1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn làng nghề truyền thống và ý nghĩa đối với vấn đề phát triển du lịch ở tỉnh ninh bình

84 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Luận Văn Làng Nghề Truyền Thống Và Ý Nghĩa Đối Với Vấn Đề Phát Triển Du Lịch Ở Tỉnh Ninh Bình
Tác giả Trần Thị Kim Cúc
Người hướng dẫn Th.s Lê Thanh Tùng
Trường học Đại học Dân Lập Hải Phòng
Chuyên ngành Văn hóa du lịch
Thể loại khóa luận
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hải Phòng
Định dạng
Số trang 84
Dung lượng 1,38 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NINH BÌNH (7)
    • 1.1. Làng nghề và làng nghề truyền thống (7)
      • 1.1.1. Khái niệm làng nghề (7)
      • 1.1.2. Khái niệm làng nghề truyền thống (8)
    • 1.2. Du lịch làng nghề truyền thống (9)
    • 1.3. Điều kiện phát triển du lịch làng nghề truyền thống (10)
    • 1.4. Mối quan hệ giữa việc phát triển du lịch và các làng nghề truyền thống 8 1.5. Làng nghề truyền thống Việt Nam (11)
    • 1.6. Tiểu kết (17)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỈNH (18)
    • 2.1. Tiềm năng du lịch Ninh Bình (18)
    • 2.2. Làng nghề truyền thống tỉnh Ninh Bình (23)
      • 2.2.1. Quá trình hình thành các làng nghề truyền thống Ninh Bình (23)
      • 2.2.2. Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Ninh Bình (26)
      • 2.2.3. Thực trạng phát triển làng nghề và du lịch làng nghề truyền thống Ninh Bình (28)
      • 2.2.4. Các tiêu chí đánh giá chung (32)
    • 2.3. Thực trạng làng nghề và du lịch tại các làng nghề tiêu biểu (34)
      • 2.3.1. Làng mỹ nghệ cói Kim Sơn (34)
    • 2.4. Nhận xét chung (59)
  • CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NINH BÌNH (61)
    • 3.1. Mục tiêu và định hướng phát triển (61)
      • 3.1.1. Định Hướng (61)
      • 3.1.2. Mục Tiêu (62)
      • 3.1.3. Chỉ tiêu cụ thể (62)
    • 3.2. Định hướng chung về phát triển làng nghề và du lịch làng nghề truyền thống Ninh Bình (63)
      • 3.2.1. Đẩy mạnh công tác bảo tồn làng nghề truyền thống (63)
      • 3.2.2. Đầu tư xây dựng phát triển làng nghề và du lịch làng nghề truyền thống (0)
      • 3.2.3. Đầu tư để xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ phát triển làng nghề và du lịch làng nghề (0)
      • 3.2.4. Đa dạng hóa sản phẩm du lịch làng nghề (65)
      • 3.2.5. Tăng cường hoạt động quảng bá, quảng cáo cho du lịch làng nghề truyền thống (66)
      • 3.2.6. Phát triển nguồn nhân lực tại các làng nghề truyền thống (68)
    • 3.3. Giải pháp chung cho các làng nghề (69)
  • KẾT LUẬN (74)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LÀNG NGHỀ VÀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NINH BÌNH

Làng nghề và làng nghề truyền thống

Từ xa xưa, nền sản xuất nông nghiệp đã thúc đẩy cư dân Việt cổ sống quần tụ, hình thành các làng xã đông đúc Trong mỗi làng xã, cư dân đã sản xuất các mặt hàng thủ công, từ đó tạo ra những làng nghề truyền thống và truyền nghề qua các thế hệ Đề tài về làng nghề truyền thống rất thú vị và đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà văn hóa nghiên cứu.

Theo Tiến sĩ Phạm Côn Sơn trong cuốn “Làng nghề truyền thống Việt Nam”, làng nghề được định nghĩa là một đơn vị hành chính cổ xưa, nơi cư trú đông người với sinh hoạt có tổ chức và kỷ cương riêng Làng nghề không chỉ là nơi chuyên môn hóa nghề nghiệp mà còn là cộng đồng những người cùng nghề sống hòa thuận để phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự kết hợp giữa làm ăn tập thể, phát triển kinh tế, và gìn giữ bản sắc dân tộc cùng những đặc trưng địa phương.

Trong cuốn sách “Bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tiến sĩ Dương Bá phân tích tầm quan trọng của việc bảo tồn các làng nghề truyền thống trong bối cảnh kinh tế hiện đại Ông nhấn mạnh rằng việc kết hợp giữa bảo tồn văn hóa và phát triển kinh tế là cần thiết để duy trì bản sắc địa phương và tạo ra giá trị kinh tế bền vững.

Phƣợng định nghĩa rằng làng nghề là những làng nông thôn có một hoặc nhiều nghề thủ công hoạt động độc lập, tách biệt với ngành công nghiệp Giá trị kinh tế từ các làng nghề này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị của toàn bộ làng.

Làng nghề được phân loại theo thời gian thành hai loại: làng nghề truyền thống và làng nghề mới Bài viết này sẽ tập trung vào việc tìm hiểu định nghĩa của làng nghề truyền thống, vì nó đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 5

1.1.2 Khái niệm làng nghề truyền thống

Hiện nay, khái niệm về làng nghề truyền thống chưa được thống nhất, nhưng có thể hiểu làng nghề truyền thống là những làng cổ chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, làng nghề được định nghĩa là

Làng nghề không chỉ nổi bật với các hoạt động trồng trọt và chăn nuôi, mà còn phát triển một nghề truyền thống tinh xảo, với đội ngũ thợ thủ công chuyên nghiệp Họ thực hiện quy trình công nghệ nhất định, sống chủ yếu bằng nghề thủ công, sản xuất các mặt hàng mỹ nghệ có giá trị hàng hóa Những sản phẩm này không chỉ phục vụ thị trường địa phương mà còn mở rộng ra thị trường đô thị, thủ đô và có khả năng xuất khẩu ra nước ngoài.

