1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn tìm hiểu các giá trị văn hóa của cụm di tích thờ các vua trần ở huyện đông triều quảng ninh

116 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Tìm Hiểu Các Giá Trị Văn Hóa Của Cụm Di Tích Thờ Các Vua Trần Ở Huyện Đông Triều - Quảng Ninh
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Văn Hóa Du Lịch
Thể loại Luận Văn
Thành phố Quảng Ninh
Định dạng
Số trang 116
Dung lượng 1,43 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: Cơ sở lý luận Chung của đề tài (1)
    • 1.1. Khái niệm du lịch (1)
    • 1.2. Khỏi niệm văn hoá (3)
    • 1.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá (5)
      • 1.3.1. Tác động của du lịch tới văn hoá (5)
        • 1.3.1.1. Tác động tích cực (5)
        • 1.3.1.2. Tác động tiêu cực (6)
      • 1.3.2. Vai trò của văn hoá tới du lịch (8)
    • 1.4. Loại hình du lịch văn hóa (11)
      • 1.4.1. Di tích lịch sử văn hóa (11)
        • 1.4.1.1. Chùa (13)
      • 1.4.2. Lễ hội (0)
        • 1.4.2.1. Nội dung (15)
        • 1.4.1.2. Không gian lễ hội (15)
        • 1.4.1.3. Thêi gian lÔ héi (19)
        • 1.4.1.4. Du lịch lễ hội (20)
    • 2.1. Giới thiệu khái quát về huyện Đông Triều – Quảng Ninh (24)
      • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên (24)
        • 2.1.1.1. lịch sử và tên gọi (24)
        • 2.1.1.2. Vị trí địa lí (25)
        • 2.1.1.3. KhÝ hËu (26)
        • 2.1.1.4. Địa hình (26)
        • 2.1.1.5. Thuû v¨n (27)
      • 2.1.2. Dân c- kinh tế xã hội (27)
        • 2.1.2.1. Đại c-ơng về chính trị xã hội (27)
        • 2.1.2.2. D©n c- (28)
        • 2.1.2.3. Kinh tế xã hội (28)
        • 2.1.2.4. Đông Triều qua các nền văn hoá cổ của dân tộc (33)
      • 2.1.3. Tài nguyên du lịch nhân văn (35)
    • 2.2. Giá trị văn hoá của cụm di tích thờ vua Trần ở huyện Đông Triều - Quảng Ninh (36)
      • 2.2.1 Chùa Quỳnh Lâm (36)
        • 2.2.1.1. Quá trình xây dựng và tôn tạo (36)
        • 2.2.1.2. Giá trị kiến trúc (43)
        • 2.2.1.3. Đôi nét về Trúc Lâm Tam Tổ (50)
      • 2.2.2 Chùa Hồ Thiên (52)
      • 2.2.3. Khu Đền An Sinh (55)
        • 2.2.3.1 Lịch sử xây dựng và quá trình tôn tạo (0)
        • 2.2.3.2. Giá trị văn hóa của khu đền An Sinh (56)
        • 2.2.3.3. LÔ héi (57)
      • 2.2.4. Khu L¨ng mé vua TrÇn (58)
        • 2.2.4.1. Hệ thống lăng mộ các vua Trần (0)
      • 2.2.5. Am Ngoạ Vân (70)
      • 2.2.6. Đền Thái (74)
    • 3.1 Thực trạng bảo tồn và phát triển của cụm di tích (76)
    • 3.2. Hiện trạng hoạt động du lịch văn hóa ở Đông Triều – Quảng Ninh (79)
      • 3.2.1. Chính sách phát triển du lịch (79)
      • 3.2.2. Hiện trạng khách du lịch (80)
      • 3.2.3. Hiện trạng quản lý và tổ chức đội ngũ lao động du lịch (80)
      • 3.2.4. Hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho du lịch (81)
      • 3.2.5. Ý thức của người dân địa phương (82)
      • 3.2.6. Vấn đề môi trường (82)
    • 3.3. Một số giải pháp bảo tồn các giá trị văn hoá tại cụm di tích thờ vua trần ở huyện đông triều – quảng ninh (82)
      • 3.3.1. Xây dựng quy hạch tổng thể và chi tiết tài nguyên du lịch nhân văn, (83)
      • 3.3.2. Tổ chức quản lý và đào tạo nguồn nhân lực (84)
      • 3.3.3. Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch (85)
      • 3.3.4. Bảo tồn và tôn tạo cụm di tích (86)
      • 3.3.5. Thu hút vốn đầu tư (87)
      • 3.3.6. Thu hút cộng đồng địa phương tham gia (88)
      • 3.3.7. Trùng tu và tôn tạo cum di tích gắn với việc xây dựng và phát triển loại hình du lịch thiền (89)

Nội dung

Cơ sở lý luận Chung của đề tài

Khái niệm du lịch

Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu thiết yếu trong đời sống văn hóa xã hội toàn cầu, với sự đầu tư và phát triển mạnh mẽ trong cả du lịch nội địa và quốc tế Du lịch không chỉ mang lại cơ hội nghỉ ngơi và giải trí mà còn đáp ứng nhu cầu tinh thần to lớn, góp phần mở rộng hiểu biết và mối quan hệ giữa các dân tộc Mặc dù con người ngày càng đi du lịch với nhiều mục đích khác nhau, nhưng để hiểu rõ du lịch là gì, cần có sự trải nghiệm và quá trình tìm hiểu sâu sắc.

Thuật ngữ "du lịch" trong nhiều ngôn ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, mang nghĩa là "Đi một vòng" Qua thời gian, thuật ngữ này đã được la tinh hóa, phản ánh sự phát triển của ngành du lịch trên toàn cầu.

“tornes” và sau đó thành “tourisme”(tiếng pháp), tourism(tiếng anh) Trong tiếng việt thuật ngữ tourism được dịch thông qua tiếng hán

Do sự khác biệt về hoàn cảnh xã hội, kinh tế và vị trí địa lý, các chuyên gia du lịch có những quan điểm đa dạng trong nghiên cứu của họ.

“Đối với du lịch có bao nhiêu tác giả nghiên cứu thì có bấy nhiêu định nghĩa”(viện nghiên cứu phát triển du lịch Hà Nội 1990)

Theo luật du lịch của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005 thì giả thích

Du lịch là hoạt động di chuyển của con người ra khỏi nơi cư trú thường xuyên để tham quan, tìm hiểu, giải trí và nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

Tổ chức du lịch thế giới WTO đưa ra khái niệm về du lich vào năm

Du lịch được định nghĩa là sự tổng hòa của các mối quan hệ, hiện tượng và hoạt động kinh tế, bắt nguồn từ những cuộc hành trình và lưu trú của con người tại các địa điểm khác với nơi cư trú thường xuyên của họ, nhằm mục đích chữa bệnh.

Mang l■i tr■ nghi■m m■i m■ cho ng■■i dùng, công ngh■ hi■n th■ hi■n ■■i, b■n online không khác gì so v■i b■n g■c B■n có th■ phóng to, thu nh■ tùy ý.

Theo các nhà kinh tế và văn hóa học, du lịch không chỉ đơn thuần là một hiện tượng xã hội mà còn liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh tế Tuy nhiên, mỗi học giả lại có những quan điểm khác nhau về mối liên hệ này.

Theo PGS Trần Nam, du lịch là hoạt động của con người khi rời quê hương để khám phá những giá trị vật chất và tinh thần độc đáo, khác lạ Mục đích chính của du lịch không phải là kiếm lợi nhuận, mà là trải nghiệm và thẩm nhận những điều mới mẻ.

Du lịch được định nghĩa là hình thức di chuyển tạm thời giữa các vùng miền hoặc quốc gia mà không kèm theo việc thay đổi chỗ ở hay nơi làm việc.

Theo Pirogiomic, năm 1987 ông đưa ra khái niệm về du lịch như sau

Du lịch là hoạt động giải trí của con người trong thời gian rảnh, bao gồm việc di chuyển và lưu trú ngoài nơi cư trú thường xuyên Mục đích của du lịch là để nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, cũng như nâng cao hiểu biết về văn hóa và thể thao, đồng thời trải nghiệm giá trị tự nhiên, kinh tế và văn hóa.

Theo Kun, một yếu tố quan trọng trong định nghĩa về du lịch là việc đến địa điểm du lịch bằng phương tiện giao thông và sử dụng các dịch vụ của ngành du lịch.

