Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến với khách sạn thông qua các hoạt động marketing phù hợp với tình hình hiện tại.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp như: thống kê, thập thập số liệu, phân tích…
Kết cấu luận văn
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về giải pháp Marketing
Chương 2: Thực trạng hoạt động Marketing tại khách sạn Bạch Đằng-Hạ Long
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing nhằm thu hút khách du lịch đến với khách sạn Bạch Đằng-Hạ Long
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301
Cơ sở lí luận chung về Marketing du lịch
Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Du lịch và khách du lịch
Hoạt động du lịch đã hình thành từ thời kỳ cổ đại và phát triển qua các giai đoạn lịch sử, từ phong kiến đến hiện đại Ngành kinh doanh du lịch ngày càng được nâng cao về cơ sở vật chất và các dịch vụ như ăn, ở, di chuyển, vui chơi, giải trí Hiện nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu thiết yếu toàn cầu, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển, và được xem như một tiêu chuẩn đánh giá mức sống của người dân Do đó, có nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch.
Theo Tổ chức Liên hợp quốc, du lịch được định nghĩa là hành động di chuyển đến một địa điểm khác với nơi cư trú thường xuyên, với mục đích không phải để kiếm tiền hay thực hiện công việc kinh doanh.
Tại hội nghị LHQ về du lịch ở Roma (21/8 – 5/9/1963), du lịch được định nghĩa là tổng hợp các mối quan hệ và hoạt động kinh tế phát sinh từ việc di chuyển và lưu trú của cá nhân hay tập thể bên ngoài nơi cư trú thường xuyên với mục đích hòa bình Các chuyên gia Trung Quốc nhấn mạnh rằng hoạt động du lịch là sự kết hợp của các yếu tố kinh tế, xã hội, với sự tham gia của chủ thể, khách thể và trung gian du lịch Theo I.I Pirôgionic (1985), du lịch là hoạt động của cư dân trong thời gian rỗi, liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm thời nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, cũng như nâng cao nhận thức văn hóa và thể thao, đi kèm với việc tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế và văn hóa.
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301
Du lịch được hiểu là hình thức di chuyển tạm thời của du khách từ vùng này sang vùng khác hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, mà không làm thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc của họ.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), du lịch được định nghĩa là tất cả các hoạt động của con người diễn ra ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong thời gian không quá 12 tháng Mục đích của du lịch bao gồm nghỉ ngơi, giải trí, công vụ và nhiều lý do khác.
Theo Tổng cục Du lịch, du lịch được định nghĩa là hoạt động của con người diễn ra ngoài nơi ở thường xuyên, nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Du lịch được xem như một ngành kinh tế dịch vụ, phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí và nghỉ ngơi, có thể kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và nhiều nhu cầu khác Bản chất của du lịch không chỉ là sự di chuyển mà còn là trải nghiệm và khám phá những giá trị văn hóa, thiên nhiên.
Du lịch là một sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ xuất hiện khi có sự phát triển của nền kinh tế thị trường, gia tăng thu nhập và thời gian rỗi Nhu cầu nghỉ ngơi và tham quan du lịch gia tăng nhờ vào tiến bộ khoa học - công nghệ và phát triển phương tiện giao thông Bản chất của du lịch không chỉ là nghỉ ngơi mà còn là khám phá những giá trị văn hóa cao cả Để phát triển du lịch, cần dựa vào tài nguyên du lịch để hoạch định các chiến lược dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, lựa chọn sản phẩm du lịch độc đáo và xác định phương hướng xây dựng cơ sở hạ tầng Sản phẩm du lịch chủ yếu là các chương trình kết nối di tích lịch sử và văn hóa đặc trưng.
Nguyễn Thành Nam, sinh viên lớp VHL 301, đang khám phá văn hóa và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng, cùng với các cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại như dịch vụ lưu trú, ẩm thực và vận chuyển.
Từ góc độ thị trường du lịch, các nhà tiếp thị du lịch tập trung vào việc xác định nhu cầu của du khách nhằm tạo ra các chương trình du lịch hấp dẫn Mục tiêu chính của họ là tìm kiếm và khai thác thị trường du lịch để đáp ứng nhu cầu mua sắm của khách hàng.