Làng nghề truyền thống không chỉ bao gồm những người dân chuyên sản xuất thủ công, mà còn có những nông dân làm nghề phụ trong thời gian nông nhàn Sự chuyên môn hóa cao đã dẫn đến việc hình thành những thợ thủ công chuyên nghiệp, sản xuất hàng thủ công ngay tại quê hương Nghiên cứu về làng nghề thủ công truyền thống cần xem xét một cách hệ thống và toàn diện, với các yếu tố quyết định như nghệ nhân, sản phẩm thủ công, phương pháp kỹ thuật sản xuất và nghệ thuật.

Làng nghề thủ công truyền thống là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi tập hợp các nghệ nhân và hộ gia đình có nghề truyền thống lâu đời Các sản phẩm được sản xuất và tiêu thụ theo hình thức phường hội, với sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên Hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ, cùng với các hoạt động bán lẻ, đều tuân thủ theo những quy tắc và giá trị văn hóa của tổ nghề.

Sinh viên Trần Thị Kim Cúc, lớp VH1003, ĐHDLHP, nhấn mạnh rằng ước mơ, chế độ và gia tộc, cùng với phường nghề, đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển lịch sử, hình thành nghề nghiệp ngay tại nơi cư trú của họ.

Làng nghề thủ công truyền thống thường có đông đảo dân cư tham gia vào các nghề cổ truyền, với nhiều nơi có 100% dân số làm nghề thủ công hoặc một số dòng họ chuyên làm nghề lâu đời, truyền từ cha sang con Sản phẩm của họ không chỉ có tính ứng dụng cao mà còn mang lại sự độc đáo, ấn tượng và tinh xảo.

Hiện nay, làng nghề đã trở thành một đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp quan trọng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội Sự phát triển này không chỉ nâng cao đời sống của người dân mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng.

Du lịch làng nghề truyền thống

Du lịch làng nghề truyền thống là một khái niệm còn mới mẻ tại Việt Nam, thuộc loại hình du lịch văn hóa đặc sắc.

Du lịch làng nghề truyền thống đang thu hút sự quan tâm của nhiều du khách trong và ngoài nước, đặc biệt trong bối cảnh cuộc sống hiện đại đầy căng thẳng Xu hướng này phản ánh nhu cầu trở về với giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Với sự gia tăng nhu cầu khám phá các miền nông thôn và làng nghề, du lịch làng nghề truyền thống đã trở thành một lựa chọn hấp dẫn Để hiểu rõ hơn, trước tiên cần định nghĩa về du lịch văn hóa.

Theo Tiến sĩ Trần Nhạn trong: “Du lịch và kinh doanh du lịch” thì:

Du lịch văn hóa là hình thức du lịch giúp du khách khám phá bề dày lịch sử và di sản văn hóa thông qua các di tích, lễ hội và phong tục tập quán Điều này bao gồm các hệ thống đình, chùa, nhà thờ, cùng với những nét đặc trưng trong ẩm thực, trang phục và giao tiếp Đặc biệt, làng nghề truyền thống không chỉ lưu giữ kinh nghiệm kỹ thuật và bí quyết nghề nghiệp mà còn phản ánh văn hóa phi vật thể qua việc sử dụng nguyên liệu và kỹ thuật chế tác để tạo ra sản phẩm thủ công độc đáo.

Sinh viên Trần Thị Kim Cúc, lớp VH1003, ĐHDLHP, nhấn mạnh tầm quan trọng của các giá trị văn hóa vật thể như đình, chùa và các di tích liên quan đến làng nghề Những sản phẩm thủ công truyền thống từ các làng nghề này không chỉ thể hiện nghệ thuật mà còn góp phần bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc.

Du lịch làng nghề truyền thống thu hút khách du lịch bởi giá trị văn hóa đặc sắc Đây là một loại hình du lịch văn hóa, cho phép du khách khám phá và tìm hiểu sâu về các nghề thủ công truyền thống.

Du lịch làng nghề truyền thống là hình thức du lịch văn hóa, giúp du khách khám phá và trải nghiệm các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể gắn liền với các làng nghề cổ truyền của các dân tộc.

Điều kiện phát triển du lịch làng nghề truyền thống

Xu hướng du lịch hiện nay ngày càng chú trọng đến giá trị văn hóa cổ xưa, vì vậy phát triển du lịch làng nghề trở nên cần thiết Điều này không chỉ mang lại lợi ích cho ngành du lịch mà còn giúp phát triển kinh tế địa phương, tạo ra nhiều việc làm cho người dân và cải thiện đời sống cộng đồng Hơn nữa, việc phát triển du lịch làng nghề còn góp phần bảo tồn và phát huy các làng nghề thủ công truyền thống, giữ gìn những nét đẹp văn hóa độc đáo của dân tộc.

Làng nghề truyền thống là một tài nguyên du lịch văn hóa quý giá Để phát triển du lịch tại các làng nghề này, cần đảm bảo những điều kiện nhất định.

Trước hết phải có những điều kiện tồn tại và phát triển làng nghề:

Việc thuận tiện cho giao thương là yếu tố then chốt giúp một làng nghề phát triển, bởi vị trí gần các tuyến đường giao thông sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và kết nối với các khu vực khác.

- Gần nguồn nguyên liệu để có thể liên tục phát triển sản xuất

- Lao động và tập quán sản xuất của từng vùng

Muốn du lịch làng nghề truyền thống phát triển cần những điều kiện sau:

- Làng nghề đó phải có sản phẩm độc đáo, đặc trưng

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 8

- Gần các danh lam thắng cảnh để có thể kết nối tour du lịch

- Phải có các cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch.[TLVH 178,tr8]

Mối quan hệ giữa việc phát triển du lịch và các làng nghề truyền thống 8 1.5 Làng nghề truyền thống Việt Nam

Du lịch có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển các làng nghề truyền thống Sự phát triển của ngành du lịch không chỉ thúc đẩy kinh tế địa phương mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các làng nghề.

