1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn tìm hiểu các di tích thờ danh nhân văn hoá nguyễn bỉnh khiêm ở huyện vĩnh bảo thành phố hải phòng phục vụ phát triển du lịch

82 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Tìm Hiểu Các Di Tích Thờ Danh Nhân Văn Hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm Ở Huyện Vĩnh Bảo Thành Phố Hải Phòng Phục Vụ Phát Triển Du Lịch
Trường học Trường Đại Học Hải Phòng
Chuyên ngành Du Lịch
Thể loại Luận Văn
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hải Phòng
Định dạng
Số trang 82
Dung lượng 2,47 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÀI NGUYÊN NHÂN VĂN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1. Khái niệm du lịch (6)
    • 1.2. Tài nguyên du lịch (7)
    • 1.3. Tài nguyên du lịch tự nhiên (10)
    • 1.4. Tài nguyên du lịch nhân văn (10)
    • 1.5. Tiểu kết (24)
  • CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH THỜ DANH NHÂN VĂN HÓA NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1. Nét khái quát về quê hương danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm (25)
    • 2.2. Thân thế của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm (0)
    • 2.3. Sự nghiệp của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm (28)
    • 2.4. Các di tích thờ danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm (38)
    • 3.2. Đẩy mạnh công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy vai trò của các di tích thờ (59)
    • 3.3. Giải pháp về duy trì và tổ chức các lễ hội truyền thống (0)
    • 3.4. Xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch (62)
    • 3.5. Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch (64)
    • 3.6. Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch (65)
    • 3.7. Thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch (65)
    • 3.8. Đẩy mạnh sản xuất và đa dạng hoá nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. 66 3.9. Nâng cao ý thức người dân về du lịch (0)
    • 3.10. Hoàn thiện cơ chế chính sách về du lịch, tăng cường quản lý nhà nước về du lịch (68)
    • 3.11. Các kiến nghị khác (69)
  • Phụ lục (74)

Nội dung

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TÀI NGUYÊN NHÂN VĂN PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN DU LỊCH 1.1 Khái niệm du lịch

Tài nguyên du lịch

Nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về tài nguyên, mỗi định nghĩa đều mang những đặc điểm riêng, nhưng có thể tóm gọn một số định nghĩa chung nhất về tài nguyên như sau:

Tài nguyên, theo PGS.TS Trần Đức Thanh, bao gồm tất cả các nguồn thông tin, vật chất và năng lượng được khai thác để phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội Chúng bao gồm các thành tạo tự nhiên, các công trình và sản phẩm do con người sáng tạo, cũng như những khả năng của loài người, tất cả đều hướng đến việc phát triển kinh tế và xã hội của cộng đồng.

Tài nguyên, theo định nghĩa của Phạm Trung Lương, bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên Trái Đất cũng như trong không gian vũ trụ Những tài nguyên này có thể được con người sử dụng để phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.

Cả hai khái niệm tài nguyên đều thể hiện đặc điểm chung, nhưng mỗi khái niệm mang lại những ưu điểm và hạn chế riêng Để tận dụng ưu điểm và giảm thiểu nhược điểm, chúng ta có thể định nghĩa tài nguyên một cách đơn giản và dễ hiểu.

Tài nguyên bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và sản phẩm do con người tạo ra, có khả năng được sử dụng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường trong suốt quá trình lịch sử phát triển của nhân loại.

1.2.2 Khái niệm tài nguyên du lịch

Du lịch là một ngành có định hướng tài nguyên rõ ràng, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ và hình thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch Tài nguyên du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động dịch vụ.

Tài nguyên du lịch bao gồm các điều kiện tự nhiên và các di sản văn hóa - lịch sử, đã được thay đổi một phần do nhu cầu xã hội và khả năng khai thác cho mục đích du lịch.

Theo các nhà khoa học Du lịch Trung Quốc, tài nguyên du lịch bao gồm tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội có sức hấp dẫn đối với khách du lịch Những tài nguyên này không chỉ phục vụ cho ngành du lịch mà còn tạo ra hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường.

Theo Pirojnik, tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố tự nhiên và văn hóa - lịch sử, đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và phát triển thể lực cũng như sức khỏe của con người Những tài nguyên này không chỉ đáp ứng nhu cầu du lịch hiện tại mà còn tương lai, đồng thời phù hợp với khả năng kinh tế kỹ thuật Chúng được sử dụng để sản xuất trực tiếp và gián tiếp các dịch vụ du lịch và nghỉ ngơi.

Khoản 4 (Điều 4, chương 1) Luật du lịch Việt Nam năm 2005 quy định:

Tài nguyên du lịch bao gồm cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử văn hóa, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác Những tài nguyên này có thể được khai thác để phục vụ nhu cầu du lịch, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch và đô thị du lịch.

Tổng hợp từ những định nghĩa trên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm bao quát nhất về tài nguyên du lịch như sau:

Tài nguyên du lịch bao gồm tổng thể tự nhiên, văn hoá và lịch sử, cùng các thành phần liên quan, đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và phát triển thể lực, trí lực của con người, cũng như nâng cao khả năng lao động và sức khoẻ Những tài nguyên này được sử dụng để đáp ứng nhu cầu trực tiếp và gián tiếp trong việc sản xuất dịch vụ du lịch.

1.2.3 Đặc điểm của tài nguyên du lịch

Khối lượng và diện tích phân bổ các nguồn tài nguyên là yếu tố quan trọng để đánh giá khả năng khai thác cũng như tiềm năng phát triển của hệ thống lãnh thổ trong lĩnh vực du lịch và nghỉ dưỡng.

Thời gian khai thác du lịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khí hậu, mùa tắm và sự ổn định của lớp tuyết phủ Những yếu tố này quyết định tính mùa vụ của du lịch và nhịp điệu dòng khách du lịch.

Tính bất biến về mặt lãnh thổ của hầu hết các loại tài nguyên tạo ra sức hút cho cơ sở hạ tầng và thu hút dòng du lịch đến những khu vực tập trung các loại tài nguyên này.

Vốn đầu tư thấp và chi phí sản xuất không cao giúp xây dựng cơ sở hạ tầng nhanh chóng, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao và khả năng sử dụng độc lập cho từng loại tài nguyên.

Tài nguyên du lịch tự nhiên

Tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm: Vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thuỷ văn, hệ động, thực vật

Theo Luật du lịch Việt Nam năm 2005, tài nguyên du lịch tự nhiên bao gồm các yếu tố như địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái và cảnh quan tự nhiên Những yếu tố này hiện đang được khai thác hoặc có thể được sử dụng để phục vụ mục đích du lịch.

Tài nguyên du lịch tự nhiên không tồn tại độc lập mà phát triển trong cùng một không gian lãnh thổ, có mối quan hệ tương hỗ với các yếu tố văn hóa, kinh tế - xã hội Chúng thường được phân bố gần các tài nguyên du lịch nhân văn Khi nghiên cứu về tài nguyên du lịch tự nhiên, các nhà nghiên cứu thường xem xét từng thành phần tự nhiên, các thể tổng hợp tự nhiên, di sản thiên nhiên thế giới và các điểm tham quan tự nhiên có điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các yếu tố văn hóa như truyền thống, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, kiến trúc, và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể Những tài nguyên này không chỉ phản ánh bản sắc văn hóa mà còn phục vụ cho mục đích phát triển du lịch.

Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các đối tượng và hiện tượng xã hội cùng với các giá trị văn hóa, lịch sử hấp dẫn du khách và được khai thác cho mục đích kinh doanh du lịch Trong số đó, di sản văn hóa đóng vai trò đặc biệt quan trọng.

Theo Luật di sản văn hóa Việt Nam, di sản văn hóa được phân thành hai loại chính: di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể.

 Di sản văn hoá vật thể

Di sản văn hóa vật thể bao gồm những sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học Nó bao gồm các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia.

Di tích lịch sử văn hóa bao gồm các công trình xây dựng cùng với di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia có giá trị về lịch sử, văn hóa và khoa học tại địa điểm đó.