Du lịch được định nghĩa là tổng hợp các mối quan hệ và hiện tượng diễn ra trong quá trình di chuyển và lưu trú của con người tại những địa điểm không phải là nơi làm việc thường xuyên của họ.

Nhà kinh tế học Kolfiotis định nghĩa rằng du lịch là hành trình tạm thời của cá nhân từ nơi ở đến địa điểm khác để đáp ứng nhu cầu tinh thần và đạo đức.

Do đó tạo nên các hoạt đông kinh tế

Du lịch là khái niệm đa chiều, bao gồm cả việc di chuyển với mục đích nghỉ ngơi và giải trí, đồng thời là một lĩnh vực liên quan đến nhiều yếu tố quan trọng như khách du lịch, phương tiện giao thông và địa điểm tiếp đón.

Khỏi niệm văn hoá

Văn hóa là sản phẩm sáng tạo của con người từ thuở sơ khai của xã hội Ở phương Đông, khái niệm văn hóa được hiểu qua thuật ngữ “Văn trị, giáo hóa”, thể hiện cách cai trị kết hợp với giáo dục, trong đó “văn” biểu thị vẻ đẹp bên ngoài và hệ thống quy tắc ứng xử Trong khi đó, ở phương Tây, văn hóa có nguồn gốc từ hai nghĩa trong phiên âm Latin, phản ánh sự đa dạng và sâu sắc của các giá trị văn minh.

- Cultus: trồng trọt ở ngoài đồng

- Cultusanimi: trồng trọt tinh thần, nghĩa là giáo dục con người

Con người chỉ có thể phát triển văn hóa thông qua giáo dục, dù là vô thức hay có ý thức Văn hóa không phải là điều tự nhiên mà có; nó cần được hình thành và bồi dưỡng Giáo dục không chỉ nuôi dưỡng thể chất mà còn nâng cao tinh thần, giúp con người hình thành những phẩm chất tốt đẹp.

Việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa là một quá trình phức tạp và có sự thay đổi theo thời gian Thuật ngữ "văn hóa" đã được hiểu theo nghĩa "canh tác tinh thần" trong các thế kỷ XVII - XVIII, bên cạnh nghĩa gốc liên quan đến quản lý canh tác nông nghiệp.

Vào thế kỉ XIX, các nhà nhân loại học phương Tây đã sử dụng thuật ngữ "văn hóa" như một danh từ chính, cho rằng văn hóa có thể phân loại từ thấp đến cao, với văn hóa của họ ở vị trí cao nhất EB.Taylor định nghĩa văn hóa là tổng thể những phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và các khả năng khác mà con người có được trong xã hội Đến thế kỉ XX, F.Boa đã thay đổi khái niệm văn hóa, nhấn mạnh rằng ý nghĩa văn hóa phụ thuộc vào khung giải thích riêng, không phải chỉ dựa trên tiêu chuẩn trí lực Điều này dẫn đến quan điểm "Tương đối luận của văn hóa", cho rằng văn hóa không nên được đánh giá theo mức độ thấp cao mà theo sự khác biệt.

A.L.kroeber và C.L.Kluckhohn Quan niệm văn hóa là loại hành vi rõ ràng và ám thị đã được đúc kết và truyền lại bằng biểu tượng, và nó là thành quả độc đáo của nhân loại khác với loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra

Văn hóa không chỉ là phong tục, tôn giáo hay kỹ thuật sản xuất mà là dấu ấn của một cộng đồng trên mọi hiện tượng tinh thần và vật chất Tại Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng văn hóa bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và các công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày Tất cả những sáng tạo và phát minh này chính là văn hóa.

Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng nhấn mạnh rằng văn hóa là một lĩnh vực phong phú và rộng lớn, bao gồm mọi khía cạnh không phải thiên nhiên liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại và phát triển Ông khẳng định rằng cốt lõi sức sống dân tộc chính là văn hóa, với hệ thống giá trị đa dạng bao gồm tư tưởng, tình cảm, đạo đức, phẩm chất, trí tuệ, tài năng, cùng với khả năng nhạy cảm và tiếp thu cái mới Văn hóa cũng thể hiện ý thức bảo vệ tài sản, bản lĩnh cộng đồng, sức đề kháng và khả năng chiến đấu để bảo vệ bản thân và không ngừng phát triển.

Theo PGSTSKH Trần Ngọc Thêm, văn hóa là hệ thống hữu cơ bao gồm giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua hoạt động thực tiễn, phản ánh sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội Định nghĩa này nhấn mạnh bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân sinh Trong nhiều cách hiểu về văn hóa, có thể phân loại thành hai loại chính: văn hóa theo nghĩa rộng, bao gồm lối sống, lối suy nghĩ và ứng xử, và văn hóa theo nghĩa hẹp, liên quan đến văn học, nghệ thuật và học vấn, với các định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể Từ góc độ tự nhiên, văn hóa có thể được hiểu là “cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.”

“tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hoá”

Trong Tuyên bố về những chính sách văn hóa, UNESCO cho rằng

Văn hóa hiện nay được hiểu là tổng thể các yếu tố tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, định hình tính cách của một xã hội hoặc nhóm người Nó bao gồm nghệ thuật, văn chương, lối sống, quyền cơ bản của con người, hệ thống giá trị, tập tục và tín ngưỡng Văn hóa cho phép con người tự suy xét về bản thân, giúp họ trở thành những sinh vật nhân bản với lý tính, khả năng phê phán và đạo đức Nhờ văn hóa, con người nhận thức được bản thân như một dự án chưa hoàn thiện, từ đó khám phá những ý nghĩa mới và sáng tạo ra những thành tựu vượt trội.

Văn hóa không phải là một lĩnh vực tách biệt mà là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo Nó đóng vai trò quan trọng như một chìa khóa cho sự phát triển.

Mối quan hệ giữa du lịch và văn hoá

1.3.1 Tác động của du lịch tới văn hoá

Du lịch không chỉ là một hoạt động giải trí mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng Du khách luôn mong muốn tham gia vào các hoạt động văn hóa địa phương, tạo ra sự tiếp xúc giữa các cá nhân và cộng đồng Quá trình giao tiếp này giúp các giá trị văn hóa mới được lan tỏa nhanh chóng, góp phần hình thành một nền văn hóa đa dạng và giàu bản sắc Khi du lịch, mọi người có cơ hội gần gũi nhau hơn, thể hiện những đức tính tốt như sự chân thành và tinh thần giúp đỡ, từ đó tăng cường tình đoàn kết cộng đồng Những chuyến tham quan di tích lịch sử và công trình văn hóa không chỉ mang lại trải nghiệm thú vị mà còn giáo dục tinh thần yêu nước và khơi dậy lòng tự hào dân tộc Qua việc tiếp xúc trực tiếp và lắng nghe sự giải thích từ hướng dẫn viên, du khách sẽ nhận ra giá trị to lớn của các di tích văn hóa, từ đó nâng cao nhận thức và trân trọng hơn những gì họ đang có.

Du lịch không chỉ mang lại trải nghiệm mới mẻ mà còn góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển truyền thống văn hóa dân tộc Nhu cầu nâng cao nhận thức văn hóa của du khách đã thúc đẩy các nhà cung cấp chú trọng hơn đến việc khôi phục và phát triển các di tích, lễ hội, cũng như sản phẩm làng nghề, từ đó bảo tồn giá trị văn hóa đặc sắc của địa phương.

Du lịch không chỉ quảng bá hình ảnh và giá trị văn hóa truyền thống ra thế giới, mà còn tạo ra sự kết nối vô hình giữa các nền văn hóa khác nhau.

Du lịch không chỉ làm cho cuộc sống cộng đồng trở nên sôi động hơn mà còn tạo cơ hội cho các nền văn hóa giao thoa, từ đó làm phong phú đời sống tinh thần của con người.

Hoạt động du lịch chủ yếu là sự giao tiếp giữa các cá nhân và cộng đồng với những quan điểm khác nhau Tuy nhiên, quá trình này cũng tạo điều kiện cho những ảnh hưởng tiêu cực như mại dâm, nghiện hút và cờ bạc xâm nhập vào xã hội một cách nhanh chóng.

Du khách thường mong muốn trải nghiệm văn hóa địa phương khi du lịch, nhưng nhiều khi sự thâm nhập này bị lạm dụng, dẫn đến xâm hại văn hóa Chợ tình SaPa, một nét văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc, đang bị những du khách thiếu hiểu biết xâm phạm bằng những hành động thô bạo như chiếu đèn vào cặp tình nhân hay trêu ghẹo các thanh nữ Để đáp ứng nhu cầu của du khách và vì lợi ích kinh tế, các hoạt động văn hóa truyền thống thường được trình diễn một cách thiếu tự nhiên, trở thành trò tiêu khiển Điều này dẫn đến việc nhiều người hiểu sai về nguồn gốc và ý nghĩa của các lễ hội, làm cho giá trị truyền thống dần bị lu mờ.

