thiết yếu giúp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

, đồ uống, gia vị, thực phẩm ăn liền…

2.2 hế tác từ cây lúa t

2.2.1 ất hiện những thể loại tranh mới như: tranh cánh bướm, tranh ghép bằng vỏ cây, tranh vỏ ừ những cọng rơm, rạ khô

Màu sắc của tranh rơm rất phong phú và sắc nét, tương tự như tranh thêu, nhưng khi xem dưới ánh sáng, ta có thể thấy rõ những đường nét và độ bóng của từng cọng rơm khô Để tạo ra một bức tranh từ rơm khô, cần trải qua nhiều công đoạn: lựa chọn và xử lý vật liệu, thiết kế mẫu, sử dụng dao điện để cắt ghép, và cuối cùng là đánh màu cho tranh.

Những sợi rơm vàng mỏng manh đã được người Việt Nam bện lại thành chiếc mũ

Trong những năm Mỹ leo thang chiến tranh tại miền Bắc, hình ảnh chiếc mũ rơm của trẻ thơ băng qua bom đạn đến trường thể hiện sự kiên cường Các cô dân quân đội mũ rơm rộng vành, sử dụng súng trường để bắn hạ máy bay địch, đã khắc họa tinh thần lạc quan và quyết tâm chiến đấu của dân tộc anh hùng, với hình ảnh "lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa".

Sản phẩm chủ yếu gồm mũ rơm, mũ rơm cowboy, mũ rơm Mexico, mũ rơm rộng vành, mũ rơm cho nam, nữ, quảng cáo…

2.3 Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”

Cây lúa đã xuất hiện từ thời nguyên thủy, khi con người phải săn bắn và hái lượm để sống Qua thời gian, họ nhận ra hạt lúa có vị ngon và bắt đầu gieo trồng ở những vùng đất khô, từ đó nhân giống để có thực phẩm Dần dần, với kinh nghiệm tích lũy, người dân đã chuyển sang gieo lúa ở những vùng đất có nước, giúp cây lúa phát triển tốt hơn Ngày nay, cây lúa không chỉ mang lại nguồn thực phẩm quan trọng mà còn đóng vai trò thiết yếu trong đời sống hàng ngày của chúng ta.

Cây lúa bắt đầu từ cây mạ, lớn lên thành lúa, với bông gọi là đòng Hạt lúa non được gọi là cốm, trong khi hạt lúa già là thóc Sau khi gặt, phần còn lại là rạ, và khi đập tách hạt thóc, phần dư là rơm Sau khi xay giã, hạt thóc được chia thành gạo, cám và trấu Gạo gãy được gọi là tấm, và gạo nấu thành cơm, xôi hoặc cháo Cây lúa có nhiều loại như nếp, tẻ, mùa và chiêm, trong đó lúa nếp từng được người Việt ưa chuộng, còn lúa mùa là loại chính trong lúa tẻ.

Cơm

Việt Nam đã xuất khẩu 75 triệu tấn gạo, mang lại giá trị hơn 23 tỷ USD, trong đó năm 2010 đạt 6,88 triệu tấn, trị giá 3,23 tỷ USD Lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam chiếm 1/5 tổng lượng gạo xuất khẩu toàn cầu Trước đây, đất nước từng trải qua thời kỳ khó khăn, nhưng ngày nay, bên cạnh các phương pháp nấu cơm hiện đại như nồi nhôm, xoong gang, và nồi cơm điện, cơm niêu vẫn được coi là một đặc sản quý giá, thể hiện sự phát triển và nâng cao đời sống của người dân.

Cơm nắm, một món ăn dân dã, đã trở thành bữa ăn quen thuộc của người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn Đối với những người nông dân làm việc xa nhà, cơm nắm là nguồn dinh dưỡng thiết yếu giúp phục hồi sức lực sau một ngày lao động Nó cũng là lựa chọn lý tưởng cho những người buôn bán hoặc đi xa không thể về nhà đúng bữa, trở thành người bạn đồng hành đáng tin cậy Món ăn này đã có từ rất lâu, từ thời ông bà tổ tiên, thể hiện nét văn hóa ẩm thực truyền thống của dân tộc.

Cơm được cắt thành từng miếng nhỏ, khi chấm với muối vừng, mang đến một trải nghiệm tuyệt vời Hương vị đậm đà và bùi bùi của muối vừng hòa quyện với vị ngọt của cơm và sự bùi bùi của lạc, tạo nên âm hưởng đặc trưng của làng quê.

Cơm nắm không chỉ được ăn với muối vừng mà có thể ăn với thứ gì tùy thích như cá kho, thịt rim hay ruốc bông… Nhưng mà có

Cơm được cắt thành miếng nhỏ vừa ăn, chấm với muối vừng, mang lại cảm giác tuyệt vời Miếng cơm trắng mịn được gói trong lá chuối xanh, tạo nên hình ảnh hấp dẫn Ngày nay, cơm nắm thường được bọc trong nilon và giấy báo Muối vừng vàng ươm, với những hạt vừng bóng bẩy và một chút lạc rang giã nhỏ, tỏa hương thơm lừng.