Danh lam thắng cảnh là những địa điểm tự nhiên hoặc có sự kết hợp giữa thiên nhiên và kiến trúc, mang giá trị lịch sử, thẩm mỹ và khoa học.

“ Di vật là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học”

“ Cổ vật là hiện tượng được lưu truyền lại có giá trị tiêu biểu vè lịch sử, văn hoá, khoa học từ một trăm năm tuổi trở lên”

 “ Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại có giá trị đặc biệt quý hiếm của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học”

 Di sản văn hoá phi vật thể

Di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử và văn hoá, được truyền bá qua trí nhớ, chữ viết, và các hình thức như truyền miệng, trình diễn Nó bao gồm tiếng nói, tác phẩm văn học nghệ thuật, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, lễ hội, bí quyết nghề nghiệp thủ công truyền thống, tri thức y dược cổ truyền, văn hoá ẩm thực, trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.

Do những nét đặc trưng và tính chất của mình, tài nguyên du lịch nhân văn có những đặc điểm khác với tài nguyên du lịch tự nhiên:

 Tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn tác dụng giải trí

Việc khám phá các giá trị nhân văn có thể diễn ra nhanh chóng, chỉ trong vài phút hoặc vài giờ, cho phép du khách cảm nhận sâu sắc những ý nghĩa văn hóa trong một chuyến du lịch.

 Số người quan tâm đến tài nguyên du lịch nhân văn thường có văn hoá hơn, thu nhập và yêu cầu cao hơn

 Tài nguyên du lịch nhân văn thường tập trung ở những điểm quần cư và những thành phố lớn

Tài nguyên du lịch nhân văn có ưu thế lớn vì chủ yếu không bị ảnh hưởng bởi mùa vụ hay các điều kiện khí hậu và tự nhiên khác.

Sở thích của những người tìm kiếm tài nguyên du lịch nhân văn rất đa dạng và phức tạp, điều này tạo ra khó khăn trong việc đánh giá các tài nguyên này Việc đánh giá chủ yếu dựa vào các yếu tố định tính, cảm xúc và trực giác, đồng thời cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố như độ tuổi, trình độ văn hóa, sự hứng thú, trình độ nghề nghiệp và thành phần dân tộc.

1.4.1 Tài nguyên du lịch nhân văn vật thể

1.4.1.1 Di sản văn hoá thế giới

Theo UNESCO, Di sản Văn hoá là:

Các di tích bao gồm các tác phẩm kiến trúc, điêu khắc và hội họa, cùng với những yếu tố và cấu trúc mang tính chất khảo cổ học như ký tự, nhà ở, hang đá Những công trình này có sự liên kết giữa nhiều đặc điểm và được đánh giá có giá trị nổi bật toàn cầu từ góc độ lịch sử, nghệ thuật và khoa học.

Các quần thể công trình xây dựng bao gồm những kiến trúc tách biệt hoặc liên kết với nhau, có giá trị nổi bật toàn cầu về lịch sử, nghệ thuật và khoa học nhờ vào tính đồng nhất và vị trí của chúng trong cảnh quan.

Các di chỉ là những tác phẩm do con người tạo ra hoặc là sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo Chúng bao gồm các khu vực có di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu, được đánh giá theo các tiêu chí lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học và nhân chủng học.

 Tiêu chuẩn xếp hạng là DSVH thế giới:

Để được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới, các di sản văn hóa ở mỗi quốc gia phải đáp ứng ít nhất một trong sáu tiêu chuẩn mà WHC đề ra.

Để được công nhận là Di sản Văn hoá thế giới, một di tích lịch sử văn hoá cần phải xác thực và có ảnh hưởng sâu rộng, hoặc mang đến bằng chứng độc đáo về sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ngoài ra, di tích cũng phải liên quan đến tư tưởng hay tín ngưỡng, có ý nghĩa phổ biến, hoặc là biểu tượng nổi bật của một lối sống truyền thống đại diện cho một nền văn hoá cụ thể.

– Các tiêu chuẩn để công nhận là Di sản Văn hoá thế giới:

Là các tác phẩm nghệ thuật độc nhất – vô nhị, tác phẩm hàng đầu của tài năng con người

Tiểu kết

Tài nguyên du lịch nhân văn đang trở thành hướng phát triển hiệu quả cho ngành du lịch Việt Nam Hệ thống di tích lịch sử, lễ hội và phong tục tập quán không chỉ quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt mà còn là nguồn tài nguyên quý giá cho sự phát triển du lịch hiện tại và tương lai.

Khai thác tài nguyên du lịch nhân văn không chỉ giúp du khách hiểu rõ văn hóa đặc trưng của từng vùng đất, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc Điều này khuyến khích việc gìn giữ những nét văn hóa và phong tục tập quán tốt đẹp của quê hương Do đó, sự phát triển của du lịch nhân văn hiện nay đang trở thành một hướng đi đúng đắn, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho ngành du lịch Việt Nam.

THỰC TRẠNG KHAI THÁC DU LỊCH TẠI CÁC DI TÍCH THỜ DANH NHÂN VĂN HÓA NGUYỄN BỈNH KHIÊM 2.1 Nét khái quát về quê hương danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm

Sự nghiệp của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm, một người yêu nước và thương dân, đã có cuộc đời chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến cố xã hội Ông luôn lo lắng cho sự an nguy của nhân dân và mong muốn họ được sống trong cảnh thái bình Để hiểu rõ những thành tựu của ông, tác giả đã chia cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm thành các thời kỳ, kết hợp với những mốc lịch sử quan trọng, từ đó làm nổi bật những công lao to lớn của ông đối với đất nước.

2.3.1 Thời niên thiếu và đi học (1491 – 1509):

Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong giai đoạn tuổi niên thiếu từ 1491 đến 1509, đã sống trong thời kỳ nhà Lê suy đồi, khi mà hình ảnh huy hoàng của các vua Thái Tổ, Thánh Tông chỉ còn là ký ức qua lời kể của ông ngoại và cha mẹ Thực tế, bối cảnh chính trị lúc bấy giờ đầy rẫy đấu tranh quyền lực giữa hai phe nội và ngoại, với sự lên ngôi của con nuôi Kinh phi Nguyễn Thị Đến năm 1509, phe nội do hoàng thân Lê Oanh khởi xướng, được nhiều cựu thần ủng hộ, trong đó có thầy dạy của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lương Đắc Bằng Ở độ tuổi thanh niên, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự tiến thủ và được ảnh hưởng bởi uy tín của thầy học Khi Lê Oanh lên ngôi, ông chú trọng vào thi cử, thu hút sĩ phu với số lượng cống sĩ lên đến 5700 người Tuy nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, với sự nhạy bén chính trị và tư duy chín chắn, đã quyết định không tham gia thi cử, trong khi nhiều sĩ phu khác đã chọn lầm chủ.

2.3.2 Thời kỳ ở ẩn dạy học và tiếp tục học thêm (1510 - 1533)

Từ năm 1510 đến 1520, xã hội Việt Nam trải qua nhiều biến động lớn với kinh tế đình trệ và tình trạng loạn lạc kéo dài Trong bối cảnh này, phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra liên tục và lan rộng khắp cả nước.

Trong bối cảnh xã hội hỗn loạn, triều đình cũng không yên ổn khi liên tiếp xảy ra các cuộc chính biến giữa các tập đoàn phong kiến và phe phái Quyền lực cuối cùng rơi vào tay Mạc Đăng Dung, người được phong chức Quốc công vào năm 1521 Từ đó, ông và đồng minh đã thao túng triều đình, biến Lê Chiêu Tông thành một bù nhìn không có quyền lực thực sự.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung đã giết Lê Chiêu Tông trong khi ông này định ám hại mình và lập Lê Xuân làm vua, nhưng sau đó cũng phế truất để tự lên ngôi Hoàng đế, khởi đầu vương triều Mạc Sự kiện này đã gây ra một biến cố lớn trong xã hội phong kiến, khiến nhiều thần tử trung thành với nhà Lê cảm thấy choáng váng Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm thấy đau đớn trước cảnh tượng đẫm máu và xương trắng, ông mong muốn chấm dứt sự loạn lạc, không còn cảnh nhà cửa bị phá hoại và dân chúng phải chịu đựng cảnh khổ cực Ông đã so sánh các vua như Uy Mục, Tương Dực, Chiêu Tông, Cung Hoàng và những kẻ khác để phản ánh tình hình chính trị hỗn loạn lúc bấy giờ.