Việc chạy theo số lượng đã dẫn đến nhiều mặt hàng truyền thống bị chế tác lại để phục vụ du khách, gây ra tình trạng sản xuất cẩu thả Điều này không chỉ làm méo mó giá trị thực sự của truyền thống mà còn làm sai lệch hình ảnh của nền văn hóa bản địa.

Một xu hướng phổ biến ở các nước nghèo khi đón khách từ các nước giàu là người dân bản xứ, đặc biệt là giới trẻ, ngày càng từ bỏ truyền thống và thay đổi lối sống theo xu hướng của du khách Sự khác biệt trong nhận thức về đạo đức khiến một số du khách không nhận ra rằng hành động, cử chỉ và cách ăn mặc của họ có thể không phù hợp với văn hóa truyền thống của cộng đồng địa phương.

Sự xuất hiện đông đảo của du khách tại địa phương đã tác động tiêu cực đến tâm lý của người dân, khiến nhiều người cảm thấy khó chịu trước những hành vi và cách thể hiện tình cảm khác lạ của khách du lịch.

Việc khai thác quá mức các giá trị văn hóa đang dẫn đến sự xuống cấp nghiêm trọng của các di tích, đồng thời đe dọa sự tồn tại của chúng trong bối cảnh văn hóa xã hội hiện đại.

Hoạt động du lịch có thể làm biến dạng các lễ hội truyền thống do tính chất mở nhưng vẫn bị giới hạn bởi điều kiện kinh tế và văn hóa xã hội Những lễ hội này thường phù hợp với khuôn mẫu và không gian địa phương, trong khi du lịch lại mang tính liên ngành và xã hội hóa cao, dễ dẫn đến mất cân bằng và phá vỡ các giá trị truyền thống của địa phương trong quá trình diễn ra lễ hội.

Hiện tượng thương mại hóa và các hoạt động lừa đảo đang gây lo lắng cho du khách, dẫn đến việc giảm lượng khách tham gia lễ hội trong tương lai Sự gia tăng số lượng du khách kéo theo nhu cầu đa dạng, tạo ra mất cân đối trong quan hệ cung cầu, dễ gây ô nhiễm môi trường sinh thái tự nhiên và nhân văn Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa vùng miền cũng đang đứng trước nguy cơ bị mờ nhạt do sự giao thoa văn hóa không lành mạnh từ một bộ phận du khách.

Ngành du lịch cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong việc phát triển bền vững và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống Để thúc đẩy mối quan hệ tốt đẹp và ứng xử thân thiện với môi trường văn hóa, người làm du lịch phải cam kết khai thác các giá trị văn hóa gắn liền với việc trùng tu và tôn tạo di sản.

1.3.2 Vai trò của văn hoá tới du lịch

Các đối tượng văn hóa được xem là tài nguyên du lịch hấp dẫn, thu hút du khách nhờ sự phong phú, đa dạng và tính truyền thống Tài nguyên du lịch nhân văn không chỉ tạo ra các loại hình du lịch văn hóa phong phú mà còn ảnh hưởng đến động cơ du lịch của khách Do đó, từ góc độ thị trường, văn hóa vừa là yếu tố cung cấp vừa hình thành cầu trong hệ thống du lịch.

Tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên du lịch nhân văn, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển ngành du lịch Sự phong phú và đặc sắc của tài nguyên này không chỉ tăng cường sức hấp dẫn mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch Nếu thiếu tài nguyên du lịch, đặc biệt là tài nguyên nhân văn, sự phát triển du lịch sẽ gặp nhiều khó khăn Tài nguyên du lịch nhân văn là nền tảng để hình thành các sản phẩm du lịch, mang đến sự đa dạng và phong phú cho trải nghiệm của du khách Các sản phẩm văn hóa như tranh vẽ, điêu khắc, và nón bài thơ không chỉ là biểu tượng của địa phương mà còn là món quà lưu niệm được du khách ưa chuộng khi đến thăm các vùng như Huế.

Loại hình du lịch văn hóa

Du lịch Văn hóa là hình thức khám phá di tích lịch sử, phong tục tập quán, lễ hội và truyền thống của một địa phương, khu vực Những hoạt động này không chỉ mang lại trải nghiệm phong phú mà còn góp phần giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho các thế hệ Các yếu tố cấu thành du lịch Văn hóa bao gồm sự đa dạng của di sản văn hóa và sự tham gia của cộng đồng địa phương.

1.4.1 Di tích lịch sử văn hóa

Di tích lịch sử văn hóa là tài sản quý giá của mỗi địa phương, dân tộc và đất nước, đồng thời là di sản chung của nhân loại Chúng là minh chứng cụ thể cho đặc điểm văn hóa của mỗi quốc gia, lưu giữ những truyền thống tốt đẹp, trí tuệ và giá trị nghệ thuật Những di tích này phản ánh bộ mặt quá khứ của mỗi dân tộc, trở thành biểu tượng rực rỡ trong kho tàng văn hóa dân tộc và nhân loại.

Giá trị đặc biệt của di tích thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, mỗi khía cạnh như những mảng màu giúp du khách tạo ra một tổng hòa trong không gian du lịch địa phương, vùng lãnh thổ, và quốc gia Mặc dù mỗi di tích mang tính độc lập về giá trị, nhưng chúng lại có khả năng kết nối mạnh mẽ khi được lắp ghép vào các tour du lịch và chương trình chuyên đề.

Mỗi di tích như thành quách, Lang tẩm, đền chà miếu mạo đều là những minh chứng sống động cho những giai đoạn lịch sử đã qua.

Di tích lịch sử văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, lưu giữ các giá trị lịch sử tiêu biểu Chúng được hình thành từ hoạt động sáng tạo của tập thể hoặc cá nhân trong quá trình phát triển của dân tộc.

Di tích lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối quá khứ, hiện tại và tương lai Giá trị của những di tích này là nền tảng vững chắc, giúp các thế hệ sau tự tin hội nhập và phát triển.

Di tích lịch sử - văn hóa càng có tuổi đời lâu năm thì giá trị của nó càng cao Khi khách du lịch tham quan các công trình này, họ sẽ được trải nghiệm tài nghệ của tổ tiên thông qua những kiến trúc độc đáo và đặc sắc Nếu kiến trúc được xem như khung ngoài của nghệ thuật, thì tài nghệ, kỹ năng và kỹ xảo được thể hiện một cách tinh tế và rực rỡ trong những tác phẩm điêu khắc độc nhất vô nhị.

Theo quan niệm của UNESCO có 2 loại di sản văn hóa:

Một là, những di sản văn hóa hữu thể (Tangible) như đình đền chùa miếu, lăng mộ, nhà sàn v.v

Di sản văn hóa vô hình (Intangible) bao gồm các biểu hiện tượng trưng và những yếu tố "không sờ thấy được" của văn hóa, được lưu truyền và biến đổi qua thời gian Những di sản này thường trải qua các quá trình tái tạo và "trùng tu" của cộng đồng Theo UNESCO, di sản văn hóa vô hình bao gồm âm nhạc, múa, truyền thống và văn chương truyền miệng, phản ánh sự phong phú và đa dạng của văn hóa nhân loại.

Cái hữu thể và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau như thân xác và tâm trí con người

Theo luật di sản Viêt Nam, một di tích lịch sử văn hóa (DTLS, VH) muốn xếp hạng phải có nhưng tiêu chuẩn sau:

Địa điểm cần gắn liền với lịch sử, như các trận đánh chiến lược, vị trí văn hóa hoặc trung tâm tôn giáo, có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng của dân tộc.

DTLS và VH đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực nghệ thuật, đặc biệt là trong kiến trúc và các tác phẩm điêu khắc của các đồ thờ, nổi bật nhất là hình thức chạm khắc trên các di tích.

DTLS, VH phải là di tích cách mạng, nghĩa là nó gắn với cách mạng, kháng chiến hoặc gắn với một nhân vật lịch sử có tên tuổi

Di tích lịch sử văn hóa là những công trình kiến trúc được xây dựng phù hợp với phong tục, tập quán, địa hình và khí hậu của địa phương, phản ánh ý chí của người chủ công trình Mặc dù không có công thức chung cho tất cả các di tích, nhưng chúng vẫn có những đặc điểm chung quan trọng.

Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên, dẫn đến sự phát triển của các ngôi chùa trên khắp đất nước, đến nỗi mỗi làng đều có ít nhất một ngôi chùa.

Chùa không chỉ là nơi tu hành của các nhà sư và tín đồ Phật giáo, mà còn là trung tâm văn hóa của làng xóm qua nhiều thế hệ Vào những ngày lễ, nhiều chùa thu hút đông đảo khách thập phương tham dự, thể hiện vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng Câu nói “Đất Vua, Chùa làng” nhấn mạnh vị trí của chùa trong cấu trúc xã hội và văn hóa Việt Nam suốt 4000 năm lịch sử Tìm hiểu về các ngôi chùa không chỉ giúp hiểu biết về Phật giáo Việt Nam, mà còn mở ra cái nhìn sâu sắc về tâm thức và văn hóa dân tộc.

Chùa là công trình kiến trúc thờ Phật, không có kiểu mẫu chung cho hàng ngàn ngôi chùa trên toàn quốc Mỗi thời đại và địa phương có phong cách kiến trúc riêng, phù hợp với điều kiện địa lý và văn hóa địa phương Chùa Việt thường gần gũi với dân cư, phản ánh tư duy nông nghiệp và là trung tâm văn hóa của làng Thần linh trong chùa cũng gần gũi với đời sống, không phải là những đấng cao vời vợi Kiến trúc chùa thường dàn trải theo mặt bằng với nhiều đơn nguyên, xuất phát từ kinh tế nông nghiệp Chùa thường được xây dựng ở những mảnh đất có khí thiêng, với đặc điểm như đất cao tươi tốt và có dòng nước hoặc hồ ao Mặt chùa thường quay về hướng Nam, hướng bát nhã, thể hiện tri thức và sự hiểu biết trong đạo Phật.

Tam Quan là cổng chùa, mang ý nghĩa sâu sắc về phật đạo Thông thường, cửa chùa có ba lối vào, thể hiện kiến trúc độc đáo, có thể là một tòa nhà ba gian hai chái hoặc một gác chuông vuông hai tầng tám mái.

Giới thiệu khái quát về huyện Đông Triều – Quảng Ninh

2.1.1.1.lịch sử và tên gọi Đông Triều là vựng đất ghi đậm nhiều dấu ấn lịch sử và văn hoỏ Đõy là vựng đất cổ, X-a d-ới thời n-ớc ta gọi là Văn Lang, miền Đông Triều thuộc bộ D-ơng Tuyền (có sách chép là Thang Tuyền), sau đó thuộc huyện Khúc D-ơng thuộc chõu Giao trong suốt thời kỳ Bắc thuộc, thời Ngụ Đinh - Tiền Lờ thuộc lộ Nam Sỏch Giang, Thời Lý, Đông Triều thuộc lộ Hải D-ơng, thời Trần thuộc phủ Tõn Hưng, Thời Lê Thuận Thiên, Đông Triều thuộc Đông Đạo, thời Lê Quang Thuận thuộc thừa tuyên Hải D-ơng, thời Lê Cảnh H-ng thuộc đạo Đông Triều, thời Tây Sơn thuộc phủ Kinh Môn, Hải D-ơng Do ở cửa ngõ ra Đông Bắc nên thời Trần huyện Đông Triều là trung tâm của châu Đông Triều Thời Pháp thống trị, toàn quyền Pháp đã cho lập Đạo Đông Triều (10-11-1890) sau đó lại đưa Đông Triều vào khu quân sự Phả Lại (24-8- 1891)rồi lại đưa về tỉnh Hải Dương (10-10-1895)

Trong Đông Triều huyện chí, ghi nhận rằng Nhà Tần đã đặt Tượng quận ở phía nam Quế Lâm, và Đông Triều là vùng đất của Tượng quận Thời kỳ 12 sứ quân, Trần Thái Tông phong cho anh là Hiền Hoàng làm Yên Sinh Vương Tổ tiên họ Trần từ vùng Mân, Chiết đã di cư đến nước Nam, sinh sống tại Yên Sinh và theo nghề đánh cá trước khi chuyển về xã Tức Mạc, Mỹ Lộc Các vua nhà Trần sau khi mất đều được mai táng tại xã Yên Sinh, tổng Mễ Sơn Vua Trần Dụ Tông đã đổi tên Yên Sinh thành Đông Triều, đánh dấu sự ra đời của tên gọi này Theo Đại Việt sử toàn thư, vào năm 1237, Trần Thái Tông đã lấy đất các xã Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Trần Liễu, phong làm Yên Sinh vương ở Đông Triều, trong khi Yên Bang sau này trở thành huyện Yên.

H-ng, tỉnh Hải D-ơng Nh- vậy Đông Triều là một miền đất cổ, hàng nghìn năm tr-ớc đây có tên là Yên Sinh Đời vua Trần Dự Tông đ-ợc đổi thành Đông Triều X-a huyện Đông Triều rất rộng, bao gồm cả một phần huyện Kinh Môn và tổng Bí Giàng, năm

1896 tổng Bí Giàng cắt về huyện Yên H-ng Do vậy, trong sử sách vùng danh sơn Yên Tử thuộc Đông Triều

Huyện Đông Triều, nằm ở cửa ngõ ra Đông Bắc, từng là trung tâm của châu Đông Triều trong thời kỳ Trần Dưới thời Pháp thuộc, vào ngày 10 tháng 11 năm 1890, toàn quyền Pháp đã thành lập Đạo Đông Triều Sau đó, vào ngày 24 tháng 8 năm 1891, Đông Triều được đưa vào khu quân sự Phả Lại, và cuối cùng, vào ngày 10 tháng 10 năm 1895, huyện này lại được chuyển về tỉnh Hải Dương.

Sau Cách mạng, vào ngày 9 tháng 7 năm 1947, Đông Triều được chuyển về tỉnh Quảng Hồng Đến ngày 28 tháng 1 năm 1959, Đông Triều quay trở lại Hải Dương Từ ngày 27 tháng 10 năm 1961, Đông Triều được nhập lại vào khu Hồng Quảng, và từ ngày 30 tháng 10 năm 1963, Hồng Quảng đã hợp nhất với Hải Ninh để trở thành tỉnh Quảng Ninh.

2.1.1.2 Vị trí địa lí Đông Triều là một trong 10 huyện của tỉnh Quảng Ninh, nằm ở phía cực tây của tỉnh, trên h-ớng Đông Bắc của toàn vùng Bắc Bộ Là một huyện vừa có rừng núi, đồi n-ơng, vừa có sông ngòi, đồng lúa Đông Triều về phía bắc đ-ợc bao bọc bởi vòng cung dãy núi Yên Tử cao 1.068m ngăn cách với huyện Sơn Đông, tỉnh Hà Bắc; phía tây giáp huyện Kinh Môn, Hải D-ơng và huyện Thuỷ Nguyên của thành phố Hải Phòng; Phía đông giáp với thị xã Uông Bí

Huyện Đông Triều nằm ở phía tây nam tỉnh Quảng Ninh, giáp ranh với Hải Hưng qua các con sông Kinh Thày và Đá Bạc Sông Đạm Thuỷ, còn gọi là sông Đamrang, chảy từ vùng núi An Sinh qua các xã Đạm Thuỷ, Vị Thuỷ và An Biên (làng Vẻn) Sông Cầm, có cầu Cầm, bắt nguồn từ núi Yên Tử và chảy qua các xã Tràng Lương, Bình Khê, Xuân Sơn và Hồng Đạo Đông Triều cách thủ đô Hà Nội và thành phố Hạ Long khoảng 84 km, đóng vai trò là hành lang phía tây của tỉnh Quảng Ninh.

Hệ thống giao thông ở Đông Triều bao gồm đường bộ, đường sắt và đường thủy Quốc lộ 18A chạy dài 28 km từ Cầu Vàng đến Dốc Đỏ, kết nối Đông Triều với Bắc Ninh, Hà Nội và Hải Phòng Ngoài ra, còn nhiều tuyến đường liên xã, liên thôn thuận tiện Về đường sắt, Đông Triều có 3 ga: Đông Triều, Mạo Khê và Yên Dưỡng Hệ thống đường thủy gồm các sông Đá Bạc, Sông Cầm, Sông Đạm Thủy và sông Kinh Thày, với chiều dài 36 km trên sông Đá Bạc, 5 km trên sông Kinh Thày và 10 km trên sông Cầm.