Du lịch không chỉ tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho cư dân địa phương mà còn thu hút lao động từ các khu vực lân cận, góp phần tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.

Việc bán hàng lưu niệm cho du khách không chỉ giúp tăng doanh thu mà còn thúc đẩy doanh số bán sản phẩm thủ công truyền thống trong các làng nghề Đây là một hình thức xuất khẩu tại chỗ, không chịu thuế, đồng thời giảm thiểu rủi ro cho các nghệ nhân và doanh nghiệp.

- Du lịch phát triển tạo thêm cơ hội đầu tư cho các làng nghề truyền thống

- Tạo cơ hội xuất khẩu sản phẩm thủ công truyền thống tại làng nghề

- Tăng cường thu nhập ngoại tệ

- Phân phối lại nguồn thu nhập

- Tạo cơ hội giao lưu văn hóa bản địa và văn hóa của khách du lịch nước ngoài

- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, chuyển dịch lao động nông nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ

- Kích thích phát triển cơ sở hạ tầng thông qua hoạt động du lịch

- Bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống quý báu của làng nghề

Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống là cần thiết để bảo tồn văn hóa và giá trị lịch sử trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Các ngành nghề này không chỉ góp phần tạo ra sản phẩm độc đáo mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và tạo việc làm cho người dân Việc duy trì và phát triển các nghề thủ công truyền thống sẽ giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị văn hóa, đồng thời tạo ra cơ hội xuất khẩu và tăng cường thương hiệu quốc gia.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 9

Du lịch và làng nghề truyền thống có mối quan hệ tương hỗ, trong đó du lịch thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bền vững cho các làng nghề, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân địa phương Ngược lại, các hoạt động du lịch tại làng nghề cũng mang lại lợi ích tích cực, bởi làng nghề truyền thống không chỉ là tài nguyên văn hóa mà còn thu hút du khách, làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch và góp phần vào sự phát triển chung.

- Các làng nghề truyền thống thường ở vùng nông thôn, mỗi làng nghề là một môi trường văn hóa kinh tế xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời

Làng nghề truyền thống Việt Nam là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa độc đáo, với không gian nông nghiệp đặc trưng như cây đa, giếng nước và sân đình Du khách sẽ cảm nhận được sự yên bình qua những câu hát dân gian và hình ảnh cánh cò trắng giữa lũy tre xanh Đây là địa điểm lý tưởng để khám phá phong tục tập quán và lễ hội của người dân Đặc biệt, du khách sẽ được chiêm ngưỡng và mua sắm những sản phẩm thủ công tinh xảo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.

Làng nghề truyền thống không chỉ là nơi sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc sắc, mang giá trị sử dụng và nghệ thuật cao, mà còn thể hiện bản sắc văn hóa của dân tộc và địa phương Du khách khi đến thăm làng nghề không chỉ được chiêm ngưỡng các giá trị văn hóa độc đáo mà còn có cơ hội mua sắm những món đồ thủ công tinh tế, độc đáo, đáp ứng nhu cầu mua sắm của họ và người thân.

Làng nghề truyền thống là một tài nguyên du lịch văn hóa quý giá, thu hút đông đảo khách du lịch và làm phong phú thêm hoạt động du lịch với nhiều lựa chọn hấp dẫn.

- Ngoài ra làng nghề truyền thống còn làm đa dạng hóa sản phẩm du lịch

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 10

1.5 Làng nghề truyền thống Việt Nam

* Qúa trình hình thành các làng nghề truyền thống Việt Nam

Việt Nam sở hữu điều kiện tự nhiên và khí hậu lý tưởng, cùng với hệ động thực vật phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động săn bắt và hái lượm Đất nước này cũng giàu tài nguyên khoáng sản như quặng sắt, thiếc và đồng, thuận lợi cho việc chế tác đồ thủ công Là một trong những quốc gia hình thành nhà nước sớm nhất Đông Nam Á, Việt Nam có một cộng đồng văn hóa đa dạng, được hình thành từ nửa đầu thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên và phát triển mạnh mẽ vào cuối thế kỷ 15 của Đại Việt.

Các làng nghề truyền thống ở Việt Nam đã xuất hiện từ lâu đời và trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong lịch sử, nhưng vẫn duy trì và phát triển mạnh mẽ Sự tồn tại của các làng nghề này phản ánh văn hóa và bản sắc dân tộc, đồng thời góp phần vào nền kinh tế địa phương.

Di chỉ khảo cổ núi Đọ (Thanh Hóa) cho thấy dấu vết của người Vượn với hàng vạn công cụ đá thô sơ như mảnh tước, rìu tay và nạo Điều này chứng tỏ sự chế tác và sử dụng các công cụ bằng tre như gậy, lao, cung tên và thừng bện đã xuất hiện từ thời nguyên thủy, cho thấy nghề thủ công đã sớm hình thành và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người.

Văn hóa Phùng Nguyên, một nền văn hóa tiền sử thuộc sơ kỳ thời đại đồ đồng, đã xuất hiện cách đây gần 4000 đến 3500 năm với nhiều cổ vật được phát hiện Cư dân nơi đây đã chế tạo đồ gốm đơn giản, trang sức bằng đá bán quý và sử dụng khuôn đúc đồng cùng các công cụ như rìu đá mài, hạt chuỗi đá Theo các nhà khảo cổ học, dân cư Phùng Nguyên sống ổn định theo từng cụm làng xã và có khu vực sản xuất thủ công mỹ nghệ phát triển Tại di chỉ Phùng Nguyên, đã tìm thấy 1138 chiếc rìu, 59 đục, 3 giáo, 2 mũi nhọn, 7 mũi tên, 1 cưa, 189 bàn mài, 540 vòng tay, 8 khuyên tai, 34 hạt chuỗi, 3 đồ trang sức và hàng chục vạn mảnh gốm.