Lê Do, Lê Ý, và Lê Duy Linh, những cựu thần nhà Lê, đều không thể sánh bằng Mạc Đăng Dung về tài năng và nhân cách Mặc dù có nhiều thủ lĩnh nổi dậy vào thời điểm đó, nhưng không ai đủ đức đủ tài để mang lại hạnh phúc cho dân Điều đáng chú ý là Nguyễn Bỉnh Khiêm, mặc dù rất khâm phục Mạc Đăng Dung theo gia phả của mẹ, vẫn không ra làm quan dưới triều đại này Sự lựa chọn của ông có thể được lý giải qua bài thơ nôm viết năm 1431, phản ánh rõ tâm trạng của ông.

Người bốn mươi tuổi khoẻ triều quan

Ta bốn mươi tuổi đã được nhàn Miễn theo Phu tử phò thiên tử Thìn lọn nhân gian ở thế gian

Theo Khổng Tử, việc các chư hầu hiếp đáp vua là điều không thể chấp nhận, điều này giải thích tại sao ông không tham gia thi cử dưới triều đại Mạc Đăng Dung, mặc dù ông có thiện cảm với nhân vật này.

2.3.3 Thời kỳ ra thi và làm quan với nhà Mạc ( 1534 - 1542 )

Lớn lên trong thời kỳ suy thoái của nhà Lê, Nguyễn Bỉnh Khiêm chứng kiến sự đố kỵ và bạo lực giữa các phe phái trong triều đình Năm 1572, Mạc Đăng Dung lật đổ nhà Lê và thành lập triều đại mới, khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm phải sống trong ẩn dật và không có cơ hội thể hiện tài năng của mình Mãi đến năm 1535, tình hình mới có cơ hội thay đổi.

45 tuổi, ông mới đi thi Ba lần thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu và đỗ Trạng nguyên

Thời kỳ thịnh vượng nhất của triều Mạc diễn ra dưới sự lãnh đạo của hai vị vua xuất sắc, Mạc Đăng Doanh và Mạc Đăng Dung Sau khi họ qua đời, triều đình rơi vào tình trạng phân hoá, quyền lực rơi vào tay các thế lực đối kháng như anh em Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật và nhóm Nguyễn Kim tại biên giới Lào - Việt Mặc dù đã thất bại trước các thế lực này, Trịnh Ngang và nhóm Nguyễn Kim vẫn tiếp tục cử Trịnh Duy Liệu sang Minh để tố cáo triều Mạc và xin viện trợ, tạo ra nguy cơ mất nước nghiêm trọng Tình hình trở nên phức tạp hơn khi quân Minh do Cừu Loan và Mao Bá Ôn chỉ huy có thể xâm lược Việt Nam với sự dẫn đường của anh em họ Vũ, trong khi Nguyễn Kim và Lê Duy Ninh tấn công từ phía Nam Trước tình thế nguy cấp, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã quyết định hợp tác với triều đình để bảo vệ tổ quốc, thể hiện tinh thần trách nhiệm của một bậc trí thức.

Sau khi đỗ trạng Nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm Đông các hiệu thư, sau đó giữ chức Tả thị lang Bộ hình và thăng chức Tả thị lang Bộ kiêm Đông các đại học sĩ Ông giữ chức vụ này cho đến khi về hưu, điều này được ghi rõ trong dòng lạc khoản Bia Ký quán Trung Tân.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có một con đường thăng tiến sự nghiệp ấn tượng, với việc đỗ đầu trong ba kỳ thi và đạt học vị cao nhất Ông nhanh chóng được đề bạt từ chức Đông các hiệu thư lên Lại bộ Tả thị lang trong suốt 7 năm 3 tháng phục vụ nhà Mạc, điều này chứng tỏ những cống hiến to lớn của ông cho triều đại này.

Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong suốt thời gian làm quan, để lại nhiều tác phẩm thể hiện tâm tư về giặc giã và chiến tranh Qua những tác phẩm này, ông bộc lộ sâu sắc phẩm chất yêu nước và thương dân, đồng thời thể hiện lòng mong mỏi triều đình dẹp loạn, mang lại sự yên ổn cho xã tắc.

“Thương dân ta bị hãm trong đất giặc chiếm đã lâu,

Ai có thể cứu vớt, để thể hiện tấm lòng chi nhân…”

Tám năm sau khi nhậm chức, ông đã dâng sớ yêu cầu xử án 18 quan lộng quyền nhưng không được triều đình chấp thuận Năm 1540, sau khi Mạc Đăng Doanh qua đời, Mạc Phúc Hải lên ngôi, còn Mạc Đăng Dung trở thành thái thượng hoàng Cuối năm đó, Mạc Đăng Dung đã tự trói mình, phục tội trước tướng Minh và cắt đất dâng cho giặc, gây phẫn uất trong lòng dân Trong khi đó, Mạc Phúc Hải ngày càng thể hiện sự hèn kém và truỵ lạc Bất lực trước tình hình, ông đã cáo bệnh xin về quê ẩn dật.

2.3.4 Thời kỳ nghỉ hưu tại quê nhà (1542 - 1585)

Hiện nay, Việt Nam đã xuất hiện hai triều đại đối lập nhau một cách quyết liệt Tại Nam triều, tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh đã gia tăng sức mạnh, với quyền lực thực tế nằm trong tay họ Trịnh Trong khi đó, ở Bắc triều, tình hình chính trị ngày càng trở nên hỗn loạn do sự nổi dậy của quần thần.

Trong thời gian dạy học tại nhà, vua Mạc vẫn tôn trọng và đãi ông bằng những nghi lễ sư Khi triều đình cần ý kiến cho những vấn đề quan trọng, họ thường cử sứ giả đến hỏi ông, thậm chí có khi triệu ông về kinh để thảo luận kế hoạch trước khi ông trở lại am của mình.

Các di tích thờ danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm

2.4.1 Cụm di tích trong đền thờ Danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm 2.4.1.1 Đền thờ chính

Những hiện vật và địa danh liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện còn rất ít do thiên tai và chiến tranh Một trong những di tích quan trọng là ngôi đền thờ Trạng Trình tại xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, được xây dựng sau khi ông qua đời Vua Mạc đã cử Mạc Kinh Điển, chú của vua, cùng các quan chức triều đình đến tham dự lễ tế và truy phong Nguyễn Bỉnh Khiêm làm Lại bộ thượng thư, Thái phó Trình quốc công Để tri ân, vua Mạc đã cấp 3.000 quan tiền và 100 mẫu ruộng cho việc xây dựng đền thờ, với biển ngạch “Mạc triều Trạng nguyên” được treo trước dinh Ông.

Đền Tể tướng từ, nơi thờ phụng quan trạng nguyên Tể tướng triều Mạc, đã trải qua nhiều thăng trầm và hiện chỉ còn lại bia đá ghi dấu ấn lịch sử Theo Phả ký của tiến sĩ Vũ Khâm Lân, vào năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu, người dân đã dựng đền trên nền nhà cũ để tưởng nhớ ân đức của Trạng Bia đá còn lại ghi rõ việc xây dựng đền vào năm Bính Thìn (1736) nhưng đã bị mờ đi nhiều Hiện nay, đền có kiến trúc chữ Đinh (J) với năm gian tiền đường và hai gian hậu cung, thể hiện những nét chạm khắc hoa văn đặc trưng của thời Nguyễn Đền đã được trùng tu vào năm Mậu Thìn (1927), giữ gìn giá trị văn hóa lịch sử.