Cháo đã trở thành một biểu tượng ẩm thực tinh tế trong văn hóa Việt Nam, được yêu thích bởi mọi tầng lớp xã hội Từ người lao động đến những người có thu nhập cao, cháo là lựa chọn lý tưởng khi cần một món ăn nhẹ nhàng và ấm lòng Trong đời sống hàng ngày, cơm và cháo là hai món ăn thiết yếu, trong đó cơm được xem là để “chắc bụng”, còn cháo lại dễ nuốt và bổ dưỡng, đặc biệt phù hợp cho người ốm hoặc cơ thể suy nhược Với tính chất dễ ăn và mát, cháo cũng trở thành món phổ biến trong mùa hè.

Cháo là món ăn dân dã quen thuộc trong đời sống của người nông dân, với bát cháo trắng đơn giản chỉ cần thêm vài cọng hành tươi đã rất thơm ngon Một loại cháo đặc biệt là cháo tù, được nấu từ cơm nguội với lượng nước ít hơn, thường ăn kèm với thịt, cá kho mặn hoặc cà muối Tuy nhiên, những loại cháo mộc mạc này ngày nay không còn phổ biến, thay vào đó là các loại cháo bổ dưỡng được nấu với nhiều nguyên liệu phong phú như rau, củ, quả, thịt, cá Ngoài ra, cháo còn được ăn kèm với quẩy hoặc bánh đa để tăng thêm hương vị hấp dẫn.

Bát cháo ngày càng trở nên phong phú với nhiều phụ gia, không chỉ là món ăn cho người bệnh, người già và trẻ nhỏ mà còn thể hiện nét văn hóa ẩm thực Việt Khi đời sống tinh thần được nâng cao, cháo được thưởng thức như một nghệ thuật ẩm thực tinh tế, hiện diện từ những gánh hàng rong, vỉa hè đến các nhà hàng sang trọng Với thực đơn đa dạng, cháo phù hợp với mọi tầng lớp xã hội, từ đơn giản đến cầu kỳ, thanh đạm đến bổ dưỡng.

Cháo đã trở thành hình ảnh quen thuộc trong các quán ven đường, bên gốc đa hay ở chợ quê, nơi những nồi cháo lớn luôn tỏa hương thơm hấp dẫn Món ăn này không chỉ được ưa chuộng bởi các bà, các cô khi đi chợ mà còn là lựa chọn yêu thích của trẻ nhỏ nhờ vị ngon và dễ ăn Cháo không chỉ là bữa sáng phổ biến mà còn xuất hiện trong thực đơn ăn đêm của giới trẻ và người lao động Dù chỉ là một bát cháo nhỏ, nhưng nó có khả năng xua tan cái nóng oi ả mùa hè và làm ấm lòng trong những ngày đông giá lạnh Chính vì vậy, cháo đã trở thành món ăn tinh thần của người Việt, bên cạnh nhiều món ăn khác.

Gạo nếp, một sản phẩm quý giá của nền văn minh lúa nước, đóng vai trò quan trọng trong văn hóa ẩm thực Việt Nam Với hương thơm đặc trưng và giá trị cao hơn gạo tẻ, gạo nếp thường được sử dụng làm nguyên liệu cho các lễ vật dâng cúng thần linh và tổ tiên, thể hiện sự tôn kính và truyền thống văn hóa lâu đời.

Sự tích bánh chưng, bánh dày không chỉ tôn vinh những đức tính tốt đẹp như hiền hòa, hiếu thảo, và cần cù sáng tạo của con cháu Lạc Hồng, mà còn phản ánh giá trị văn hóa ẩm thực Việt Nam Từ những chiếc bánh truyền thống này, người dân đã phát triển nhiều món ăn phong phú từ gạo nếp, thể hiện sự sáng tạo và yêu lao động của dân tộc.

Hạt gạo, từ khi còn xanh tươi trên cánh đồng, đã mang trong mình hương vị quyến rũ, tạo nên nhiều món ngon đa dạng Từ những món ăn đơn giản, dân dã đến những món cầu kỳ, cao lương mỹ vị, hạt gạo luôn là phần không thể thiếu trong ẩm thực Việt Nam, gắn bó với mỗi người, dù đi đâu cũng không thể quên.