Giai đoạn Đồng Đậu (giữa thời đại Đồng Thau) có khuôn đúc, rìu, mũi tên bằng đồng có ngạnh,…

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 11

Giai đoạn Gò Mun, thuộc thời đại Đồng Thau, chứng kiến sự phát triển vượt bậc của các công cụ sinh hoạt bằng đồng thau, đặc biệt là dấu tích thời kỳ Đông Sơn với trống đồng Ngọc Lũ và thạp đồng Đào Thịnh, khẳng định trình độ thủ công tinh xảo của người xưa Thời kỳ này đã thể hiện sự phân công và tổ chức lao động rõ rệt Tiếp theo, giai đoạn Lí, Trần, Lê đánh dấu sự phát triển rực rỡ của nghề thủ công, đặc biệt là ngành gốm, với nhiều loại men gốm đẹp và quý hiếm, có giá trị nghệ thuật cao Ngoài ra, nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, cung điện và công trình tôn giáo cũng được xây dựng trong thời kỳ này.

Thời Lí là thời đại phục hưng đất nước, nơi tập trung nhiều thợ thủ công giỏi và sáng tạo độc đáo Nhiều làng nghề như thêu, mộc, và điêu khắc phát triển mạnh mẽ, nhờ vào sự thông thương và giao lưu giữa các vùng đất, thúc đẩy kinh tế Thời kỳ này chứng kiến sự xuất hiện của nhiều nghệ nhân tài hoa với những thành tựu nổi bật trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ Sự phát triển này được hỗ trợ bởi chế độ công tượng, tập trung các thợ giỏi về Thăng Long để xây dựng chùa chiền và cung điện, cùng với sự quan tâm của nhà nước đến đời sống của thợ thủ công, tạo điều kiện cho họ yên tâm sáng tạo.

Văn hóa thời Trần kế thừa từ thời Lí nhưng bị ảnh hưởng bởi chiến tranh kéo dài, khiến người dân không thể ổn định cuộc sống và thợ thủ công gặp khó khăn trong việc sáng tạo Do đó, nghệ thuật sản xuất thủ công không phát triển mạnh mẽ như trước Tuy nhiên, đến thời Lê, các nghề thủ công tiếp tục phát triển, với sự xuất hiện của nhiều thợ thủ công tài năng và sản phẩm đạt đến độ tinh xảo, đặc biệt là nghệ thuật điêu khắc chạm lộng.

Tiểu kết

Du lịch làng nghề truyền thống là một hình thức du lịch văn hóa hấp dẫn, mang lại không gian thư thái và trong lành cho du khách Loại hình du lịch này không chỉ làm phong phú thêm sản phẩm du lịch mà còn có vai trò quan trọng trong việc cải thiện đời sống của người dân tại các vùng nông thôn Việt Nam Các làng nghề truyền thống không chỉ thu hút du khách mà còn tạo ra những sản phẩm độc đáo, phản ánh giá trị văn hóa đặc sắc Trong tương lai, du lịch làng nghề truyền thống sẽ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu du lịch ngày càng cao, tuy nhiên cần có quy hoạch tổng thể nhằm đảm bảo phát triển bền vững, bảo tồn giá trị văn hóa và môi trường tự nhiên Làng nghề truyền thống là nơi lưu giữ những nét đẹp văn hóa dân tộc và lối sống của ông cha ta.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 15

THỰC TRẠNG LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỈNH

Tiềm năng du lịch Ninh Bình

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Ninh Bình, vùng đất “địa linh” nổi tiếng với nhiều “nhân kiệt”, là điểm đến du lịch đầy tiềm năng Nơi đây sở hữu tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú, đặc biệt là khu Tam Cốc - Bích Động, được ví như “Hạ Long trên cạn” Ngoài ra, Ninh Bình còn thu hút du khách với các di sản văn hóa, như đền thờ hai vị vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành, cùng với chùa Bái Đính, ngôi chùa nổi bật với nhiều kỷ lục Việt Nam.

Ninh Bình, tỉnh nằm ở cực nam đồng bằng Bắc Bộ, là cầu nối quan trọng giữa miền Bắc và miền Nam, với ba quốc lộ chính (1A, 10, 12A) và tuyến đường sắt Bắc-Nam Là cửa ngõ từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam, Ninh Bình được bao quanh bởi dãy núi đá vôi, tạo nên những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp với dòng sông thơ mộng và hồ nước bao la Đây cũng là nơi giao thoa của ba nền văn hóa lớn: sông Hồng, sông Mã và Hòa Bình.

Tỉnh Ninh Bình, tọa lạc ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ, có tọa độ địa lý từ 19°50' đến 20°27' vĩ độ Bắc và 105°32' đến 106°27' kinh độ Đông, cách thủ đô Hà Nội 93km về phía Nam Dãy núi Tam Điệp, chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo nên ranh giới tự nhiên giữa Ninh Bình và Thanh Hóa.

Trần Thị Kim Cúc, sinh viên lớp VH1003 tại ĐHDLHP 16, sống tại khu vực Đông Bắc, nơi có sông Đáy bao quanh Khu vực này tạo thành ranh giới tự nhiên với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định, phía Bắc giáp tỉnh Hòa Bình và phía Nam tiếp giáp với biển Đông.

Ninh Bình có tổng diện tích tự nhiên 1.389,1 km², với bờ biển dài 18 km và dân số khoảng 936.262 người Tỉnh có 62.000 ha đất sản xuất nông nghiệp, trong đó 47.000 ha là đất canh tác, 29.000 ha là đất lâm nghiệp có rừng, và hơn 6.000 ha là diện tích đất đồi, núi đá.

Ninh Bình có vị trí chiến lược quan trọng, kết nối giao lưu kinh tế và văn hóa giữa lưu vực sông Hồng và sông Mã, cũng như giữa đồng bằng Bắc Bộ và vùng núi Tây Bắc Tỉnh có hệ thống giao thông phát triển với Quốc lộ 1A, Quốc lộ 10, 12A, 12B và đường sắt Bắc - Nam, cùng với mạng lưới sông ngòi dày đặc như sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, và sông Vân, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và giao lưu trong và ngoài tỉnh.