Theo nhiều ý kiến, đền thờ được xây dựng tại khu vực am Bạch Vân, nơi Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm từng dạy học Am Bạch Vân, theo miêu tả của chính Nguyễn Bỉnh Khiêm, mang một vẻ đẹp và ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử văn hóa Việt Nam.

“ Bạch Vân am bạng Bạch Vân hương Cận tiếp giang lâu đối tịch dương ” dịch

“ Am Bạch Vân giáp làng Bạch Vân, Liền với lầu sông, ngược bóng chiều ”

Lầu sông ở đây chính là quán Trung Tân

Sau nhiều năm chiến tranh, nhiều di vật thờ cúng và di tích liên quan đến danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã bị hư hỏng và thất lạc Từ năm 1985, thành phố Hải Phòng đã tổ chức lễ kỷ niệm và hội thảo về ông, đồng thời tiến hành tôn tạo và sửa chữa di tích đền thờ Đến năm 1991, nhân dịp kỷ niệm 500 năm ngày sinh, khu di tích tiếp tục được nâng cấp Hiện nay, đền thờ Trình Quốc Công đã được Bộ Văn hóa Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - Văn hóa quốc gia Thành phố đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để mở rộng khu di tích, xây dựng tượng đá, quảng trường và hồ bán nguyệt, tạo nên một công trình quy mô lớn, xứng đáng với vị thế của một danh nhân văn hóa thế kỷ XVI.

Có rất nhiều chi tiết đáng chú ý với đền Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện nay được dựng trên những gì còn lại của lịch sử

Dưới mái đền khắc bốn chữ "Như nhật trung thiên", thể hiện sự tôn vinh tài năng và đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong hậu cung, tượng ông được tạo hình bởi nghệ nhân Hoàng Sâm vào năm 1991, thể hiện ông trong trang phục triều đình, ngồi trên ngai và giảng đạo cho học trò Trước đền là hồ Thái Nhâm, với tấm bia đá từ năm Vĩnh Hựu nhà Lê (1736) ghi lại công lao xây dựng đền thờ Trạng, tuy nhiên nhiều chữ trên bia đã mờ theo thời gian.

Giữa đền có bức hoành phi đại tự ghi chữ "An Nam Lý Học", được viết bởi sứ giả nhà Thanh, Chu Xán, khi ông trở về từ Việt Nam Nội dung bức hoành phi nhấn mạnh rằng "Nước An Nam về mặt lý học có Trình tuyển hầu Nguyễn Bỉnh."

Câu nói "Khiêm" đã được ghi chép trong tập Sứ giao ngâm xuất bản tại Trung Quốc Sau này, bác học Lê Quý Đôn đã sang sứ ở Bắc Kinh, nơi ông đã đọc và ghi lại nội dung này.

Ngoài ra còn có một số câu đối khác như:

“ Cổ kim quốc dĩ dân vi bản Tiền hậu dân thủ quốc vi tiên ”

Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc Trước sau dân giữ nước là việc đầu tiên”

Ngôi đền còn gắn với nhiều lời sấm mà sự linh ứng của nó còn truyền tụng trong dân gian Có một huyền thoại được kể lại rằng:

Năm Minh Mạng thứ 14, vua Minh Mạng ra lệnh khai sông Hải Dương, giao cho ông Nguyễn Công Trứ, Tri Huyện Thanh Hà, thực hiện Tuy nhiên, việc cắm mốc địa chính lại trúng vào Đền thờ Cụ Trạng Trình, nơi được coi là linh thiêng Dân chúng không ai dám phá Đền, trong khi ông Trứ cũng phân vân giữa lệnh vua và nguyện vọng của dân Cuối cùng, ông Trứ quyết định sắm nhang đèn vào Đền, vái xin Cụ Trạng Trình hiểu cho hoàn cảnh của mình và cho phép ông thi hành lệnh vua.

Rồi ông Trứ xin chịu hết trách nhiệm cho công việc phá Đền, lúc đó dân quân mới dám phá

Khi đào phá tới cái bệ thờ, thấy hiện ra một tấm bia đá chôn dưới bệ, có chạm khắc bốn câu sau đây:

"Minh Mạng thập tứ, Thằng Trứ phá Đền

Phá Đền thì phải làm đền,

Ông Nguyễn Công Trứ hoảng sợ khi nghe Cụ Trạng Trình gọi đúng tên mình, vì vậy đã ra lệnh cho dân chúng ngừng phá Đền và khôi phục công trình như trước Trong quá trình này, người ta lại phát hiện trên đầu cột cái có khắc bốn hàng chữ.

"Hỏng Đền thì lại làm đền, Rồi sau tìm thấy bạc tiền của ta

Của ông, ông để còn xa,

Ông Tri Huyện Nguyễn Công Trứ sau khi đọc bốn câu thơ đã nảy ra ý tưởng nói lái "CÒN XA" thành "XÀ CON" Khi quan sát các cây xà con đã tháo xuống, ông phát hiện một cây nặng hơn, và khi bửa ra, ông tìm thấy bạc nén Ông dùng số bạc này để xây dựng lại Đền cho Cụ Trạng, thể hiện lòng kính trọng sâu sắc Số bạc còn lại, ông Trứ đã giao cho dân làng Vĩnh Lại để tu bổ các đền chùa trong làng Hiện nay, trước đền có tấm bia lớn ghi ba chữ “Quốc Công Từ”, theo phong thuỷ, nhằm chắn bụi trần và giữ cho luồng khí trong sạch, phù hợp với tâm hồn của danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm Hồ nước bên cạnh là nơi tụ khí của trời và đất.

Am Bạch Vân đã được tái tạo lại sau khi bị tàn phá hoàn toàn, mang đến cái nhìn về cảnh quan vùng Vĩnh Lại thuộc phủ Hạ Hồng, Hải Dương cách đây hơn 400 năm Đây từng là một thắng địa nổi tiếng, đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà thơ, và chỉ còn được nhắc đến qua vài dòng trong cuốn Dư địa chí: “Huyện Vĩnh Lại sông chảy chằng chịt, phía Nam đối ngạn với…”

Quỳnh Côi chảy về phía đông, đổ ra biển Thái Bình, trong khi Hồng Giang bắt đầu từ đầu dòng chảy qua bốn huyện và chảy vào huyện Vĩnh Lại trước khi ra biển Dọc hai bên dòng sông này còn lưu giữ nhiều di tích liên quan đến cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, vẫn tồn tại đến ngày nay.

Hơn 400 năm trôi qua, di sản văn hóa và lịch sử liên quan đến Nguyễn Bỉnh Khiêm tại Am Bạch Vân đã bị thiên nhiên và các biến cố xã hội làm phai mờ.

Am Bạch Vân, nằm sau khu đền Trạng, là nơi Trạng Trình dạy dỗ học trò Theo truyền thuyết địa phương, ngôi đền hiện tại được xây dựng trên nền Am Bạch Vân Tài liệu ghi chép cho biết, khi trở về quê hương, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dựng Am Bạch Vân và lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ, mở trường dạy học bên bờ Tuyết Giang, nơi ông được học trò và sĩ phu tôn xưng là Tuyết Giang Phu Tử.

Am Bạch Vân có quy mô đáng chú ý, được mô tả qua bài thơ Ngụ Hứng: “Một nửa dựa vào chợ quê, nửa dựa vào xóm làng Trong có vườn, có ao khoảng hơn một mẫu.” Chợ nằm ở bến Tang Thịnh, cách đền thờ khoảng 1000 mét về phía tây bắc, trong khi xóm làng bao quanh Am Bạch Vân và Trung Am ở phía Nam đền Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhấn mạnh vẻ đẹp của Am Bạch Vân qua câu thơ: “Vân Am cận tiểu khê tuyền – Mãi đoạn dơ vô phí nhất tiền,” cho thấy vị trí thuận lợi và không gian yên bình của nơi này Khe nước trước đây chảy ở phía bắc và tây nam, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp cho Am Bạch Vân.