Du lịch là sự kết hợp của các mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế phát sinh từ hành trình và lưu trú tạm thời của du khách, nhằm đáp ứng các nhu cầu đa dạng với mục đích hòa bình và hữu nghị.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khách du lịch đứng ở trên các góc độ khác nhau
Khách du lịch được định nghĩa bởi Liên đoàn quốc tế các tổ chức du lịch là người ở lại nơi tham quan ít nhất 24 giờ vì lý do giải trí, nghỉ ngơi hoặc công việc Đến năm 1968, định nghĩa này đã được rút gọn thành “bất kỳ ai ngủ qua đêm” Uỷ ban xem xét tài nguyên Quốc gia của Mỹ cho rằng du khách là người đi ra khỏi nhà ít nhất 50 dặm vì công việc giải trí hoặc việc riêng, không tính đến việc có qua đêm hay không Tại Việt Nam, du khách được hiểu là những người từ bên ngoài đến địa điểm du lịch với mục đích nâng cao nhận thức về môi trường, tham gia vào các hoạt động thư giãn, giải trí, thể thao, văn hóa, và tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế, dịch vụ, bao gồm cả việc lưu trú qua đêm.
1.1.2 Doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Kinh doanh là những hoạt động nhằm tạo ra lợi nhuận cho các chủ thể trên thị trường Theo Điều 3 của Luật Doanh Nghiệp, kinh doanh bao gồm việc thực hiện một hoặc nhiều giai đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất.
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301 đến tiêu dùng sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”
Kinh doanh du lịch bao gồm việc thực hiện một hoặc nhiều giai đoạn trong quá trình hoạt động du lịch, hoặc cung cấp dịch vụ du lịch trên thị trường với mục tiêu tạo ra lợi nhuận, theo quy định tại điều 10 mục 7 của pháp lệnh du lịch.
Doanh nghiệp du lịch là một phần quan trọng trong hệ thống kinh doanh, có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh Mỗi doanh nghiệp hoạt động như một tế bào trong ngành du lịch, vừa là đơn vị cung ứng vừa là đơn vị tiêu thụ Công ty lữ hành, một loại hình doanh nghiệp du lịch, chuyên cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách hàng và có thể thực hiện các hoạt động trung gian, bán sản phẩm từ các nhà cung cấp du lịch, nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách du lịch từ đầu đến cuối.
Thực trạng hoạt động Marketing tại khách sạn Bạch Đằng – Hạ Long
Kết quả kinh doanh của một số năm gần đây
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về giải pháp Marketing
Chương 2: Thực trạng hoạt động Marketing tại khách sạn Bạch Đằng-Hạ Long
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động marketing nhằm thu hút khách du lịch đến với khách sạn Bạch Đằng-Hạ Long
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301
Cơ sở lý luận chung về Marketing du lịch
1.1 Các khái niệm cơ bản
1.1.1 Du lịch và khách du lịch
Hoạt động du lịch đã hình thành từ rất sớm, trải qua các thời kỳ cổ đại, phong kiến, cận đại đến hiện đại, với sự phát triển mạnh mẽ trong kinh doanh du lịch Ngày nay, du lịch đã trở thành nhu cầu thiết yếu của người dân ở các quốc gia phát triển, đồng thời cũng là tiêu chuẩn để đánh giá mức sống của cư dân Sự phát triển này không chỉ về cơ sở vật chất mà còn về các điều kiện ăn, ở, đi lại và vui chơi giải trí, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch.
Theo Liên Hiệp Quốc, du lịch được định nghĩa là hành động di chuyển đến một địa điểm khác ngoài nơi cư trú thường xuyên, với mục đích không phải là kiếm tiền hay thực hiện công việc sinh sống.