Ninh Bình có vị trí chiến lược trong khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, nằm gần tuyến hành lang quan trọng Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh Đồng thời, tỉnh cũng nằm trong tam giác tăng trưởng du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành du lịch.

Sự phát triển du lịch Ninh Bình trong mối liên kết với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh sẽ hình thành một tứ giác tăng trưởng du lịch mới, kết nối qua quốc lộ 1A, quốc lộ 10 và các sân bay Cát Bi Hệ thống cảng biển và cảng sông cũng sẽ đáp ứng nhu cầu vận chuyển khách đến Ninh Bình, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển du lịch khu vực.

Thủ đô Hà Nội, một trong những trung tâm du lịch của Việt Nam, chỉ cách Ninh Bình 93km, tạo điều kiện thuận lợi cho du khách Ninh Bình nổi bật với ưu thế về vị trí địa lý, không bị ảnh hưởng bởi mùa vụ trong du lịch, nhờ vào không gian và thời gian linh hoạt Sự phát triển đô thị mạnh mẽ của Hà Nội và các tỉnh lân cận như Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, và Vĩnh Phúc đã mang lại cho Ninh Bình cơ hội phát triển du lịch cuối tuần Đây là một điểm đến mới đầy tiềm năng cho ngành du lịch.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 17

Ninh Bình sở hữu tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng, bao gồm núi non, hồ nước, rừng xanh và các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nhiều loại hình du lịch, từ đó thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành du lịch Ninh Bình trong những năm tới.

Tài nguyên du lịch Ninh Bình tập trung chủ yếu ở các khu vực như Hoa Lư, Gia Viễn, Nho Quan, Phát Diệm và khu du lịch sinh thái Tràng An Sự kết hợp giữa tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn tại đây tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các khu du lịch trọng điểm, thu hút đông đảo du khách cả trong và ngoài nước.

Ninh Bình, với vị trí địa lý thuận lợi, sở hữu nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú Nơi đây nổi tiếng với các hang động kỳ thú như Tam Cốc, Bích Động, động Thiên Tôn, và nhiều địa danh khác Bích Động từng được mệnh danh là “Nam thiên đệ nhị động” (động đẹp thứ hai dưới trời Nam), trong khi Địch Lộng được gọi là “Nam thiên đệ tam động” Ngoài ra, Ninh Bình còn có núi Cánh Diều và Ngọc Mỹ Nhân, hai biểu tượng thiên nhiên độc đáo Đất Ninh Bình không chỉ là “địa linh” mà còn là nơi sản sinh nhiều “nhân kiệt” như anh hùng Đinh Bộ Lĩnh và các danh tướng nổi tiếng khác Từ xưa đến nay, Ninh Bình luôn là cái nôi của nhân tài.

Ninh Bình là một điểm đến nổi bật với nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, kết hợp với bản sắc văn hóa độc đáo, tạo ra những thế mạnh cho du lịch phát triển Nơi đây có Cố đô Hoa Lư, từng là kinh đô của nước Đại Việt, thu hút du khách bởi giá trị văn hóa và lịch sử phong phú.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 18

Việt Nam ở thế kỷ thứ 10 đánh dấu sự hình thành nhà nước phong kiến tập quyền đầu tiên, gắn liền với ba vương triều Đinh, Tiền Lê và Lý, cùng với ba vị anh hùng dân tộc vĩ đại: Vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành và Vua Lý Thái Tổ.

Vùng đất Cố đô Hoa Lư nổi bật với những di tích và danh lam thắng cảnh như khu Tam Cốc - Bích Động, được mệnh danh là “vịnh Hạ Long trên cạn” của Việt Nam, cùng với Bích Động, được xem là “Nam thiên đệ nhị động” Đền Thái Vi, nơi ghi dấu hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, thờ bốn đời vua nhà Trần Gần đó, khu hang động sinh thái Tràng An với hàng ngàn hec-ta, 31 thung và 50 hang động xuyên thủy, nổi bật với phủ Khống, phủ Đột và đền Nội Lâm Chùa Bái Đính, ngôi chùa lớn nhất Việt Nam, có diện tích 700ha và vẻ đẹp hoành tráng của chùa Tam Thế, đã được xác nhận nhiều kỷ lục như “Đại hội đồng chuông lớn nhất Việt Nam” với quả chuông nặng 36 tấn, “Pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng cao và nặng nhất Việt Nam” nặng 100 tấn, và “Ngôi chùa có bộ tượng Tam Thế bằng đồng lớn nhất Việt Nam” với mỗi pho tượng nặng 50 tấn.

“ngôi chùa có giếng lớn nhất Việt Nam” (giếng Ngọc có đường kính gần 30m)

Làng nghề truyền thống tỉnh Ninh Bình

2.2.1 Quá trình hình thành các làng nghề truyền thống Ninh Bình

Ninh Bình, giống như nhiều tỉnh khác ở đồng bằng sông Hồng, đã phát triển nền kinh tế không chỉ dựa vào nông nghiệp truyền thống mà còn hình thành và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp từ rất sớm.

Từ thế kỉ IX, X, Ninh Bình đã phát triển nhiều nghề thủ công như sản xuất gạch, ngói trang trí, chế tác xây dựng, và đồ gốm sứ tráng men Đến thế kỉ XIII, nghề dệt lụa và thêu ren cũng đã xuất hiện với sản phẩm tinh xảo Một số làng nghề nổi tiếng bao gồm chạm khắc đá mỹ nghệ ở Ninh Vân, thêu ren Văn Lâm, dệt lụa La Mai, nghề mộc Phúc Lộc, dệt ở Nộn Khê, mộc Côi Trì, đan cót Gia Tân, đan thuyền Gia Trung, và sản xuất gạch ngói trang trí ở Trường Yên.