Bạch Vân am bạng Bạch Vân hương Cận tiếp giang lâu đối tịch dương Toạ thượng tiếu đàm xuân cảnh hảo Ngôn trung ngân vịnh bút sinh hương

Số bôi minh nguyệt lưu hoa ảnh Bán chẩm thanh phong trúc nha lương

Giá bán ý vi thục nhân tường

Đẩy mạnh công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy vai trò của các di tích thờ

- Cần mang tính hệ thống:

Khu di tích Trạng Trình cần bao gồm cả đền thờ và các di tích khác liên quan đến cuộc đời của Trạng Trình Hiện nay, sự chú ý chủ yếu chỉ tập trung vào đền thờ, trong khi các điểm di tích khác vẫn chưa được quan tâm đúng mức.

- Đảm bảo tính chính xác và chân thực về lịch sử, kiến trúc và văn hoá của di tích:

Khu di tích này không nên mang tính bề thế và hoàng tráng, mà cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong trùng tu và bảo tồn Phong cách thiết kế nên giản dị, thanh thoát nhưng vẫn giữ được sự trang nghiêm Cần tránh lạm dụng màu sắc loè loẹt và các họa tiết cầu kỳ, cũng như không nên thêm vào những yếu tố mà di tích vốn không có.

Vấn đề đóng góp công đức cho ngân sách trùng tu và bảo tồn di tích là cần thiết, đặc biệt khi ngân sách nhà nước còn hạn chế Tuy nhiên, cần có cách nhìn hợp lý hơn về việc ghi nhận những người đóng góp Việc gắn biển tên tại các công trình do họ tài trợ như cổng, tượng hay cột có thể làm mất đi vẻ đẹp chung của khu di tích và dẫn đến xu hướng tài trợ không chân thành Do đó, khuyến khích và ghi nhận hảo tâm của những người đóng góp là rất quan trọng, nhưng cần tìm ra phương pháp phù hợp, có thể tham khảo từ các mô hình thành công ở nhiều nơi.

Trúc, sen, mai, nhài là những loài cây, hoa quen thuộc, gắn bó với hình ảnh làng quê Việt Nam Chúng không chỉ biểu trưng cho cuộc sống thanh bạch, ngay thẳng và cao thượng, mà còn thể hiện trí tuệ và sự trữ tình của những nhà giáo, hiền triết, và thi sĩ, phản ánh cuộc đời và cách sống của các danh nhân.

Tôi đề xuất trồng trúc quanh tượng đài để tạo cảnh quan xanh mát, mang lại cảm giác như một rừng trúc bao quanh, đồng thời che nắng cho du khách đến chiêm ngưỡng Tượng Danh nhân Hồ bán nguyệt nên được thả sen để tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên Vườn cũng nên trồng mai và nhài để làm phong phú thêm không gian Quán Trung Tân nên giữ nét truyền thống với cây đa, gợi nhớ về những bến đò xưa của đồng bằng sông Hồng.

Cần chú trọng đến không gian xung quanh khu di tích, trong bán kính 500 - 700m không nên xây dựng nhà cao tầng hay nhà mái bằng Thay vào đó, khuyến khích xây dựng nhà mái xuôi, ngói vảy, kết hợp với vườn cau và cây ăn quả, vừa tạo cảnh quan đẹp vừa phục vụ tốt cho khách du lịch.

Khu di tích này không chỉ là nơi tưởng niệm mà còn là trung tâm nghiên cứu đầy đủ nhất, tạo thành một công viên lịch sử - văn hóa thực thụ, tương tự như khu di tích của nhà văn Nga nổi tiếng Pút-skin tại Xanh Pê-téc-bua.

3.3 Giải pháp về duy trì và tổ chức lễ hội danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm

Lễ hội trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm có vai trò quan trọng trong việc kết nối yếu tố tâm linh và sinh hoạt cộng đồng, mang lại ý nghĩa lớn cho người dân Sự kiện này không chỉ góp phần phát triển du lịch cho huyện Vĩnh Bảo mà còn trở thành điểm thu hút khách du lịch, tạo cơ hội giao lưu văn hóa và quảng bá nét đẹp truyền thống của địa phương.

Để tham gia tổ chức lễ hội một cách hiệu quả, cần bảo tồn và phát huy những giá trị tích cực của nó Nếu không tổ chức hợp lý, lễ hội sẽ mất đi tính văn hóa truyền thống và sự tôn nghiêm vốn có, ảnh hưởng không chỉ đến huyện Vĩnh Bảo mà còn đến cả thành phố và quốc gia.

Việc tổ chức lễ hội cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, ban ngành để tránh tình trạng hỗn loạn và thương mại hóa, lãng phí Cần loại bỏ những hình ảnh tiêu cực như mê tín dị đoan, ăn xin, nạn móc túi và hàng kém chất lượng Để đạt được điều này, các cấp chính quyền huyện cần hợp tác với nhân dân, tuyên truyền và giáo dục nhằm nâng cao ý thức bảo vệ và phát huy giá trị của lễ hội.

3.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

Cần thiết lập ngay một hệ thống dịch vụ cơ bản đáp ứng nhu cầu của du khách, bao gồm ăn uống, mua sắm, vệ sinh, bãi đỗ xe, cung cấp điện và nước sạch, đảm bảo an ninh trật tự, có dịch vụ y tế và dần dần phát triển cơ sở lưu trú.

Cơ sở lưu trú và ăn uống tại Vĩnh Bảo hiện đang gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến trải nghiệm du lịch của du khách Để cải thiện tình hình, huyện cần có chính sách nâng cấp các nhà nghỉ hiện có và kêu gọi đầu tư xây dựng khu vực lưu trú đạt tiêu chuẩn Với đặc điểm du lịch đồng quê, huyện Vĩnh Bảo có thể triển khai dịch vụ lưu trú tại nhà dân, tạo điều kiện cho du khách cảm nhận gần gũi với văn hóa địa phương và giúp cư dân tăng thu nhập Tuy nhiên, chính quyền cần tổ chức và đảm bảo an toàn, tạo niềm tin cho du khách.

Để thu hút khách du lịch, cần xây dựng những nhà hàng gần gũi với cảnh quan thiên nhiên và mang đậm phong cách thôn quê Thay vì chú trọng vào các món ăn cao cấp, nên tập trung vào các đặc sản địa phương với thực đơn phong phú và đa dạng Quan trọng hơn cả là đảm bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm cho thực khách.

Hệ thống điện đã được đầu tư và nâng cấp từ nguồn vốn thành phố, nhưng hiện tại chỉ đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt của người dân Để hỗ trợ sự phát triển du lịch trong tương lai, cần thiết phải có một hệ thống điện hoàn chỉnh hơn nhằm đảm bảo cung cấp điện ổn định.

Tình trạng sử dụng nước mưa, nước sống và nước giếng tại Vĩnh Bảo đang gây lo ngại lớn do có chứa nhiều tạp chất và vi khuẩn, không đảm bảo an toàn vệ sinh.

Xây dựng cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch

Cần khẩn trương thiết lập một hệ thống dịch vụ tối thiểu cho du khách, bao gồm các yếu tố như ăn uống, mua sắm, khu vực vệ sinh, bãi đỗ xe, cung cấp điện và nước sạch, đảm bảo an ninh trật tự, có dịch vụ y tế, và hướng tới việc phát triển cơ sở lưu trú.

Cơ sở lưu trú và ăn uống tại huyện Vĩnh Bảo hiện đang gặp nhiều vấn đề, ảnh hưởng đến trải nghiệm du khách Để cải thiện tình trạng này, huyện cần có chính sách nâng cấp các nhà nghỉ hiện có và kêu gọi đầu tư xây dựng khu vực lưu trú đạt tiêu chuẩn Đồng thời, với đặc điểm du lịch đồng quê, huyện có thể triển khai mô hình đón khách tại nhà dân, giúp du khách cảm nhận sự gần gũi và tạo thêm nguồn thu nhập cho người dân địa phương Chính quyền cần tổ chức và đảm bảo an toàn, tạo niềm tin cho du khách.