Tại hội nghị LHQ về du lịch diễn ra tại Roma, Italia (21/8 – 5/9/1963), du lịch được định nghĩa là tổng hợp các mối quan hệ và hoạt động kinh tế phát sinh từ các chuyến đi và lưu trú của cá nhân hoặc tập thể bên ngoài nơi ở thường xuyên với mục đích hòa bình Các chuyên gia du lịch Trung Quốc cho rằng hoạt động du lịch là sự kết hợp của nhiều quan hệ và hiện tượng, dựa trên sự tồn tại và phát triển kinh tế, xã hội, với các chủ thể và khách thể du lịch Theo I.I Pirôgionic (1985), du lịch là hoạt động của cư dân trong thời gian rỗi, liên quan đến việc di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú, nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, cũng như nâng cao nhận thức văn hóa và thể thao, đi kèm với việc tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế và văn hóa.
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301
Du lịch được hiểu là hình thức di chuyển tạm thời của du khách từ vùng này sang vùng khác hoặc từ quốc gia này sang quốc gia khác, mà không làm thay đổi nơi cư trú hay nơi làm việc của họ.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), du lịch được định nghĩa là tất cả các hoạt động của con người diễn ra ngoài nơi cư trú chính của họ trong thời gian không quá 12 tháng Mục đích của du lịch có thể bao gồm nghỉ ngơi, giải trí, công vụ và nhiều lý do khác.
Theo Tổng cục Du lịch, du lịch được định nghĩa là hoạt động của con người diễn ra ngoài nơi ở thường xuyên, nhằm thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, phục vụ nhu cầu tham quan, giải trí và nghỉ ngơi, có thể kết hợp với các hoạt động như chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và nhiều nhu cầu khác Bản chất của du lịch không chỉ dừng lại ở việc thư giãn mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác nhau, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Du lịch, từ góc độ nhu cầu của du khách, là sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ xuất hiện khi nền kinh tế thị trường phát triển, thu nhập bình quân đầu người tăng, và thời gian rảnh rỗi gia tăng nhờ tiến bộ khoa học - công nghệ Du lịch không chỉ là hoạt động nghỉ ngơi mà còn là trải nghiệm văn hóa, giúp con người cảm nhận giá trị vật chất và tinh thần Từ góc độ các quốc sách phát triển du lịch, cần dựa vào tài nguyên du lịch để xây dựng chiến lược phát triển, xác định các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, cùng với việc lựa chọn sản phẩm du lịch độc đáo và phát triển cơ sở hạ tầng tương ứng Cuối cùng, sản phẩm du lịch chủ yếu là các chương trình liên kết di tích lịch sử, tạo nên sự phong phú và hấp dẫn cho du khách.
Nguyễn Thành Nam, sinh viên lớp VHL 301, đang khám phá văn hóa và cảnh quan thiên nhiên nổi tiếng, cùng với các cơ sở vật chất kỹ thuật như lưu trú, ăn uống và vận chuyển.
Từ góc độ thị trường du lịch, các nhà tiếp thị du lịch chủ yếu tập trung vào việc xác định và khai thác nhu cầu của du khách để họ có thể lựa chọn và "mua chương trình du lịch" phù hợp.
Du lịch là sự tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế phát sinh từ hành trình và lưu trú tạm thời của du khách, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng với mục đích hòa bình và hữu nghị.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khách du lịch đứng ở trên các góc độ khác nhau
Khách du lịch được định nghĩa bởi Liên đoàn quốc tế các tổ chức du lịch là những người ở lại nơi tham quan ít nhất 24 giờ qua đêm vì lý do giải trí, nghỉ ngơi hoặc công việc Đến năm 1968, tổ chức này đã mở rộng định nghĩa thành “Khách du lịch là bất kỳ ai ngủ qua đêm.” Uỷ ban xem xét tài nguyên Quốc gia của Mỹ xác định du khách là người đi ra khỏi nhà ít nhất 50 dặm vì mục đích giải trí hoặc việc riêng, không tính đến việc có qua đêm hay không Tại Việt Nam, địa lý du lịch định nghĩa du khách là những người từ bên ngoài đến các điểm du lịch chủ yếu để nâng cao nhận thức về môi trường, tham gia các hoạt động thư giãn, giải trí, thể thao, văn hóa, đồng thời tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế, dịch vụ và lưu trú qua đêm tại cơ sở của ngành du lịch.