Đến thế kỷ XIX, Ninh Bình đã chứng kiến sự phát triển đa dạng của các nghề thủ công như đan lát (nong, nia, rổ, rá), sản xuất nông cụ (cày, bừa, cuốc, thuổng) và nghề làm chum, vại, chạm khắc gỗ Ngoài ra, các nghề thủ công khác như làm hàng mã và đồ thờ cúng cũng đóng góp vào sự phong phú của ngành nghề tại địa phương.

Trần Thị Kim Cúc, sinh viên lớp VH1003 tại ĐHDLHP 21, nghiên cứu về ngành chế biến nông sản và thực phẩm, bao gồm sản xuất bún, bánh, và nước mắm Ngành nghề thủ công tại Ninh Bình, đặc biệt vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, tiếp tục phát triển mạnh mẽ, với nhiều sản phẩm thủ công trở thành hàng hóa tiêu thụ rộng rãi Các ngành nghề mới như may mặc, sản xuất bánh kẹo và kéo sợi cũng được hình thành Đến những năm 1930, Kim Sơn và các xã phía nam huyện Yên Khánh đã trở thành trung tâm sản xuất chiếu và cói, với nhiều làng nghề nổi bật như Phụng Công, Quyết Trung và Bồng Hải Sản phẩm chiếu, cói từ khu vực này không chỉ được tiêu thụ ở Nam Định, Phủ Lý, Hà Nội mà còn được các nhà buôn đưa lên các tỉnh miền núi như Hòa Bình, Lạng Sơn, Bắc Giang và Phú Thọ.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, Ninh Bình chứng kiến sự phát triển của nhiều cơ sở công nghiệp do người Pháp và người Việt đầu tư, bao gồm nhà máy phát điện tại thị xã Ninh Bình, xí nghiệp khai thác than đá ở Đầm Đùn (huyện Nho Quan), và các cơ sở khai thác đá, than nâu ở Đồng Giao (thị xã Tam Điệp) Ngoài ra, còn có các xưởng nung vôi ở Đinh Tráng, Đinh Hòe, cùng với những xưởng sản xuất gạch, ngói tại Yên Mô và xưởng chiếu cói ở Kim Sơn Một số đồn điền của người Pháp tại Nho Quan và Tam Điệp cũng sản xuất cà phê, chè, và ép dầu Đến đầu thế kỷ XX, cơ sở khai thác than đá ở Đầm Đùn đã đạt sản lượng 600-700 nghìn tấn, trong khi cơ sở khai thác than nâu ở Đồng Giao từ năm 1905 đến 1938 khai thác trên 150 nghìn tấn Vào những năm 1930, xưởng cói Xương Lợi tại Phát Diệm huyện Kim Sơn có tới 300 công nhân làm việc.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 22

Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Ninh Bình chủ yếu có các xưởng sản xuất nhỏ với công nghiệp thủ công, phụ thuộc vào sức lao động của nhân công Sau khi cách mạng tháng 8 thành công vào ngày 24/8/1945, hầu hết các cơ sở công nghiệp của người Pháp và nhiều cơ sở của chủ người Việt đã ngừng hoạt động.

Sau cách mạng tháng 8, Ninh Bình bắt đầu xây dựng và phát triển nền công nghiệp để phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, đồng thời chuẩn bị cho kháng chiến kiến quốc Tỉnh đã chú trọng phát triển tiểu thủ công nghiệp và phục hồi một số cơ sở công nghiệp như nhà máy điện, xưởng sản xuất bánh kẹo, mỏ than Đầm Đùn, xưởng dệt, và sản xuất gạch Nhiều cơ sở công nghiệp mới cũng được hình thành, bao gồm mỏ than Quyết Thắng, xưởng giấy, xưởng may mặc, và các xưởng quân giới Mặc dù quy mô nhỏ và điều kiện sản xuất khó khăn, các cơ sở này đã đóng góp quan trọng cho đời sống và sản xuất của nhân dân, cũng như cho công cuộc kháng chiến Tuy nhiên, vào đầu những năm 1950, chiến sự lan rộng đã gây khó khăn lớn cho các cơ sở công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 23 nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Ninh Bình vẫn được duy trì và hoạt động có hiệu quả

Sau kháng chiến chống Pháp, từ tháng 7 năm 1954, Ninh Bình đã bước vào giai đoạn phát triển mới trong lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Tỉnh đã tập trung khắc phục hậu quả chiến tranh, duy trì và mở rộng sản xuất tại các cơ sở hiện có, đặc biệt là những cơ sở phục vụ cho nông nghiệp, giao thông vận tải và sản xuất hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân.

Những năm 1960- 1965, công nghiệp Ninh Bình tiếp tục phát triển, các ngành thủ công truyền thông vẫn được coi trọng

Từ năm 1965 đến 1978, nghề thủ công truyền thống tại Ninh Bình đã có sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ, không chỉ hình thành các "làng nghề" mà còn xuất hiện cả các "xã nghề".

Từ năm 1979 đến 1986, các hợp tác xã chuyên về thủ công nghiệp dần suy yếu, dẫn đến việc tự giải thể của các hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp Kết quả là các làng nghề trở về hình thức kinh tế tư nhân và hộ gia đình, đánh dấu sự chuyển mình trong hoạt động sản xuất.

Từ năm 1986, các làng nghề truyền thống Ninh Bình đã có sự chuyển mình đáng kể, với nhiều làng nghề tích cực tìm kiếm cơ hội xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài Mặc dù vẫn giữ nét truyền thống, nhưng hình thức kinh tế tư nhân và hộ gia đình ngày càng phát triển, dẫn đến sự ra đời của nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyên xuất khẩu hàng thủ công Hiện tại, toàn tỉnh Ninh Bình có 60 làng nghề, trong đó 36 làng nghề được công nhận là làng nghề truyền thống.