2.1.1.3 KhÝ hËu Đông Triều có khí hậu nhiệt đới gió mùa Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 độ 4 Tháng giêng rét nhất, nhiệt độ trung bình 16 độ 6, tháng 6 nóng nhất, nhiệt độ trung bình 28 độ 4 Độ ẩm trung bình hàng năm 81 độ L-ợng m-a trung bình hàng năm 1.089 mm Giờ nắng trung bình trong một ngày là 4,4 giờ ở đây đôi khi có s-ơng mù vào cuối đông

Đông Triều nổi bật với dãy núi vòng cung ở phía bắc, kéo dài từ tây sang đông, trong đó có núi Yên Tử nổi tiếng Phía nam huyện có dãy núi nhỏ hơn, cũng chạy dài từ tây sang đông, với núi Con Mèo là một trong những thắng cảnh đẹp.

Hệ thống núi Đông Triều bao gồm ba dãy núi song song từ tây sang đông, với dãy đầu tiên từ phía bắc là cao nhất, tiếp theo là hai dãy thấp dần Giữa các dãy núi là những dải đất màu mỡ có các xóm tập trung, trong đó dãy núi cao nhất liên tiếp, còn hai dãy còn lại thì đứt quãng Đồng bằng Đông Triều có diện tích khoảng 9600ha, nằm giữa hai dãy núi thứ hai và thứ ba Bề mặt đồng bằng có độ cao chênh lệch khoảng 3 đến 4m, cao hơn mực nước sông Kinh Thầy khoảng 2m Thành phần đất chủ yếu là cát và đất sét, nhưng thiếu nước và hơi bạc màu.

Đông Triều có nhiều con sông, trong đó nổi bật là sông Phả Lại, nơi hợp lưu của sông Cầu và sông Thương với sông Thái Bình Sông Thái Bình tách thành hai nhánh, một trong số đó là sông Kinh Thầy, chảy dọc theo chân núi Đông Triều Sông Kinh Thầy còn có các nhánh phụ như sông Kinh Môn, sông Giá và sông Đá Bạc.

Đông Triều không chỉ nổi bật với các con sông tự nhiên mà còn sở hữu nhiều hồ nhân tạo quan trọng như hồ Bến Châu (xã Bình Khê), hồ Khe Chè và hồ Trại Lốc (xã An Sinh) Những hồ này đóng vai trò cung cấp nước tưới cho khoảng 1.800 ha ruộng trong huyện, góp phần quan trọng vào hoạt động nông nghiệp địa phương.

2.1.2 Dân c- kinh tế xã hội

2.1.2.1 Đại c-ơng về chính trị xã hội

Huyện Đông Triều hiện nay bao gồm 21 đơn vị hành chính, (19 xã và 2 thị trấn)

Thị trấn Đông Triều, nằm ở trung tâm huyện Đông Triều, có dân số gần 5.000 người và diện tích 3,5 km², đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quân sự của toàn huyện Cách Đông Triều 8 km về phía đông là thị trấn Mạo Khê, nằm trên quốc lộ 18A, với diện tích 40 km² và dân số 36.000 người, chủ yếu là công nhân mỏ Thị trấn Mạo Khê còn có ga xe lửa và là nơi tiêu thụ sản phẩm của nhà máy xi măng Hoàng Thạch.

19 xã của huyện Đông Triều là:

Tràng L-ơng, Việt Dân, Xuân Sơn, Hồng Thái Đông, Hồng Thái Tây, Bình Khê, Thuỷ An, Tràng An, Nguyễn Hụê, Bình D-ơng, Hồng Phong, Tân Việt, Đức Chính, H-ng Đạo, Hoàng Quế, Kim Sơn, Yên Thọ, Yên Đức và An Sinh là những địa danh nổi bật trong khu vực, thể hiện sự đa dạng văn hóa và lịch sử phong phú của miền đất này.

Giá trị văn hoá của cụm di tích thờ vua Trần ở huyện Đông Triều - Quảng Ninh

Đông Triều sở hữu 8 di tích được công nhận là di tích quốc gia và 10 di tích cấp tỉnh, cùng với nhiều di tích khác có giá trị văn hóa Tuy nhiên, do giới hạn về thời gian, tác giả chỉ xin phép giới thiệu một số di tích tiêu biểu trong khóa luận của mình.

2 2.1.1 Quá trình xây dựng và tôn tạo

Chùa Quỳnh Lâm, một công trình kiến trúc cổ xưa, có lịch sử xây dựng và tu sửa phong phú Trước đây, chùa nằm trong xã Hà Lôi Hạ, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương, và từng là một trung tâm Phật giáo nổi tiếng của vùng Đông.

Chùa Quỳnh Lâm, giống như nhiều ngôi chùa lớn khác, được xây dựng trên một địa thế đẹp, tọa lạc trên đỉnh một ngọn đồi cao thoai thoải Ngọn đồi này, theo các tài liệu lịch sử, được gọi là núi Tiên Du, nằm trong hệ thống triền đồi kéo dài từ núi Yên Tử, Ngoạ Vân xuống đồng bằng.

Chùa Quỳnh Lâm, với cây cối um tùm và rừng thông xanh tốt, nằm ở địa thế cao tạo nên một môi trường tĩnh mịch, thanh bạch và cổ kính Điều này giúp công trình phật giáo này tách biệt với cuộc sống trần tục, mang lại cho khách hành hương cảm giác thiêng liêng và tâm linh Địa thế cao đẹp cũng làm cho những tháp cao và gác rộng của chùa trở nên nổi bật hơn, tiếng chuông và tiếng khánh vang xa hơn Đây là một đặc điểm thường thấy trong kiến trúc, nhưng tại chùa Quỳnh Lâm, những người xây dựng đã khéo léo tạo ra một không gian có khả năng chinh phục cả vùng đất Tràng rộng lớn.

Chùa Quỳnh Lâm lần đầu được nhắc đến trong văn bia tháp Viên Thông và sách Tam Tổ thực lục vào năm Đại Khánh thứ 4 (1317) với ghi chép “Thập nhị nguyện sáng Quỳnh Lâm viện”, tức là tháng 12 sáng lập viện Quỳnh Lâm Theo các nhà khảo cổ học, viện này chính là chùa Quỳnh Lâm Ngoài chùa Quỳnh Lâm, còn có chùa Kì Lân, cũng được gọi là Kì Lân Viện Câu hỏi đặt ra là tại sao lại dùng từ “sáng” để chỉ việc sáng lập, có phải chăng chùa thời Lý đã hoang phế hay sụp đổ nên Pháp Loa đã cho xây dựng lại hoàn toàn? Từ năm 1318 đến năm 1330, khi ngài Pháp Loa viên tịch, chùa Quỳnh Lâm đã trở thành một trung tâm tùng lâm khang trang, nhộn nhịp, với sự đóng góp đáng kể từ giới quý tộc, trong đó Văn Huệ vương Trần Quang Triều đã cúng dường 300 mẫu ruộng Gia Lâm cùng nhiều ruộng khác, tổng cộng hơn nghìn mẫu và hơn nghìn nô tì, tạo thành của thờ chung cho chùa Quỳnh Lâm.

Chùa này từng là một địa điểm sầm uất, được xây dựng tại vị trí thuận lợi cho cả giao thông đường bộ và đường thủy, giúp việc vận chuyển nguyên vật liệu và thu hút khách hành hương dễ dàng hơn Vào thế kỷ XVII, tiến sĩ Nguyễn Thực đã ghi nhận sự thuận lợi này trong một bài viết về việc trùng tu chùa, mô tả vị trí chùa với đường xe ngựa phía Nam, bến sông lớn phía Bắc, và cảnh quan xung quanh với các yếu tố phong thủy như Bạch Hổ và Thanh Long Ông tin rằng nơi đây đã được chọn lựa kỹ lưỡng bởi những bậc nhân sĩ có đức, dẫn đến việc xây dựng ngôi chùa nguy nga, rộng lớn, nơi dân chúng cầu nguyện và nhận được sự linh ứng.

Bậc nhân sĩ thiện đức trong việc xây dựng chùa, đặc biệt là Nguyễn Minh Không, đã có công lớn dưới triều Lý Thần Tông Ông đã đúc pho tượng đồng Di Lặc nổi tiếng, được coi là một trong bốn vật bằng đồng lớn nhất thời bấy giờ, cao 6 trượng và cần một toà điện cao 7 trượng để chứa Tượng này nổi bật đến mức người dân địa phương có thể nhìn thấy nóc điện từ xa hàng chục dặm Mặc dù không còn tồn tại, tượng đã phản ánh trình độ kỹ thuật đúc đồng cao và những hoài bão lớn lao trong việc xây dựng các công trình nghệ thuật của tổ tiên ta.