Bánh chưng truyền thống của người Việt được làm từ hạt nếp ngon, gói trong lá dong xanh cùng với đậu xanh và thịt mỡ, nấu lâu trên bếp lửa Khi bóc lá, chiếc bánh hiện ra xanh mướt, với hạt nếp quyện chặt, nhân đỗ và thịt thơm lừng Bánh gio có màu hổ phách, khi ăn rưới mật mía, mang lại vị ngọt thanh mát Bánh nếp dẻo ngọt, thơm bùi đậu xanh, trong khi bánh khúc nhỏ xinh với hạt nếp trắng muốt ôm lấy lớp nhân đỗ quyện lá khúc thơm Ngay cả bột nếp vo viên chiên cũng trở thành món bánh hấp dẫn.

Canh cá Quỳnh Côi, một món ăn điểm tâm đặc sắc ở thị trấn Quỳnh Côi (Quỳnh Phụ, Thái Bình), không giống như cá nấu chua mà nổi bật với hương vị thơm ngon Để làm món canh cá, việc chọn nguyên liệu rất công phu, đặc biệt là bánh đa làm từ gạo ngon, không quá dẻo hay khô Bánh đa phải được tráng mỏng, chín tới, và không chứa hàn the, giữ được độ dai, giòn tự nhiên Từ thế kỷ 17, canh cá Quỳnh Côi đã được ghi nhận là món ăn dân tộc, mang đậm hương vị quê hương Món canh cá ngon nhất khi kết hợp với sợi bánh đa mỏng, mịn, được làm từ gạo chiêm mùa trước, tạo nên một trải nghiệm ẩm thực đặc sắc cho thực khách.

Thưởng thức canh cá nóng hổi cùng rau rút vào mùa hè hoặc rau cải cúc vào mùa đông là một trải nghiệm ẩm thực tinh tế và thú vị, thể hiện nét văn hóa độc đáo khó tìm thấy ở nơi khác.

Bún, một loại thực phẩm dạng sợi tròn, trắng mềm được làm từ tinh bột gạo tẻ, là món ăn phổ biến trong ẩm thực Việt Nam Bún được tạo hình qua khuôn và được luộc chín trong nước sôi, chỉ đứng sau cơm và phở về mức độ phổ biến trên toàn quốc.

Mộ

trong những sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách xa gần, nhất là người nước ngoài tới tham quan

Không ít du khách châu Âu đã

Qua hàng nghìn năm, lúa đã trở thành cây lương thực chủ yếu nuôi sống người Việt Bên cạnh vai trò dinh dưỡng, cây lúa còn gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần, thể hiện rõ trong ngôn ngữ hàng ngày và cách gọi tên của những người lao động chăm chỉ.

Cách trồng lúa bao gồm nhiều giai đoạn quan trọng: bắt đầu từ việc hạt thóc nảy mầm thành cây mạ, sau đó nhổ cây mạ và cấy xuống ruộng Ruộng cần được cày bừa, làm đất và bón phân để tạo điều kiện tốt nhất cho cây lúa phát triển Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi, cần tiếp tục bón phân và diệt sâu bọ Cuối cùng, lúa được thu hoạch, tuốt hạt, phơi khô và xay xát để trở thành hạt gạo.

như Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác

Sau khi thu hoạch mùa màng, bước tiếp theo là cày bừa để chuẩn bị cho vụ mùa mới Quy trình gặt hái và cày bừa diễn ra liên tục, giúp duy trì sự no đủ cho con người suốt cả năm.

Trâu đưa Làm đấ ải cày sâu, bừa kỹ cho đất nhuyễn, mặt ruộng phải phẳng thuận lợi cho khi cấy đồng đều và điều tiết nước

Cây lúa gần gũi với người nông dân

Trong việc trồng lúa, nước là yếu tố quan trọng nhất, đặc biệt là ở các vùng khô hạn, nhiễm chua, nhiễm mặn

Cây lúa phát triển tốt trong môi trường ẩm ướt, vì vậy trong những ngày nắng nóng, nông dân cần dẫn nước và tát nước từ các kênh rạch để cung cấp độ ẩm cho cây Đồng thời, họ cũng phải thực hiện các biện pháp thủy lợi để cân bằng lưu lượng nước, tránh tình trạng úng lụt.

S cánh đồng Khi lúa chín mùa gặ , nông dân đổ ra đồng ợp tác, nhà nhà xe lúa, quạt thóc, phơi rơm Làng quê

, rộn ràng tiếng cười nói, hát hò, tiếng kẽo cạch của đòn gánh, xe bò, máy tuốt ề , những cây lúa, hạt thóc

Quá trình biến hột lúa thành hột gạo không hề đơn giản, phải trải qua bốn lần lột xác từ gạo lứt đến gạo trắng tinh Các bước này bao gồm xay, sàng và giần, mỗi giai đoạn đều cần đến những dụng cụ chuyên dụng mà bất kỳ nhà nông nào cũng đều phải có.