2.2.2 Giới thiệu chung về làng nghề truyền thống Ninh Bình

Ninh Bình nổi bật với các di tích lịch sử như đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và đền Thái Vi, cùng những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp như Tam Cốc - Bích Động, nhà thờ đá Phát Diệm và khu du lịch sinh thái Tràng An.

Mà du khách còn biết đến các làng nghề thủ công truyền thống như: thêu ren

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 24

Ninh Bình, với các làng nghề như Văn Lâm, Ninh Hải và chiếu cói Kim Sơn, không nhiều như Hà Nội hay Bắc Ninh, nhưng mỗi làng nghề đều mang một nét đặc trưng riêng Tỉnh hiện có 60 làng nghề, mỗi làng sản xuất những sản phẩm thủ công độc đáo và không thể trộn lẫn Những làng nghề này không chỉ là đơn vị kinh tế mà còn là nơi gìn giữ di sản văn hóa truyền thống như lễ hội và đền chùa, với các sản phẩm mang đậm giá trị văn hóa Việt Nam và nghệ thuật cao.

- Làng thêu ren Văn Lâm- Ninh Hải: Có lịch sử hình thành cách đây hơn

Bà Trần Thị Dung, vợ của thái sư Trần Thủ Độ, đã góp phần quan trọng trong việc truyền bá nghệ thuật thủ công truyền thống của làng Văn Lâm suốt 700 năm qua Các sản phẩm độc đáo và đa dạng như tranh phong cảnh, ga trải giường, rèm cửa, gối và khăn trải bàn được sản xuất với màu sắc tự nhiên, thể hiện tay nghề tinh xảo của người dân nơi đây Công nghệ thủ công cổ truyền không chỉ được gìn giữ mà còn phát triển qua nhiều thế hệ, khẳng định giá trị văn hóa đặc sắc của làng nghề.

Làng chạm khắc đá Ninh Vân, với nghề truyền thống lâu đời, được sáng lập bởi cụ Hoàng Sùng, nổi tiếng với những sản phẩm tinh xảo từ đá Các nghệ nhân tài hoa tại đây khéo léo chế tác những bức phù điêu, chậu cảnh, tượng thờ, tứ linh, lư hương và cột trụ, mang đến vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo cho các công trình.

Thực trạng làng nghề và du lịch tại các làng nghề tiêu biểu

2.3.1 Làng mỹ nghệ cói Kim Sơn:

“Thanh nhàn, mát mẻ Thủ Trung Đánh đay, dệt chiếu làm công nhẹ nhàng”

Người dân làng Thủ Trung, xã Kim Chính, huyện Kim Sơn, từ lâu đã truyền tụng hai câu ca về nghề dệt chiếu cói, thể hiện sự điêu luyện và chính xác trong từng thao tác Sự thành công này không chỉ là kết quả của tình yêu nghề mà còn là nỗ lực gìn giữ và rèn luyện cho thế hệ sau của các cụ ở Thủ Trung.

Làng mỹ nghệ cói Kim Sơn, nằm trong huyện Kim Sơn, bao gồm các xã Trì Chính, Thủ Trung và Kim Chính, cách thành phố Ninh Bình 28 km và cách thủ đô Hà Nội một khoảng đáng kể.

120 km Làng mỹ nghệ cói Kim Sơn nằm gần thị trấn Phát Diệm, ven đường quốc lộ 10 giao thông rất thuận lợi

*Lịch sử hình thành và phát triển:

Kim Sơn, được biết đến là "xứ cói," nổi bật với việc trồng nhiều cây cói Từ nguyên liệu có sẵn này, những người thợ tài hoa đã khéo léo chế tác ra các sản phẩm không chỉ có giá trị sử dụng mà còn mang tính thẩm mỹ cao Từ những mặt hàng thô sơ như chiếu, bao bì, thảm, đệm, đến nay, các thợ thủ công ở Trì Chính đã không ngừng đổi mới mẫu mã theo yêu cầu của khách hàng, sản xuất hàng trăm sản phẩm giá trị.

Sinh viên Trần Thị Kim Cúc, lớp VH1003, ĐHDLHP 32, đã thiết kế nhiều sản phẩm như hộp nhỏ, túi xách, giỏ đựng hàng, mũ, giày, khay và lẵng Những sản phẩm này nổi bật với hoa văn đẹp, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, được khách hàng ưa chuộng.

Cây cói ở Kim Sơn, mặc dù chỉ mới xuất hiện gần hai thế kỷ, nhưng đã trở thành một phần quan trọng trong nền kinh tế địa phương Người dân nơi đây tận dụng cây cói để sản xuất nhiều sản phẩm đa dạng như chiếu, thảm, làn, khay, hộp, đĩa, cốc, tách, túi xách và mũ, góp phần nâng cao thu nhập và phát triển nghề thủ công truyền thống.

Nghề chế tác mỹ nghệ cói Kim Sơn có bề dày lịch sử lâu đời, trải qua nhiều thăng trầm của thời đại Dù gặp nhiều biến cố, các nghệ nhân và thợ giỏi vẫn giữ vững niềm đam mê và tâm huyết với nghề Mỗi thế hệ nghệ nhân đều góp phần làm rạng danh thương hiệu của làng nghề, khẳng định giá trị văn hóa và truyền thống của địa phương.

Mỗi nghề cổ truyền thường gắn liền với một vị Thành hoàng hoặc tổ nghề, người đã truyền dạy kỹ năng và góp phần khẩn hoang lập ấp trong quá khứ Những cội nguồn này, dù đã được huyền thoại hóa, vẫn thể hiện những dấu ấn và sắc thái văn hóa tự hào của người dân địa phương Huyện Kim Sơn nổi bật với tên tuổi của cụ Nguyễn Công Trứ, người đã có công lập ra huyện này thông qua việc quai đê lấn biển.