Chùa Quỳnh Lâm, trong thời kỳ Trần, nổi bật như một trung tâm phật giáo quan trọng nhờ vị trí kết nối với Yên Tử và các chùa khác Nơi đây thu hút nhiều bậc vương tôn quý tộc và danh sư như Trần Nhân Tông, Huyền Quang, và Pháp Loa, người đã đóng góp lớn trong việc tu bổ và mở rộng chùa Pháp Loa không chỉ xây dựng hai tháp đá và gạch cao mà còn lập viện Quỳnh Lâm để giảng đạo, đào tạo hàng ngàn phật tử và in ấn nhiều kinh phật Với sự hỗ trợ tài chính từ giới quý tộc, chùa Quỳnh Lâm đã đúc nhiều tượng phật, nổi bật là tượng quan âm nghìn mắt nghìn tay, thánh tăng và Di Lặc, có kích thước đồ sộ không kém tượng thời Lý Khi đúc tượng, vua Trần Minh Tông đã đến thăm và nhờ đội cấm quân hỗ trợ kéo tượng lên bệ.

Chùa Quỳnh Lâm không chỉ thu hút phật tử mà còn là điểm đến của nhiều danh nho, như nhà thơ Trần Quang Triều, cháu nội Trần Hưng Đạo, người đã lập thi xã Bích Động cùng các bạn thơ như Nguyễn Úc, Nguyễn Xưởng để ngâm vịnh Ngoài ra, Trương Hán Siêu, một nhà thơ lớn thời bấy giờ, mặc dù từng công kích Phật giáo để bảo vệ Nho học, nhưng cuối đời đã đảm nhận chức giám tự tại chùa Quỳnh Lâm Điều này cho thấy chùa Quỳnh Lâm không chỉ là trung tâm Phật giáo mà còn là trung tâm văn hóa quan trọng của cả vùng.

Chùa Quỳnh Lâm, nhờ vào sự nổi tiếng, đã nhận được sự bố thí hào phóng từ các tầng lớp quý tộc nhà Trần, đặc biệt là từ Trần Quang Triều và hoàng thái hậu Thuận Thánh Bảo Từ, với hơn ngàn mẫu ruộng, gần 5 vạn quan tiền và 1000 nô tỳ được cúng dường Những tài sản này đã tồn tại lâu dài, đến nỗi người dân quanh vùng vẫn còn nhớ câu: “Ngõ chùa Lân, sân chùa Muống, ruộng Chùa Quỳnh”, cho thấy vai trò quan trọng của chùa Quỳnh Lâm trong thời kỳ Trần Tuy nhiên, sau nhiều năm tháng, những cơ sở vật chất hùng hậu này đã hoàn toàn biến mất.

Các tượng đồng lớn của chùa đã mất từ lâu, nhưng hiện tại vẫn chưa có tài liệu cụ thể về thời gian Theo truyền thuyết dân gian, có một nhóm giặc đã mang theo 24 bễ để thổi đồng nhằm đúc đạn, nhưng không thành công Bia chùa chỉ ghi lại dòng chữ “trầm trầm tại hạ”, ám chỉ việc các tượng đồng dần chìm xuống đất.

Vào đầu thế kỷ XVI, năm 1516, vùng Đông Triều chứng kiến cuộc nổi dậy của Trần Cảo, một viên quan nhỏ của triều đình Ông đã tự xưng là “Đế Thích giáng sinh” và tập hợp hàng vạn người, lấy chùa Quỳnh Lâm làm căn cứ Cuộc khởi nghĩa lan rộng, thậm chí có lúc tấn công vào Đông Kinh, nhưng đến năm 1523 mới bị dẹp Trong suốt thời gian giao tranh, đặc biệt là khi khởi nghĩa thất bại, chùa Quỳnh Lâm chắc chắn cũng bị ảnh hưởng bởi cuộc nội chiến này.

Thời Hậu Lê, chùa chiền bị suy giảm đáng kể do nội chiến kéo dài, làm hư hại nhiều công trình Mặc dù nhân dân và giai cấp thống trị đã nỗ lực tu sửa trong suốt hàng trăm năm, nhưng không thể phục hồi lại vẻ đẹp như thời Lý Trần.

Vào năm 1629, lần trùng tu đầu tiên của bia đá được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các vương phi trong phủ chúa Trịnh Họ đã vận động kinh phí từ kho nhà nước và quyên góp từ các tín đồ để cải tạo chùa Công việc được tiến hành nhanh chóng và hoàn thành vào ngày 28 tháng đó, với ngôi chùa mới có điện thờ Phật và nhà thắp hương Kết cấu chùa được cải tạo với cửa ở phía trước, gác ở phía sau, và các khu vực bên trái, bên phải được bố trí hài hòa Lâu đài phía đông rực rỡ cùng với nhà cửa phía tây trang trí tinh xảo, tạo nên một không gian đẹp mắt với khảm ngọc lấp lánh và rèm đỏ óng ánh.

Ngót 70 năm sau, vào năm Chính Hoà thứ 18 (1797) có một lần tu sửa nhỏ nh-ng còn giữ lại chùa đ-ợc 2 bức chạm khá đẹp Đó là bai chạm bài vị và t-ợng của hậu phật Bùi Thị Thao

Thực trạng bảo tồn và phát triển của cụm di tích

Quảng Ninh sở hữu hơn 500 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 87 di tích được công nhận cấp tỉnh và Nhà nước, như bãi cọc Bạch Đằng, thương cảng Vân Đồn và di tích Yên Tử, mang giá trị lịch sử to lớn Tuy nhiên, nhiều di tích này vẫn chưa được bảo tồn và tôn tạo đúng mức, cần có sự quan tâm để phát huy giá trị của chúng.

Nhiều di tích lịch sử quan trọng, như hang đá nơi quân và dân ta từng trú ẩn và tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp tại Đông Triều, vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức Đặc biệt, chính quyền địa phương đã cho phép khai thác đá bằng phương pháp nổ mìn, gây lo ngại về việc bảo tồn các giá trị văn hóa và lịch sử.

Đền An Sinh và các lăng mộ vua Trần tại xã An Sinh, huyện Đông Triều sở hữu di vật có giá trị lịch sử và văn hóa lớn, với nhiều đặc trưng độc đáo Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác bảo vệ và bảo quản các di vật này chưa được chú trọng, dẫn đến nguy cơ phá hoại và thất thoát.

Đền An Sinh, được xây dựng với quy mô lớn trong lịch sử, đã trải qua nhiều thăng trầm và hiện nay, nhiều công trình kiến trúc cổ đã bị hủy hoại Trong những năm 1990, các nhà khảo cổ học ghi nhận hình ảnh các tượng đá còn nguyên vẹn, nhưng hiện nay phần lớn đã bị đập vỡ Gần đây, nhiều di vật quý giá đã được phát hiện và tập trung tại đền, bao gồm các tảng kê chân cột, thềm bậc đá, tượng đá, bia đá từ các triều đại khác nhau, cùng với nhiều vật liệu trang trí kiến trúc bằng đất nung có niên đại từ 200 đến 700 năm Tuy nhiên, phần lớn các hiện vật này chưa được trưng bày và vẫn chất đống ở những nơi không được bảo quản, chịu ảnh hưởng của thời tiết.

Hệ thống các Lăng vua Trần bao gồm nhiều khu lăng khác nhau, mỗi khu thờ một vị vua Trần: Khu Lăng Tư Phúc thờ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Giản Định; Thái lăng thờ Trần Anh Tông; Mục lăng thờ Trần Minh Tông; Ngải Sơn lăng thờ Trần Hiến Tông; Phụ Sơn lăng thờ Trần Dụ Tông; và Nguyên lăng thờ Trần Nghệ Tông.

Hỷ lăng (thờ Trần Thuận Tông)

Tại các lăng mộ, nhiều di vật quý đã được phát hiện qua khảo sát bề mặt và lòng đất, giúp khám phá kiến trúc và nghệ thuật xây dựng Tại lăng Tư Phúc, nhiều mảnh gạch, ngói niên đại Trần, Lê và các chi tiết như đầu rồng đã được tìm thấy, cùng với các tảng kê chân cột nguyên vị trí dưới lòng đất, cho thấy tiềm năng khai quật kiến trúc cổ Ngải Sơn lăng còn có nhóm tượng quan hầu bằng đá, là những tác phẩm nghệ thuật hiếm hoi từ thời Trần, cung cấp cơ sở cho các nhà nghiên cứu về nghệ thuật điêu khắc và phong cách tạo hình của thời kỳ này.