Cần phát triển các nhà hàng gần gũi với cảnh quan tự nhiên, mang đậm nét thôn quê và phục vụ các món đặc sản địa phương Thực đơn nên phong phú, đa dạng, tập trung vào hương vị truyền thống thay vì các món ăn xa lạ Đặc biệt, yếu tố vệ sinh và an toàn thực phẩm phải được đảm bảo tối đa.

Hệ thống điện đã được đầu tư và nâng cấp từ nguồn vốn của thành phố, nhưng hiện tại chỉ đáp ứng đủ nhu cầu sinh hoạt của người dân Để hỗ trợ sự phát triển du lịch trong tương lai, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống điện nhằm đảm bảo cung cấp điện ổn định.

Tại Vĩnh Bảo, một vấn đề nghiêm trọng là tình trạng sử dụng nước mưa, nước sống và nước giếng có chứa nhiều tạp chất và vi khuẩn, gây ra mối lo ngại lớn về an toàn vệ sinh.

Nước thải sinh hoạt và sản xuất đang gây ô nhiễm nghiêm trọng khi chảy thẳng ra mương, ao hồ Do đó, việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải và cung cấp nước sạch là cần thiết Ưu tiên ban đầu sẽ dành cho các khu vực có tiềm năng phát triển du lịch, từ đó sử dụng nguồn vốn thu được từ du lịch để nâng cấp và phát triển toàn diện hệ thống cấp nước phục vụ người dân.

Để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại trung tâm y tế huyện, cần đầu tư vào trang thiết bị hiện đại và đội ngũ cán bộ y, bác sĩ có chuyên môn Đồng thời, cần có chính sách ổn định nhằm đảm bảo cuộc sống cho những cán bộ y tế này, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho họ cống hiến và phục vụ tốt nhất cho cộng đồng.

Xây dựng hệ thống vệ sinh sạch sẽ tại khu du lịch đền trạng và các khu dịch vụ khác trên cả nước là rất quan trọng Hầu hết các công trình sau khi hoàn thành thường ít chú trọng đến khu vực vệ sinh cho khách, mặc dù đây là nhu cầu tự nhiên và cần thiết Việc giải quyết vấn đề vệ sinh không chỉ giúp tránh tình trạng phóng uế bừa bãi mà còn bảo vệ mỹ quan, duy trì tính tôn nghiêm và đảm bảo môi trường trong sạch.

Khu di tích cần có các mặt hàng lưu niệm độc đáo như huy hiệu danh nhân, tranh khắc gỗ, sách và ảnh nhỏ với bao bì hấp dẫn để thu hút du khách Hiện tại, du khách khó tìm thấy sản phẩm đặc trưng của Vĩnh Bảo, mặc dù nơi đây nổi tiếng với các sản phẩm truyền thống như dệt, rối, đèn trời, thuốc lào, bánh đa, và rượu Bạch Vân Hương Để cải thiện tình trạng hàng lưu niệm nghèo nàn, cần phát huy truyền thống địa phương, có chính sách hợp lý và sự hỗ trợ từ chính quyền Việc này không chỉ đáp ứng nhu cầu du lịch mà còn tăng thu nhập và bảo tồn văn hóa địa phương.

Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển du lịch

Danh từ “đội ngũ phục vụ” ở đây mới nghe có vẻ hình thức và khoa trương

Vì trong thực tế họ chỉ là những ông thợ điện, bà giúp việc Nhưng chúng ta vẫn phải hiểu và sử dụng thuật ngữ này

Đội ngũ phục vụ cần phải tận tuỵ, gắn bó, chân thành và dung dị để tạo dựng ấn tượng tốt đẹp cho khách tham quan Những phẩm chất này kết hợp với khung cảnh khu di tích sẽ khơi dậy sự ngưỡng mộ và trân trọng từ du khách Đội ngũ phục vụ đảm nhận hai nhiệm vụ chính trong việc nâng cao trải nghiệm của khách.

- Nhóm quản lý: Bao gồm quản lý, tài chính, bảo vệ, bảo tồn, sửa chữa nhỏ, tạp vụ vệ sinh vườn hoa cây cảnh

- Nhóm dịch vụ: Bao gồm hướng dẫn viên, bán hàng lưu niệm, sách, trông coi xe ô tô, xe máy cho khách

Chức danh hướng dẫn viên đóng vai trò quan trọng trong việc truyền tải thông tin về Danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm và lịch sử Vĩnh Bảo đến du khách Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, huyện Vĩnh Bảo cần có chính sách hợp lý, tổ chức các lớp học thường xuyên do chuyên gia giảng dạy, và tuyển chọn thanh niên có tâm huyết, năng khiếu trong lĩnh vực hướng dẫn du lịch Đội ngũ này cũng cần được tiếp cận với các nhà khoa học nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm để có kiến thức chính xác Đối với khách quốc tế, chính quyền địa phương nên phát triển chương trình đào tạo hướng dẫn viên thành thạo tiếng Anh, Pháp nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan ngày càng tăng.

Để đạt được những mục tiêu đó, chính quyền địa phương cần xây dựng một kế hoạch chi tiết nhằm tạo niềm tin và sự ổn định cho người lao động Chỉ khi có những điều này, người lao động mới có thể gắn bó lâu dài với nghề nghiệp của mình.

Đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch

Để quảng bá hiệu quả, cần xây dựng một chiến lược và kế hoạch dài hạn với sự đầu tư lớn Các hình thức truyền thông như sách, tập gấp, sơ đồ hướng dẫn, phim ảnh và bài viết cần được sử dụng, đồng thời đưa tin thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng nhiều ngoại ngữ Việc giới thiệu Khu di tích có thể được tích hợp vào các cụm du lịch Vĩnh Bảo, tuyến du lịch phía Nam thành phố, cũng như trong tài liệu hướng dẫn chung của du lịch Hải Phòng và quốc gia.

Quảng bá sản phẩm cần được thực hiện ngay từ đầu và với sự kiên trì Việc này không nên xem là một nhiệm vụ phụ, mà nên được coi là một khoản đầu tư thiết yếu, tương tự như đầu tư vào cơ sở hạ tầng.

Hiện nay, tài liệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu phục vụ cho nghiên cứu, chưa có tài liệu phổ biến cho du khách và chưa được dịch sang tiếng nước ngoài Do đó, cần khẩn trương biên soạn hệ thống hoá tư liệu với nội dung đơn giản, ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với trình độ của đại bộ phận du khách Tài liệu cần được in đẹp, tiện dụng và phát hành đa dạng để tiếp cận rộng rãi hơn.

Thành lập một website chuyên về danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ tạo ra một thư viện trực tuyến cung cấp thông tin đầy đủ và chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của ông Điều này giúp du khách ở bất kỳ đâu cũng có thể dễ dàng tìm hiểu và khám phá những giá trị văn hóa mà Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại.

Thu hút nguồn vốn đầu tư cho phát triển du lịch

Để phát triển du lịch tại các di tích thờ danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm, cần xây dựng chiến lược đầu tư đồng bộ, tận dụng tối đa nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, địa phương và các nguồn lực bên ngoài Bên cạnh nguồn vốn từ hoạt động công đức của nhân dân và khách du lịch, cần huy động thêm từ cá nhân, tổ chức và vay ngân hàng để đầu tư vào cơ sở lưu trú, ăn uống, nhà hàng và khách sạn Việc thu hút đầu tư lớn này đòi hỏi một lộ trình cụ thể, đồng thời nguồn vốn huy động phải được sử dụng minh bạch, hiệu quả để tránh lãng phí.