1.1.2 Doanh nghiệp kinh doanh du lịch
Kinh doanh là các hoạt động nhằm tạo ra lợi nhuận cho các chủ thể trên thị trường Theo Điều 3 của Luật Doanh nghiệp, kinh doanh được định nghĩa là việc thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quá trình đầu tư từ sản xuất.
Sinh viên: Nguyễn Thành Nam – Lớp VHL 301 đến tiêu dùng sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”
Kinh doanh du lịch là hoạt động thực hiện một hoặc nhiều công đoạn trong quy trình du lịch hoặc cung cấp dịch vụ du lịch trên thị trường với mục tiêu tạo ra lợi nhuận, theo quy định tại điều 10 mục 7 của pháp lệnh du lịch.
Doanh nghiệp du lịch là một phần quan trọng trong hệ thống kinh doanh, có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường xung quanh Mỗi doanh nghiệp đóng vai trò như một tế bào trong phân công lao động xã hội, đặc biệt là trong ngành du lịch Công ty lữ hành, một hình thức doanh nghiệp du lịch, chuyên cung cấp dịch vụ trọn gói cho khách du lịch Bên cạnh đó, công ty lữ hành còn thực hiện các hoạt động trung gian, bán sản phẩm từ các nhà cung cấp du lịch và cung cấp các dịch vụ tổng hợp khác, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu du lịch của khách hàng từ đầu đến cuối.
Thực trạng hoạt động Marketing của khách sạn Bạch Đằng
2.3.1 Chính sách sản phẩm Đối với khách sạn Bạch Đằng thì kinh doanh dịch vụ lưu trú là chủ yếu vì đây là lĩnh vực kinh doanh đón góp nhiều nhất vào doanh thu của khách sạn, bên cạnh đó là dịch vụ ăn uống và các dịch vụ khác Do đó khách sạn đã tập trung đầu tư vào dịch vụ lưu trú nhiều hơn Để nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng về dịch vụ lưu trú và nhằm tăng doanh thu cho khách sạn, trong thời gian tới Ban giám đốc cùng với bộ phận kinh doanh và các bộ phận khác sẽ cố gắng cung cấp thực hiện phục vụ làm hài lòng khách hàng trong trong thời gian lưu trú tại khách sạn bằng chất lượng phịc vụ và chất lượng dịch vụ Vì chất lượng dịch vụ và chất lượng phục vụ là yếu tố hàng đầu để thu hút khách hàng đến với khách sạn để nghỉ ngơi, thư giãn, giải trí… Tất cả các khách hàng đến với khách sạn đều mong muốn nhạn được dịch vụ có chất lượng tốt, thỏa mãn được nhu cầu của mình
Chất lượng dịch vụ lưu trú được xác định bởi nhiều yếu tố trong hệ thống cung ứng và sáng tạo dịch vụ, với quyết định cuối cùng thuộc về khách hàng Để đảm bảo sự hài lòng của khách, tất cả các bộ phận trong khách sạn cần hoạt động hiệu quả và đồng bộ, vì đây là một quy trình phục vụ liên hoàn.
Để nâng cao chất lượng phục vụ khách lưu trú và ẩm thực tại khách sạn, chúng tôi đã triển khai nhiều biện pháp quan trọng.
+ Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của nhân viên
+ Cung cấp và đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng trong phạm vi đáp ứng của khách sạn
Giá cả là yếu tố quan trọng và linh hoạt trong Marketing sản phẩm và dịch vụ, ảnh hưởng lớn đến quyết định lựa chọn của khách hàng Cùng với chất lượng, giá cả đóng vai trò cạnh tranh quyết định giúp doanh nghiệp đạt được thành công trong kinh doanh.
Khách sạn nhận thức rõ tầm quan trọng của việc thiết lập chính sách giá hợp lý, dựa trên nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá cả Điều này giúp khách sạn đưa ra mức giá phòng phù hợp nhằm thu hút đông đảo khách hàng sử dụng dịch vụ.