Hiện nay, phần lớn diện tích xuất lộ di vật của các lăng không nằm trong khuôn viên lăng, gây khó khăn cho việc khai quật và nghiên cứu Ví dụ, tại lăng Tư Phúc, diện tích này thuộc quản lý của Lâm trường Đông Triều và đã được giao cho các hộ gia đình trồng cây ăn quả và khai thác gỗ Nhiều gia đình trong khu vực đã xây dựng nhà kiên cố từ 2 đến 3 tầng, ảnh hưởng đến công tác bảo tồn và trùng tu sau này.

Mục lăng hiện nằm dưới lòng hồ, trong khi Trại Lốc, Ngải Sơn lăng, Phụ Sơn lăng và Nguyên lăng được giao khoán cho các hộ gia đình trong 50 năm Tại các lăng vua Trần, nhiều di vật đã bị phá hoại nghiêm trọng, đặc biệt là tại Ngải Sơn lăng, nơi hai pho tượng quan hầu bằng đá xanh và các tượng linh thú như chó, ngựa, voi đều bị hư hại nặng nề Theo người dân địa phương, phần lớn các tượng này bị hủy hoại do con người, mặc dù trước đây chúng còn nguyên vẹn hoặc chỉ bị nứt nhỏ Công tác bảo quản các tượng này vẫn diễn ra chậm chạp, với nhiều tượng quan hầu đá để ngổn ngang trong và ngoài khuôn viên lăng.

Hiện nay, chỉ còn Thái Lăng giữ nguyên hiện trạng, trong khi các lăng khác đã bị tàn phá hoặc chỉ còn là phế tích Các khảo sát của các nhà khảo cổ học đã phát hiện dấu tích của việc trùng tu thời Lê - Nguyễn và một số bằng chứng hiếm hoi từ thời Trần, giúp tái hiện diện mạo lăng vua Trần Anh Tông Tại Hồ Thiên, tình hình càng trở nên cấp bách khi khu rừng bị lâm tặc tấn công, trong khi ngôi mộ tháp bị đào bới để tìm cổ vật Tháp đá bảy tầng đang có nguy cơ nghiêng do một vụ nổ và việc chặt cây rừng Bia trùng tu và nhà bia cũng đã bị đổ nát Ngoài các công trình kiến trúc, cụm di tích Đền thờ và Lăng miếu vua Trần còn có đền Thái, nơi thờ Tam Thánh tổ Trần triều và đã phát lộ nhiều di vật quý từ thời kỳ này.

Toàn bộ diện tích của các triều đại Nhà Lê, Trần, Nguyễn hiện nay đã được giao cho người dân Trong quá trình người dân đào hố làm vườn, đã xảy ra xáo trộn, khiến việc nhận diện chính xác và đầy đủ các di vật trở nên rất khó khăn.

Việc di tích bị trẻ hóa sau khi tu bổ đã làm giảm giá trị văn hóa và phi vật thể của chúng Các di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh cần phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân, đồng thời đóng góp vào phát triển du lịch và kinh tế địa phương Nếu không tích hợp di tích vào các kế hoạch phát triển du lịch và kinh tế, chúng sẽ không phát huy được vai trò và giá trị vốn có.

Cụm di tích thờ vua Trần tại huyện Đông Triều, Quảng Ninh cần được tích hợp vào chiến lược quy hoạch bảo tồn, nhằm kết nối với khu di tích Yên Việc này không chỉ bảo vệ giá trị văn hóa lịch sử mà còn thúc đẩy du lịch địa phương.

Tạo dựng một quần thể không gian văn hóa Phật giáo tại Việt Nam không chỉ giúp bảo tồn di sản văn hóa quý giá mà còn mở ra cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế du lịch.

Hiện trạng hoạt động du lịch văn hóa ở Đông Triều – Quảng Ninh

3.2.1 Chính sách phát triển du lịch

Mặc dù huyện có nhiều di tích văn hóa phong phú, nhưng trong những năm qua, chính quyền địa phương vẫn chưa xây dựng chính sách phát triển du lịch và chưa chú trọng đến giá trị của các di sản văn hóa này.

Trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của Đảng và nhà nước, UBND tỉnh Quảng Ninh đã bắt đầu khai thác các thế mạnh của vùng để phát triển du lịch, đặc biệt là thông qua Nghị quyết 08 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "đổi mới và phát triển du lịch Quảng Ninh giai đoạn 2001-2010" UBND huyện Đông Triều cũng đã đồng hành trong việc quy hoạch bảo tồn di tích, nhằm phát huy giá trị lịch sử và văn hóa của quần thể di tích, kết nối với hệ thống di tích Yên.

Hi vọng rằng trong thời gian không xa chúng ta sẽ được thấy một Đông Triều linh thiêng và huyền bí như xưa

3.2.2 Hiện trạng khách du lịch

Huyện Đông Triều sở hữu nhiều điểm tham quan hấp dẫn, nhưng hầu hết vẫn chưa được khai thác cho hoạt động du lịch, dẫn đến lượng khách đến đây còn rất ít Chỉ một số địa điểm như chùa Quỳnh Lâm và Đền An Sinh thu hút được một lượng khách nhất định, chủ yếu vào các ngày lễ hội.

Hiện tại, chưa có cơ quan nào thống kê lượng khách du lịch đến Đông Triều, nhưng ước tính hàng năm có hơn 5.000 du khách Đặc biệt, du khách thường đến thăm các di tích và lễ hội vào mùa xuân với mục đích lễ bái chùa, trong khi các tháng khác trong năm lượng khách thăm quan rất hạn chế.

Khách tham quan Đông Triều chủ yếu đến từ các vùng lân cận như Hải Phòng và Hải Dương Phần lớn du khách đi lẻ, trong khi rất ít công ty du lịch đưa các điểm tham quan của Đông Triều vào lịch trình tour, thường chỉ xem đây là điểm dừng chân nghỉ trưa trên hành trình tới Hạ Long hoặc cửa khẩu Móng Cái.

Du khách quốc tế đến với Đông Triều hầu như là không có, ước tính mỗi năm có khoảng 10 người

3.2.3 Hiện trạng quản lý và tổ chức đội ngũ lao động du lịch

Hiện nay, quản lý và tổ chức du lịch ở Đông Triều còn nhiều hạn chế, khi huyện chưa có phòng du lịch và các hoạt động du lịch diễn ra tự phát, thiếu sự thống nhất Đội ngũ lao động trong lĩnh vực du lịch rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở các nhà hàng và khách sạn, với tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn thấp Số lượng lao động trong ngành du lịch hiện tại chưa được xác định do không có cơ quan hoặc tổ chức nào thực hiện thống kê.

3.2.4 Hiện trạng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho du lịch

Mặc dù ngành du lịch chưa phát triển mạnh mẽ, nhưng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh tế xã hội, đặc biệt là du lịch, đã bắt đầu cho thấy những tín hiệu tích cực.

- Đường quốc lộ 18a chạy dọc qua địa bàn huyện đã giúp cho quá trình sản xuất và đi lại của nhân dân thuận tiện hơn

- Hệ thống đường liên thông, liên xã ngày càng được hoàn thiện và nâng cao

- Hiện nay toàn huyện có 2 bên xe; bến xe Đông Triều và Mạo Khê

Hệ thống cơ sở lưu trú tại huyện đang dần hình thành với sự hiện diện của một số khách sạn và nhà hàng lớn như Khách sạn Thái Sơn, Long Hải và Mạnh Tuấn Theo thống kê năm 2008, toàn huyện có 24 điểm lưu trú, chủ yếu là nhà hàng và nhà nghỉ, tập trung tại thị trấn Mạo Khê và Đông Triều Đến năm 2009, số lượng điểm lưu trú tăng lên 60, trong đó có 3 khách sạn, tuy nhiên chưa có khách sạn nào được xếp hạng tiêu chuẩn sao.

Mạng lưới thông tin liên lạc đã được phát triển mạnh mẽ với 19 điểm bưu điện văn hóa xã và 2 bưu điện lớn tại hai thị trấn, đáp ứng hiệu quả nhu cầu thông tin liên lạc của người dân.