3.8 Đa dạng hoá nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch

Khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cần được nhìn nhận độc lập, tuy nhiên, để thu hút du khách quốc tế, cần có kế hoạch phát triển quy mô lớn hơn Khu di tích này nên trở thành một phần trong tuyến du lịch với ít nhất 3-4 điểm tham quan khác biệt và hấp dẫn Việc xây dựng một tuyến du lịch đa dạng sẽ giúp nâng cao sức hút của khu di tích đối với cả khách du lịch trong và ngoài nước.

- Khu di tích Trạng Trình tại thôn Trung Am, xã Lý Học

- Xã Nhân Hoà với đình Nhân Mục, múa rối nước ở miếu Cựu Điện, thả diều sáo và đèn trời

Xã Đồng Minh nổi tiếng với nghề tạc tượng và biểu diễn múa rối cạn tại miếu Bảo Hà Để thu hút du khách đến khu di tích Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, cần thực hiện một số biện pháp quan trọng Việc kết nối khu di tích với các khu du lịch văn hóa của Vĩnh Bảo sẽ giúp tăng cường sức hấp dẫn và thu hút đông đảo khách tham quan.

Điểm du lịch Đồng Minh nổi bật với nghề tạc tượng truyền thống, nơi có miếu Cả và chùa Miễu Làng nghề này nổi tiếng với hệ thống tượng thờ phong phú, đa dạng và lâu đời, mang giá trị văn hóa đặc sắc Thành phố đã đầu tư khôi phục tượng thành hoàng với hình dáng có thể đứng lên ngồi xuống, đồng thời phát triển các sản phẩm trưng bày tượng Ngoài ra, đội múa rối cạn bán chuyên cũng được thành lập, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm văn hóa tại đây.

Xã Nhân Hoà là một điểm du lịch hấp dẫn với cụm kiến trúc đặc trưng của đồng bằng sông Hồng, bao gồm đình Nhân Mục, các nhà thờ họ và những ngôi nhà cổ bằng gỗ với mái lợp ngói vẩy Tại đây, du khách có thể chiêm ngưỡng những ngôi nhà tiêu biểu lợp rạ, vách đất, cùng với cổng, vườn, cối xay lúa, cối giã gạo, và các dụng cụ canh tác như cày, bừa, cuốc, thuổng Ngoài ra, xã còn tổ chức cơ sở sản xuất con giống từ xơ mướp, rơm, rạ, tre, gỗ, cùng với đội múa rối nước bán chuyên tại Cựu Điện, tạo nên một trải nghiệm văn hóa phong phú cho du khách.

Chính 2 điểm du lịch này sẽ hỗ trợ làm tăng sức hấp dẫn của du lịch Vĩnh Bảo mà trọng điểm, trung tâm là Khu di tích Danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm Nếu chỉ có Khu di tích thì sản phẩm du lịch sẽ đơn điệu

Kế hoạch phát triển sẽ bao gồm việc mở rộng các điểm đình như Quán Khái và An Quí với kiến trúc độc đáo, cũng như cầu Nghinh Phong và cầu Trường Xuân được xây dựng bằng đá Đồng thời, sẽ tổ chức các hoạt động giới thiệu về canh tác lúa nước và trải nghiệm du thuyền trên kênh đào Chanh Dương, cũng như dòng sông Tuyết Giang.

3.9 Nâng cao ý thức người dân về du lịch

Nâng cao nhận thức của cư dân huyện Vĩnh Bảo về du lịch là nhiệm vụ cấp thiết và lâu dài Để bảo vệ và gìn giữ các di tích lịch sử văn hóa, cần thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và định hướng cho người dân trong việc bảo tồn di sản.

Chuẩn bị cho người dân những kiến thức cần thiết về giá trị của di tích, nghi lễ và trò chơi là rất quan trọng Người dân Vĩnh Bảo tự hào về vùng đất hiếu học và nhiều nhân tài, vì vậy cần có sự hỗ trợ từ chính quyền để bảo tồn và phát triển truyền thống văn hóa này.

Chính quyền và các ban quản lý di tích cần tích cực tuyên truyền để nâng cao ý thức bảo vệ an toàn cho khách du lịch, cũng như tài sản của họ Việc xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh là rất quan trọng, bao gồm việc không làm hủy hoại môi trường tự nhiên và không xả rác bừa bãi tại các khu vực công cộng hay di tích.

Vận động giáo dục cộng đồng giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống quê hương là rất cần thiết Cần xây dựng các tập tục lành mạnh, loại bỏ mê tín dị đoan, bói toán và việc đốt vàng mã tại các lễ hội và di tích Những hành động này không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn làm hư hại các di tích, đặc biệt là những di tích bằng gỗ.

Người dân địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa tại các di tích và lễ hội, đồng thời họ cũng là cầu nối trực tiếp với khách du lịch Hành vi, ứng xử và thái độ của họ có ảnh hưởng lớn đến tâm lý của du khách Do đó, chính quyền địa phương và ban quản lý di tích cần nhận thức rõ điều này, đồng thời có những chính sách khích lệ và ưu đãi kịp thời cho người dân nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức lễ hội.

Xây dựng nếp sống văn minh và lịch sự, đồng thời ngăn chặn tệ nạn xã hội là rất cần thiết Việc tuyên truyền và nâng cao ý thức du lịch cho cư dân địa phương tại các di tích lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cảnh quan và tài nguyên du lịch Để hiểu rõ hơn về giá trị của các di tích này trong hoạt động du lịch, đội ngũ lãnh đạo địa phương và quản lý di tích cần đưa chương trình giảng dạy về lịch sử và địa lý vào các trường đại học, từ đó nâng cao nhận thức và phục vụ tốt hơn cho ngành du lịch.

3.10 Hoàn thiện cơ chế chính sách về du lịch, tăng cường quản lý nhà nước về du lịch

Quản lý cần thực hiện kiểm tra định kỳ các cơ sở dịch vụ ăn nghỉ tại huyện Vĩnh Bảo, đồng thời áp dụng các biện pháp khuyến khích và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển lĩnh vực này.

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư, hỗ trợ đầu tư phát triển

Huyện thành lập ban chỉ đạo chương trình kinh tế du lịch, có nhiệm vụ phân công cho các xã lập kế hoạch chi tiết cho từng ngành nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế du lịch toàn huyện Ban chỉ đạo cũng sẽ kiểm tra và đôn đốc các cơ quan, đơn vị và địa phương trong quá trình thực hiện kế hoạch.

Hoàn thiện cơ chế chính sách về du lịch, tăng cường quản lý nhà nước về du lịch

Quản lý cần thường xuyên kiểm tra các cơ chế dịch vụ ăn nghỉ của khách tại huyện Vĩnh Bảo và thực hiện các biện pháp nhằm tạo điều kiện, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.

Xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích các nhà đầu tư, hỗ trợ đầu tư phát triển

Huyện sẽ thành lập ban chỉ đạo thực hiện chương trình kinh tế du lịch, có nhiệm vụ phân công các xã lập kế hoạch chi tiết cho từng ngành nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế du lịch toàn huyện Ban chỉ đạo cũng sẽ kiểm tra và đôn đốc các cơ quan, đơn vị và địa phương trong quá trình thực hiện chương trình này.

Chương trình phát triển kinh tế du lịch cần được thực hiện theo từng giai đoạn, huy động nhiều nguồn vốn dựa trên kế hoạch cụ thể của các ngành Kết quả và sai sót trong quá trình thực hiện phải được báo cáo cho Uỷ Ban Nhân Dân huyện để có phương án phù hợp và triển khai kế hoạch cho các giai đoạn tiếp theo.

Để bảo vệ di tích và giữ gìn văn hóa địa phương, cần thiết phải có chiến lược khai thác du lịch bền vững Lượng khách du lịch đông đảo tại các điểm tham quan có thể dẫn đến suy thoái nhanh chóng và làm mất đi những giá trị văn hóa tốt đẹp.