Loại phòng Khách Việt Nam và
Phòng Ba +100.000 +10 +10 của khách sạn và tăng cường cạnh tranh thông qua giá của khách sạn trước nhiều đối thủ cạnh tranh
Mức giá của khách sạn được xác định dựa trên sự tổng hợp của 3 yếu tố đó là:
- Chi phí cấu thành nên giá: bao gồm mọi chi phí mà khách sạn bỏ ra để có được sản phẩm(chi phí nhân công, chi phí vật liệu…)
- Giá của đối thủ cạnh tranh
Mục tiêu kinh doanh của khách sạn là xác định giá cả hợp lý dựa trên tình hình cung cầu trên thị trường, đồng thời thu hút cả khách nội địa và khách quốc tế.
Giá thuê phòng tại khách sạn Bạch Đằng cho khách nước ngoài dao động từ 35 đến 80 USD mỗi ngày, tùy thuộc vào loại phòng Đối với khách nội địa, mức giá thuê phòng nằm trong khoảng từ 330.000 đến 700.000 đồng mỗi ngày, cũng tùy thuộc vào loại phòng.
Với mức giá trên đã bao gồm thuế VAT và phí dịch vụ
Khách sạn đã áp dụng một chiến lược định giá hợp lý, phù hợp với từng nhóm thu nhập Đối với khách hàng có thu nhập cao, họ thường không mặc cả giá, trong khi đó, khách hàng có thu nhập trung bình có thể thương lượng và giảm giá tới 10%.
Các công ty lữ hành có thể hợp tác với khách sạn thông qua hợp đồng phục vụ khách, trong đó mức giá được thỏa thuận giữa hai bên sẽ thấp hơn mức giá công bố.
Khách lẻ đến khách sạn qua đơn vị trung gian sẽ áp dụng mức giá công bố, và lễ tân có thể giảm giá 10% nếu khách hàng thương lượng Nhà hàng lớn trên tầng 7 là địa điểm lý tưởng để tổ chức tiệc chiêu đãi, sinh nhật, lễ cưới và hội nghị, có khả năng phục vụ hơn 500 khách cùng lúc Từ đây, quý khách sẽ được thưởng thức các món ăn ngon và ngắm nhìn toàn cảnh vịnh Hạ Long, Cầu Bãi Cháy và thành phố Hạ Long.
Giao tiếp khuếch trương là một hoạt động thiết yếu cho doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là đối với ngành khách sạn Quảng cáo là một phương thức mới mẻ trong lĩnh vực này, nơi khách sạn sử dụng các hình thức truyền thông đại chúng như truyền thanh, truyền hình và tạp chí quốc tế, mặc dù chi phí có thể khá cao Mục tiêu chính của quảng cáo là giới thiệu sản phẩm dịch vụ lưu trú và các dịch vụ khác của khách sạn, từ đó thu hút nhiều khách hàng hơn.
Khách sạn Bạch Đằng áp dụng nhiều hình thức quảng cáo để giới thiệu thương hiệu và hình ảnh của mình, bao gồm tham gia hội nghị, hội chợ triển lãm tranh và ảnh Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn còn hạn chế về quy mô và tài chính Khách sạn cũng sử dụng tờ gấp cung cấp thông tin chi tiết về giá phòng, loại phòng và dịch vụ bổ sung, gửi đến các hãng lữ hành, hội chợ và khách hàng Bên cạnh đó, các hình thức quảng cáo khác như in catalog, ấn phẩm, phong bì thư và trang phục của nhân viên cũng được khai thác để nâng cao nhận diện thương hiệu.
Quảng cáo khách sạn mang lại nhiều ưu điểm như thông tin ngắn gọn, tính pháp lý đảm bảo, phù hợp với nguồn kinh phí và có tính nghệ thuật Tuy nhiên, nhược điểm của nó là chưa phù hợp về không gian và thời gian, cũng như chưa tập trung vào mục tiêu cụ thể.