Mỗi miền quê Bắc Bộ đều có những hình ảnh đặc trưng như cây đa, bến nước, sân đình và lũy tre, nhưng chổi rơm dùng để quét nhà và sân cũng là một nét văn hóa độc đáo, thể hiện sự giản dị và gần gũi trong đời sống hàng ngày.

Vụ mùa là thời điểm quan trọng để thu hoạch rơm nếp, loại rơm được sử dụng để bó chổi Rơm nếp Bắc, với thân cao và cứng cáp, có gốc rạ to, chỉ được trồng một vụ trong năm, chính là vụ mùa.

Những búng thóc được sử dụng làm bàn cạo để thu hoạch thóc Mọi người thường tuốt từng bông thóc ngày này qua ngày khác để lấy rơm làm bó chổi Dù có vẻ đơn giản, nhưng quá trình này đòi hỏi sự kiên nhẫn và tỉ mỉ.

Rơm lúa nếp sau khi được tuốt sạch sẽ được bó lại thành từng nắm nhỏ và phơi khô để bảo quản trong suốt cả năm mà không bị hư hỏng Để tránh ẩm mốc, rơm khô thường được cất ở gác bếp Khi sử dụng, người dân sẽ tuốt phần vỏ và lá, chỉ giữ lại phần lõi rơm, trong đó cọng rơm đẹp có kích thước to, tròn, vàng ươm và cứng cáp Mỗi chổi trung bình được làm từ khoảng 5-6 "con rơm", và phần bông rơm cần được dỗ đều để khi bó lại, chổi sẽ đẹp và quét sạch hơn Cán chổi được bện từ những cọng rơm còn lại, cuộn chặt từ dưới lên trên theo thứ tự, đảm bảo các cọng rơm được xếp hơi xéo theo chiều thuận tay phải, giúp chổi chắc chắn và bền.

Cán chổi dài khoảng hai gang tay và được gia cố bằng một cọc tre nhỏ ở giữa để tăng độ chắc chắn Sau khi hoàn thành phần cán, một dây đeo nhỏ được bện ở đầu cán chổi Cuối cùng, cần cắt gọn những cọng rơm thừa để tạo sự mịn màng, êm tay và thẩm mỹ Một cái chổi được làm đẹp và chắc chắn có thể quét đến khi phần bông mòn gần sát cán mà vẫn giữ được độ bền, không bị sổ ra.

Dây đay có thể được xoắn lại và dùng để cuốn cán chổi, hoặc kết hợp với cọng rơm để tạo ra sản phẩm chắc chắn hơn Phương pháp cuốn này tương tự như cách sử dụng cọng rơm trên “con rơm” để hoàn thiện sản phẩm.

Ẩm thực Việt Nam được hình thành và phát triển từ nền văn minh lúa gạo, với lúa gạo là sản vật chủ đạo Đến nay, lúa gạo vẫn là gốc rễ của văn hóa ẩm thực Việt, không chỉ là lương thực chính mà còn là nguyên liệu để tạo ra nhiều món quà đặc sắc Người nông dân khéo léo chế biến từ gạo tẻ, gạo nếp cùng với các loại đậu và lá khác để làm nên nhiều loại bánh bình dân ngon miệng.

Mỗi công đoạn trong quá trình chế biến bột đều cần sự khéo léo và bí quyết riêng, từ việc ngâm nếp và gạo với một lượng muối vừa phải, cho đến việc để hạt nở đều trước khi xay Sau khi xay, nếu bột còn lẫn hạt nhỏ, cần phải xay thêm nhiều lần để đạt độ mịn mong muốn Đối với bột khô, việc sàng sảy để loại bỏ tạp chất như trấu và sạn cũng đòi hỏi nhiều công sức, nhằm đảm bảo chất lượng bột làm bánh đồng nhất.

Rượu cũng là một nét văn hóa mang đậm bản sắc riêng của từng dân tộc và từng vùng

Bảo tồn và tôn vinh văn hóa truyền thống xung quanh cây lúa và hạt gạo là nhiệm vụ quan trọng, nhằm quảng bá giá trị to lớn của chúng trong đời sống con người Việc tái hiện các nét văn hóa độc đáo này không chỉ góp phần gìn giữ di sản văn hóa mà còn thúc đẩy du lịch văn hóa liên quan đến lúa nước, tạo ra sự kết nối giữa con người và thiên nhiên.

-Khu lúa nước và rừng sinh thái, tái hiện sinh hoạt đặc trưng vùng lúa nước Du khách trong và ngoài nước đều có thể (nế

Công việc trồng lúa nước được tái hiện qua các hoạt động như cày, bừa, gieo mạ, cấy, tát nước, làm cỏ, cắt, đập lúa và sử dụng xe trâu để kéo lúa về Những hoạt động này giúp mọi người hình dung rõ nét về quy trình trồng lúa của nước ta trong quá khứ.

Ngày đăng: 05/08/2021, 22:08

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w