Phát triển bền vững là quá trình đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến thế hệ tương lai Để đạt được điều này, việc khai thác tài nguyên cần phải hạn chế các tác động tiêu cực và áp dụng các giải pháp hiệu quả Chúng ta không nên chỉ chạy theo lợi ích ngắn hạn mà quên đi việc bảo vệ và tôn tạo môi trường, vì sự phát triển hôm nay nếu không bền vững có thể gây hại cho sự phát triển của ngày mai.

Các kiến nghị khác

Huyện Vĩnh Bảo nổi tiếng với nhiều làng nghề truyền thống độc đáo, thu hút sự quan tâm của du khách Nghề tạc tượng sơn mài gắn liền với nghệ thuật múa rối nước, một di sản văn hóa đặc sắc của Việt Nam, được biết đến rộng rãi qua các buổi biểu diễn quốc tế Để trải nghiệm trọn vẹn, du khách nên đến thôn Bảo Hà, Đồng Minh, nơi nghệ nhân tạo ra những con rối độc đáo và chứng kiến múa rối nước trong không gian thôn quê Ngoài ra, người dân Vĩnh Bảo còn nổi tiếng với nghề làm đèn trời và pháo đất, đặc biệt trong dịp Tết Một ngành nghề khác cũng rất đáng chú ý là dệt lụa ở làng Cổ Am, từng thịnh vượng cách đây 20 năm, khi tiếng lách cách của khung cửi vang vọng khắp làng, với hình ảnh các cô gái cần mẫn bên khung cửi trong những ngôi nhà truyền thống.

Các làng Am vẫn bảo tồn nhiều ngôi nhà gỗ cổ hàng trăm năm tuổi, là di sản quý báu từ ông cha để lại Sự gìn giữ này thể hiện nếp sống và ý thức của thế hệ sau về tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa và di sản của tổ tiên.

Vĩnh Bảo, với những mảnh ghép văn hóa độc đáo, hứa hẹn sẽ trở thành một điểm du lịch hấp dẫn không kém gì các địa danh nổi tiếng khác Việc phục dựng các yếu tố truyền thống như cổng làng, sân vườn, bể nước, và bài trí nội thất với khung cửi cùng các vật dụng mang đậm dấu ấn xưa sẽ tạo nên trải nghiệm du lịch đặc sắc Du khách sẽ thích thú khi mua sắm những sản phẩm như khăn dệt hay con rối, chứng kiến quá trình sản xuất từ đầu đến cuối.

Hải Phòng, vùng đất gắn liền với lịch sử và những chiến công chống xâm lược, nổi bật với biển xanh cát trắng và các làng nghề truyền thống, nơi con người đầy nhiệt huyết sinh sống Tấm gương Nguyễn Bỉnh Khiêm là một phần không thể thiếu trong tâm thức người dân đất Cảng, thể hiện tư duy triết học và ước mơ về một xã hội thái bình cho nhân dân Ông được xem là một hiện tượng hiếm có trong văn hóa Việt Nam, vừa là nhà thơ, nhà tư tưởng, vừa là một người thầy danh tiếng Trong bối cảnh lịch sử khó khăn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cống hiến cả đời mình cho giáo dục và giúp đỡ dân tộc, vì vậy ông được tôn vinh với danh hiệu cao quý Tuyết Giang Phu Tử, tương tự như Khổng Khâu ở Trung Quốc Điều này cho thấy tầm ảnh hưởng văn hóa to lớn của ông trong thời kỳ đó.

Tinh thần Tuyết Giang Phu Tử vẫn sống mãi trong lòng người dân Vĩnh Bảo và Hải Phòng, dù trải qua hàng trăm năm thăng trầm Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để phát huy những giá trị này, khi mà di sản về ông không còn nhiều Các di tích hiện còn như Quán Trung Tân, Chùa Mét, Đền thờ chính, Chùa Song Mai và Am Bạch Vân có thể là nền tảng để phát triển một trung tâm văn hóa và du lịch xứng tầm cho thành phố Hải Phòng.

Nhân dân Vĩnh Bảo cần nỗ lực nâng cao cơ sở vật chất và môi trường du lịch, đồng thời đào tạo lao động về số lượng và chất lượng Mục tiêu là phát triển du lịch tại cụm di tích Nguyễn Bỉnh Khiêm thành ngành kinh tế chính, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang dịch vụ, qua đó nâng cao đời sống cho người dân.

Sự phát triển nhanh chóng trong thời đại công nghiệp hiện nay đang đặt các giá trị văn hoá tại Hải Phòng trước nguy cơ xuống cấp và mất mát Bảo tồn và phát huy các giá trị tài nguyên nhân văn trở thành nhiệm vụ quan trọng không chỉ của mỗi quốc gia mà còn là mục tiêu chung của nhân loại Các di tích lịch sử văn hoá không chỉ là yếu tố cấu thành văn hoá dân tộc mà còn là bộ phận thiết yếu trong môi trường sống, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch Việc kết hợp giá trị truyền thống với hiện tại và tương lai đang là định hướng chung để phát triển du lịch trên toàn quốc.

1 Trần Thuý Anh và nhóm tác giả Ứng xử văn hoá trong du lịch, Nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội

2 Các văn bản báo cáo, tờ gấp liên quan đến hoạt động xúc tiến quảng bá phát triển du lịch tại di tích thờ danh nhân văn hoá nguyễn Bỉnh Khiêm

4.Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am – nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh

5 Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - kỉ yếu Hội nghị khoa học nhân 400 mất - Hải Phòng, 1991

6 Luật du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2006

7 Luật Di sản Văn hoá và văn bản hiến chương thi hành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003

8 Tạp chí sáng tác nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật Hải Phòng, Cửa Biển - số 69 + 70, 2003, bài viết Nơi lưu dấu Trạng Trình – Phương Huyền

9 Tiến sĩ Phạm Từ, Du lịch đâu chỉ là ăn chơi, nhà xuất bản hội nhà văn, 2010

10 PGS – TS Trần Đức Thanh, Nhập môn khoa học du lịch, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006

11 PTS Nguyễn Minh Tuệ và nhóm tác giả, Địa lý du lịch, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1999

12 Văn hoá văn nghệ dân gian Hải Phòng, nhà xuất bản Hải Phòng,2001

13 Bùi Thị Hải Yến, Tài nguyên Du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009

14 Bùi Thị Hải Yến, Quy hoạch Du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009

15 Website: http://haiphong.gov.vn

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:51

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Trần Thuý Anh và nhóm tác giả Ứng xử văn hoá trong du lịch, Nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ứng xử văn hoá trong du lịch
Tác giả: Trần Thuý Anh, nhóm tác giả
Nhà XB: Nhà xuất bản Quốc gia Hà Nội
4.Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am – nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1997, tác giả Nguyễn Khuê Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Bỉnh Khiêm qua Bạch Vân Am
Nhà XB: nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh 1997
5. Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - kỉ yếu Hội nghị khoa học nhân 400 mất - Hải Phòng, 1991 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm - kỉ yếu Hội nghị khoa học nhân 400 mất
6. Luật du lịch Việt Nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật du lịch Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản chính trị Quốc gia
Năm: 2006
7. Luật Di sản Văn hoá và văn bản hiến chương thi hành, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Di sản Văn hoá và văn bản hiến chương thi hành
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
10. PGS – TS Trần Đức Thanh, Nhập môn khoa học du lịch, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn khoa học du lịch
Nhà XB: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
13. Bùi Thị Hải Yến, Tài nguyên Du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tài nguyên Du lịch
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
14. Bùi Thị Hải Yến, Quy hoạch Du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy hoạch Du lịch
Tác giả: Bùi Thị Hải Yến
Nhà XB: Nhà xuất bản Giáo dục
Năm: 2009
2. Các văn bản báo cáo, tờ gấp liên quan đến hoạt động xúc tiến quảng bá phát triển du lịch tại di tích thờ danh nhân văn hoá nguyễn Bỉnh Khiêm Khác
11. PTS Nguyễn Minh Tuệ và nhóm tác giả, Địa lý du lịch, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1999 Khác
12. Văn hoá văn nghệ dân gian Hải Phòng, nhà xuất bản Hải Phòng,2001 Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w