Khách sạn Bạch Đằng hoạt động với phương châm tiết kiệm trong mọi khâu kinh doanh, dẫn đến ngân sách hạn chế cho hoạt động quảng cáo Điều này gây khó khăn trong việc triển khai chiến dịch, khiến hiệu quả quảng bá giảm và kết quả không đạt như mong đợi.
* Chính sách xúc tiến bán hàng
Hoạt động yểm trợ xúc tiến bán hàng là yếu tố quan trọng, tác động mạnh mẽ đến tâm lý người tiêu dùng Khi khách hàng tiếp nhận thông tin quảng cáo, việc thu hút sự ủng hộ từ công chúng sẽ giúp giới thiệu hiệu quả chương trình bán hàng.
Sau đây là một số chương trình khuyến mãi đã thực hiện tại khách sạn Bạch Đằng:
- Đối với khách ngủ dài ngày từ 2 tuần trở lên giảm 5% so với giá bán và được một phiếu ăn tối miễn phí
- Nếu khách đi với số lượng trên 15 phòng thì phòng thứ 16 được miễn giá phòng
- Nếu khách quen đặc biệt hoặc khách đến khách sạn trên 2 lần được giảm giá các dịch vụ từ 5-10% so với giá bán
Một số yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động Marketing của khách sạn
Kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là khách sạn, tập trung vào việc cung cấp dịch vụ lưu trú và ẩm thực cho khách hàng Sản phẩm chính của khách sạn bao gồm các dịch vụ này, nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ ngơi và ăn uống của du khách.
Kinh doanh dịch vụ lưu trú là lĩnh vực trọng tâm, đóng góp chính vào doanh thu của khách sạn Bạch Đằng Khách sạn không ngừng mở rộng các loại hình kinh doanh khác nhằm hỗ trợ sự phát triển của dịch vụ lưu trú và tối đa hóa lợi nhuận Các dịch vụ đa dạng được cung cấp bao gồm lưu trú, ăn uống, cho thuê tàu tham quan Vịnh, cho thuê ô tô và dịch vụ giải trí Khách sạn cung cấp 4 loại phòng tiêu chuẩn quốc tế: Superior, Deluxe, Triple family và phòng Vip, với trang thiết bị đảm bảo tiêu chuẩn 3 sao.
- Trong các phòng nghỉ đều được trang bị hệ thống truyền hình kỹ thuật số, đường truyền internet, két an toàn
Chúng tôi cung cấp các trang thiết bị chất lượng cao được nhập khẩu từ Nhật Bản, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác ở Châu Á, bao gồm tủ lạnh, tivi, điều hòa, máy nước nóng, thảm, chăn ga, gối đệm và bồn tắm.
Dịch vụ ăn uống tại đây nổi bật với thực đơn phong phú và đa dạng món ăn, được chế biến bởi đội ngũ nhân viên bếp giàu kinh nghiệm, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của thực khách.
Thị trường khách hàng chính của các khách sạn hiện nay chủ yếu tập trung vào khu vực Châu Á, bao gồm các quốc gia như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Nhật Bản Bên cạnh đó, khách hàng từ Châu Âu, đặc biệt là từ Pháp, Mỹ và Anh, cũng đóng góp vào lượng khách đáng kể Ngoài ra, khách Việt Kiều và khách nội địa cũng là những đối tượng quan trọng không thể bỏ qua.
- Khách hàng mục tiêu của khách sạn Bạch Đằng
Khách sạn Bạch Đằng chủ yếu phục vụ khách hàng nước ngoài và những người có thu nhập khá, có địa vị cao trong xã hội, khác với các khách sạn cao cấp như Sài Gòn Hạ Long, Plaza, và Heritage, vốn hướng đến khách hàng có thu nhập và vị thế cao hơn, bao gồm cả nguyên thủ quốc gia và bộ trưởng Khách hàng của Bạch Đằng thường lựa chọn các loại phòng với mức giá tương đối cao.