Nhà nghiên cứu người Pháp Mi Chít đã dành thời gian tìm hiểu về người Kim Sơn, mô tả họ với ánh mắt hướng về biển cả và tâm hồn ngân nga theo tiếng chuông chiều Họ không chỉ gìn giữ nghề truyền thống mà còn phát triển nó để truyền lại cho các thế hệ sau.

Sản phẩm của làng đã tạo được ấn tượng tích cực và thu hút được thị trường khó tính như Nhật Bản và các nước Đông Âu Đặc biệt, thị trường xuất khẩu lớn từ những năm 90 của thế kỷ trước, bao gồm Liên Xô cũ và Đông Âu, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển này.

Trước đây, sản phẩm hàng thủ công của làng chủ yếu được tiêu thụ trong nước, phục vụ cho bà con nông thôn Tuy nhiên, theo thời gian, các sản phẩm này đã được mở rộng ra các tỉnh lân cận, phủ sóng khắp cả nước và thậm chí xuất khẩu ra nước ngoài.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 33

Trong bối cảnh lịch sử và những biến động của thời gian, Kim Sơn đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc chiến tranh tàn khốc, khiến người thợ thủ công phải đối mặt với nhiều khó khăn Tuy nhiên, các nghệ nhân nơi đây vẫn kiên trì gìn giữ nghề truyền thống Sau khi hòa bình được lập lại, theo chủ trương của Đảng và nhà nước, họ đã không ngần ngại mở rộng nghề làm chiếu ra khắp các huyện trong tỉnh và các tỉnh lân cận, góp phần phát triển văn hóa và kinh tế địa phương.

*Thực trạng hoạt động sản xuất hàng thủ công và hoạt động du lịch của làng:

Hiện nay, 86,97% dân số Kim Sơn tham gia sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống như chiếu cói, cung cấp cho thị trường hàng triệu sản phẩm tinh xảo mỗi năm.

Trong làng, từ những người già 70 tuổi đến các em thiếu niên, ai cũng biết đan lát và tạo ra những sản phẩm tinh xảo từ sợi cói và cây bèo bồng Sản phẩm cói Kim Sơn hoàn toàn được làm bằng tay, với mọi công đoạn từ xử lý nguyên liệu đến đan lát đều nhờ vào sự khéo léo của những người thợ thủ công.

Trước đây, hàng hóa của Kim Sơn chủ yếu phục vụ thị trường nội địa, nhưng hiện nay, làng đã ký kết nhiều hợp đồng quốc tế với số lượng lớn và ổn định Sản phẩm được tiêu thụ đều đặn quanh năm, mang lại thu nhập ổn định cho người dân Các mặt hàng như chiếu đậu, chiếu cải và đồ lưu niệm đang rất được ưa chuộng Đặc biệt, 50% sản phẩm thủ công được xuất khẩu sang các thị trường như Nhật Bản, Đông Âu, Trung Quốc, Pháp và Đức Theo khảo sát tại doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ Xuân Hòa, chỉ trong ba tháng đầu năm 2010, đã xuất khẩu hơn 1.000 mẫu mã, dự kiến doanh thu xuất khẩu năm nay sẽ tăng trưởng đáng kể.

Sinh viên Trần Thị Kim Cúc, lớp VH1003, ĐHDLHP, cho biết rằng việc phát triển các mặt hàng thủ công truyền thống mang lại hiệu quả kinh tế đáng kể, góp phần cải thiện đời sống nhân dân với tổng giá trị lên đến 10 tỷ đồng.

Nhận xét chung

Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của xã hội, ngành du lịch Việt Nam, đặc biệt là du lịch Ninh Bình, đang có những bước tiến mới Du lịch Ninh Bình ngày càng thay đổi và phát triển, với các tài nguyên du lịch được khai thác hiệu quả phục vụ cho hoạt động du lịch của tỉnh Du lịch làng nghề truyền thống tại Ninh Bình đang nổi lên như một loại hình du lịch mới, được khai thác để phát huy tiềm năng Với lịch sử hình thành hàng trăm năm, các làng nghề ở Ninh Bình mang lại nhiều giá trị lịch sử quý báu, góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du khách.

Các làng nghề truyền thống ở Ninh Bình có lịch sử lâu đời, nổi bật với các di tích lịch sử và sản phẩm thủ công độc đáo, đa dạng, có tính ứng dụng cao trong đời sống Du lịch làng nghề đang thu hút sự quan tâm từ các cấp địa phương và sự hưởng ứng nhiệt tình từ người thợ Các giá trị văn hóa của làng nghề là yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn cho du lịch tại đây.

Các sản phẩm thủ công truyền thống từ các làng nghề không chỉ phục vụ cho xuất khẩu mà còn được bày bán tại các khu du lịch, thu hút khách tham quan và mua sắm Làng chế tác cói Kim Sơn, gần quần thể nhà thờ đá Phát Diệm, và làng thêu ren Văn Lâm, cạnh khu du lịch Tam Cốc- Bích Động, là những điểm đến nổi tiếng tại Ninh Bình Những sản phẩm mỹ nghệ này góp phần làm phong phú thêm trải nghiệm du lịch cho du khách.

Sản phẩm từ các làng nghề không chỉ góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống mà còn mang lại công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.

Sản phẩm sản xuất ra ngoài việc xuất khẩu và tiêu dùng thì tỉ lệ bán cho khách du lịch chiếm đến 50% tổng sản phẩm

Du lịch làng nghề truyền thống Ninh Bình là một loại hình du lịch mới mẻ, tuy nhiên vẫn tồn tại một số hạn chế, đặc biệt là về chất lượng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ.

Sở vật chất kỹ thuật của làng nghề hiện tại chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh, nhưng chưa đủ để phục vụ sự phát triển du lịch Chất lượng dịch vụ bổ sung và đội ngũ lao động trong ngành du lịch làng nghề còn thấp, gây ra những hạn chế lớn đối với sự phát triển du lịch tại đây.

Sinh Viên: Trần Thị Kim Cúc – Lớp VH1003 – ĐHDLHP 58

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG NINH BÌNH

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:50

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w