Mặc dù mạng lưới thông tin liên lạc đang được phát triển, nhưng vẫn chưa hoàn thiện để phục vụ cho du lịch Hệ thống giao thông trong huyện còn yếu kém, với nhiều đoạn đường xuống cấp nghiêm trọng, mặt đường ghồ ghề và lồi lõm Chẳng hạn, đoạn đường từ ngã tư thị trấn Đông Triều đến chùa Quỳnh Lâm và đền An Sinh dài 4km vẫn rất xấu, gây khó khăn cho việc di chuyển của người dân và du khách.

Các phương tiện giao thông trên địa bàn chưa chú trọng đến việc khai thác vận chuyển khách du lịch, dẫn đến thiếu hụt các hoạt động dịch vụ du lịch Ngoài ra, các di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh cũng thiếu phòng lễ tân đón tiếp khách, cũng như các cửa hàng bán đồ lưu niệm phục vụ nhu cầu của du khách.

Chưa có các trung tâm vui chơi giải trí phục vụ khách du lịch

3.2.5 Ý thức của người dân địa phương

Hiện nay, nguồn vốn trùng tu các di tích chủ yếu đến từ sự đóng góp của người dân địa phương với mục đích tâm linh, trong khi họ vẫn chưa nhận thức rõ về giá trị du lịch của di tích Điều này dẫn đến việc xâm phạm và lấn chiếm di tích để xây dựng nhà ở, làm mất mĩ quan khu vực Thêm vào đó, việc khai thác đá vôi và than đá cũng ảnh hưởng tiêu cực đến cảnh quan di tích.

Hiện nay, sau khi kết thúc lễ hội, nhiều di tích vẫn rơi vào tình trạng ngổn ngang và ô nhiễm do rác thải Thói quen vứt rác bừa bãi và việc du khách đốt hương quá nhiều đã làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của các di tích Hơn nữa, việc vận chuyển hàng trăm xe than hàng ngày tại huyện cũng ảnh hưởng không nhỏ đến cảnh quan của khu di tích.

Một số giải pháp bảo tồn các giá trị văn hoá tại cụm di tích thờ vua trần ở huyện đông triều – quảng ninh

Để các di tích ở huyện Đông Triều, Quảng Ninh trở thành địa chỉ giáo dục truyền thống và sản phẩm du lịch thu hút du khách trong nước và quốc tế, cần ưu tiên thực hiện một số vấn đề quan trọng.

3.3.1 Xây dựng quy hạch tổng thể và chi tiết tài nguyên du lịch nhân văn, trong đó lấy cụm di tích thờ các vua Trần là tiêu điểm Để du lịch phát triển đòi hỏi UBND huyện, lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh cần phải có một đề án quản lý cụ thể chi tiết, ban hành những văn bản chính xác, lấy việc khai thác tài nguyên phục vụ cho các hoạt động văn hóa

Huyện cần xác định du lịch văn hóa là trọng tâm trong phát triển du lịch, đồng thời lập bản đồ chi tiết các tuyến điểm tham quan và khoanh vùng các khu vực khai thác kinh doanh du lịch.

Quản lý mật độ và mức độ tập trung của các di tích lịch sử văn hóa là rất quan trọng để xác định khu vực bảo tồn hợp lý, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và phát huy giá trị của các di tích này.

Cần thiết khoanh vùng bảo vệ các di tích và thực hiện quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác để tránh lãng phí tài nguyên Hiện nay, một số di tích bị ảnh hưởng bởi việc xây dựng không hợp lý, làm che khuất cảnh quan và khai thác sai mục đích Để khắc phục tình trạng này, cần ban hành văn bản quy định về xây dựng và cải tạo phù hợp với cảnh quan di tích, đồng thời theo dõi chặt chẽ và áp dụng hình thức xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm, nhằm bảo vệ giá trị văn hóa và lịch sử của các di tích.

Quy hoạch tổng thể cần được xây dựng dựa trên các quy hoạch sử dụng đất và khoanh vùng di tích, nhằm kết nối hệ thống di tích ở Ngọa Vân, Hồ Thiên, Quỳnh Lâm, Lăng mộ vua Trần với các di tích tại Yên Tử, tạo thành một không gian văn hóa Trần rộng lớn ở Đông Bắc tổ quốc Từ đó, cần kết nối với Chí Linh (Hải Dương), Yên Hưng, Hạ Long (Quảng Ninh) để hình thành một tuyến du lịch liên hoàn Để tránh bất cập, việc nghiên cứu xác định phạm vi di tích cần được tiến hành song song với lập quy hoạch, tạo cơ sở khoa học cho việc xác lập quy hoạch chính xác về địa giới di tích.

Toàn bộ tài nguyên du lịch của cụm di tích cần khai thác cho các chương trình thăm quan, nghiên cứu, lễ hội, tâm linh

Xây dựng chương trình du lịch chi tiết cần sự phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương và doanh nghiệp lữ hành trên toàn quốc, đặc biệt là các doanh nghiệp tại Hà Nội, Hải Phòng và Hải Dương Mục tiêu là khai thác tối đa tài nguyên du lịch của huyện, tạo ra những trải nghiệm hấp dẫn cho du khách.

3.3.2 Tổ chức quản lý và đào tạo nguồn nhân lực

Để bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chuyên môn, ban ngành và địa phương có di tích Chính quyền các cấp phải chịu trách nhiệm bảo vệ di sản, ngăn chặn thương mại hóa dịch vụ văn hóa tại di tích Quản lý hiệu quả các nguồn thu từ vé tham quan, hòm công đức, và dịch vụ trong khu vực di tích là cần thiết để tái đầu tư và đảm bảo lợi ích cho cả nhà nước và cá nhân Cần ưu tiên kinh phí cho việc tu bổ các di tích lịch sử quan trọng và đầu tư xây dựng cơ bản để thu hút khách du lịch Để đạt được các mục tiêu này, huyện cần thành lập phòng du lịch, đóng vai trò quản lý hoạt động du lịch, từ đó khai thác giá trị văn hóa và bảo tồn di tích một cách bền vững.

Nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt trong việc phát triển du lịch văn hóa, bởi họ là những người mang lại sức sống cho di tích, giúp chúng trở nên hấp dẫn và thu hút hơn đối với du khách.

Việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và hiểu biết vững chắc về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước là rất quan trọng Cán bộ cần có trách nhiệm cao, kiến thức sâu rộng và kinh nghiệm trong việc tu bổ, tôn tạo di tích Để đạt được điều này, các lớp tập huấn thường xuyên cần được tổ chức cho cán bộ cơ sở, đặc biệt là những người trực tiếp quản lý di tích, nhằm giúp họ truyền đạt thông tin chính xác và có giá trị đến cộng đồng và du khách.

Xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển nguồn nhân lực du lịch là rất quan trọng Cần nâng cao chất lượng đào tạo chuyên ngành du lịch để đảm bảo cơ cấu nhân lực phù hợp Đồng thời, việc tăng cường hợp tác giữa các địa phương trong công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch cũng cần được coi trọng.

Huyện cam kết xây dựng chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút nhân tài, chuyên gia và nghệ nhân tham gia phát triển du lịch Đồng thời, huyện khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào lĩnh vực kinh doanh du lịch.

3.3.3 Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch Để khai thác các giá trị văn hóa của cụm di tích và đẩy mạnh hoạt động du lịch văn hóa cuả huyện thì việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật đóng vai trò rất quan trọng chiến lược phát triển du lịch của huyện

Đông Triều đã xây dựng hệ thống cơ sở vật chất tương đối tốt, nhưng để phát triển du lịch văn hóa hiệu quả, cần đầu tư vào hạ tầng địa phương, khai thác tiềm năng và thế mạnh của huyện Cần hoàn thiện hệ thống đường liên thông, liên xã và đường vào các di tích Việc phát triển du lịch cần kết hợp sử dụng nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước và huy động vốn từ cộng đồng, theo phương châm toàn huyện cùng làm du lịch.

Tại mỗi điểm tham quan cần xây dựng nhà lễ tân đón tiếp, hướng dẫn khách trước khi vào thăm quan di tích

Trên quốc lộ 18A, con đường huyết mạch kết nối Hạ Long với Hà Nội và các tỉnh lân cận, các biển báo và chỉ dẫn ấn tượng được đặt ở vị trí dễ quan sát, tạo thuận lợi cho người tham gia giao thông.

Xây dựng nơi biểu diễn nghệ thuật tại các điểm thăm quan Đầu tư và nâng cấp các phương tiện đưa đón khách du lịch

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:51

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w