Khách hàng của khách sạn đa dạng về tầng lớp xã hội, độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính và tôn giáo, đến từ nhiều quốc gia khác nhau Họ thường đi du lịch vào thời gian rảnh rỗi với mục đích giải trí hoặc tìm kiếm cơ hội làm ăn Nhu cầu du lịch lưu trú của nhóm khách hàng này đang tăng lên hàng năm, và xu hướng trong tương lai cho thấy sẽ có nhiều khách hàng hơn lựa chọn dịch vụ của khách sạn Các yếu tố như giá cả, phong cách phục vụ và chất lượng phòng sẽ ảnh hưởng lớn đến sự lựa chọn của họ.
Khách hàng Châu Âu, đặc biệt từ các quốc gia như Pháp, Mỹ, Anh, Đức và Thụy Điển, chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số khách hàng của khách sạn Họ thường đến theo đoàn đông và chủ yếu sử dụng dịch vụ lưu trú với nhiều mục đích như tham quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, cũng như nghiên cứu văn hóa và lịch sử Trong thời gian lưu trú, họ thường tận dụng đầy đủ các dịch vụ của khách sạn và ít khi rời khỏi nơi ở trừ khi cần thiết.
Khách sạn Bạch Đằng thu hút một lượng lớn khách hàng từ các quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Malaysia, Singapore và Trung Quốc, với số lượng ngày càng tăng Đối tượng khách chủ yếu là những người đi công tác, tham gia hội họp, khám chữa bệnh hoặc du lịch, thường lưu trú từ 1 đến 2 ngày Họ thường là những khách hàng trung tuổi, có công việc ổn định và thu nhập khá, đồng thời thường xuyên sử dụng các dịch vụ như massage và tắm hơi tại khách sạn.
2.4.3 Nhân sự Đối với bất kỳ loại hình kinhh doanh nào, yếu tố con người luôn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng Con người chính là nhân tố quyết định mọi sự thành bại của hoạt động kinh doanh Du lịch là một trong những ngành kinh tế tổng hợp vì thế nhân tố con người lại đặc biệt quan trọng hơn
1 Tổng số lao động (Người) 95
2 Cơ cấu lao động đã qua đào tạo
Tổng số lao động đã qua đào tạo
Số có trình độ cao đẳng trở lên
Số có trình độ trung học chuyên nghiệp
Số có trình độ sơ cấp
3 Cơ cấu lao động theo nghề (Người)
Tổ kỹ thuật – điện nước 05
Phòng tài chính kế toán 06
Khi cần tăng cường nhân viên phục vụ, khách sạn thường thuê lao động ngoài, chủ yếu là các học viên từ trường trung cấp Du lịch.
Cơ cấu lao động tại khách sạn được tổ chức hợp lý với phần lớn nhân viên đã qua đào tạo, đảm bảo khả năng đáp ứng nhu cầu công việc Hàng năm, khách sạn tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên, góp phần tăng cường hiệu quả kinh doanh.
2.4.4 Đặc điểm về công nghệ
Ngày nay, công nghệ sản xuất đóng vai trò quan trọng trong quy trình sản xuất Việc cải tiến dây chuyền sản xuất trong các doanh nghiệp được khuyến khích, nhưng cần phải phù hợp với quy mô và tính đồng bộ của từng doanh nghiệp.
Nhờ vào những thiết bị khoa học tiên tiến, người lao động được giải phóng sức lao động, từ đó năng suất tăng lên nhiều lần trong cùng một đơn vị thời gian, dẫn đến hiệu quả cao hơn Bên cạnh đó, trang thiết bị kỹ thuật không chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng với sản phẩm chất lượng, mẫu mã đẹp và đa dạng, mà còn đảm bảo an toàn cho sức khỏe và thỏa mãn các nhóm khách hàng có yêu cầu đặc biệt.
2.4.5 Tổ chức bộ máy khách sạn
Khách sạn Bạch Đằng Hạ Long hiện đang áp dụng chế độ quản lý với Giám đốc khách sạn có toàn quyền quyết định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời phải tuân thủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và công ty Ngoài Giám đốc, khách sạn còn có Phó Giám đốc hỗ trợ, cùng với các phòng ban chuyên môn và tổ lao động trực tiếp để đảm bảo hiệu quả quản lý và hoạt động.