1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước truyền thống tại làng nhân mục xã nhân mục huyện vĩnh bảo hải phòng cho phát triển du lịch

86 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Pháp Bảo Tồn Và Khai Thác Nghệ Thuật Múa Rối Nước Truyền Thống Tại Làng Nhân Mục Xã Nhân Mục Huyện Vĩnh Bảo Hải Phòng Cho Phát Triển Du Lịch
Trường học Trường Đại Học
Chuyên ngành Nghệ Thuật
Thể loại luận văn
Thành phố Hải Phòng
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 2,17 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TRUYỀN THỐNG (9)
    • 1.1. Các hình thức sân khấu dân gian Việt Nam (9)
      • 1.1.1 Chèo (9)
      • 1.1.2 Tuồng (10)
      • 1.1.3 Múa rối nước (11)
      • 1.1.4 Một số loại hình khác (12)
    • 1.2. Nghệ thuật múa rối (13)
      • 1.2.1. Khái quát chung về nghệ thuật múa rối (13)
      • 1.2.2. Các loại hình múa rối ở Việt Nam và trên thế giới (14)
    • 1.3. Nghệ thuật múa rối nước truyền thống ở Việt Nam (16)
      • 1.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển (16)
        • 1.3.1.1. Tên gọi và nguồn gốc (16)
        • 1.3.1.2. Một số vị thần bảo hộ của múa rối nước ở các phường rối (18)
      • 1.3.3. Đặc điểm của nghệ thuật múa rối nước (19)
        • 1.3.3.1. Con rối (19)
        • 1.3.3.2. Nghệ thuật tạo hình (21)
        • 1.3.3.3. Sân khấu (23)
        • 1.3.3.4. Nghệ thuật âm nhạc và văn học (24)
        • 1.3.3.5. Nghệ nhân múa rối nước (25)
        • 1.3.3.6. Cách biểu diễn (25)
      • 1.3.4. Giá trị văn hóa nghệ thuật của múa rối nước (26)
    • 1.4 Tiểu kết chương 1 (29)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA,HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH (30)
    • 2.1 Giới thiệu đôi nét về Vĩnh Bảo, Hải Phòng (30)
      • 2.1.1. Điều kiện tự nhiên (30)
      • 2.2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội (30)
      • 2.2.3. Tài nguyên du lịch (31)
        • 2.2.3.2. Lễ hội (33)
        • 2.2.3.3. Một số loại hình nghệ thuật dân gian (34)
        • 2.2.3.4. Làng nghề truyền thống (34)
    • 2.2. Nghệ thuật múa rối nước tại làng nhân mục, xã Nhân Mục, Vĩnh Bảo Hải Phòng (35)
      • 2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển (35)
      • 2.2.2. Đặc trưng của nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục (37)
        • 2.2.2.1 Nét độc đáo của nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục (37)
        • 2.2.2.2. So sánh đặc điểm nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục với các làng vùng lân cận (40)
    • 2.3. Thực trạng công tác bảo tồn và khai thác cho phát triển du lịch (45)
      • 2.3.1 Thực trạng công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước (45)
        • 2.3.1.1. Khái quát về công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước tại ở Việt Nam 45 2.3.1.2. Công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục (45)
      • 2.3.2. Thực trạng khai thác cho phát triển du lịch (51)
        • 2.3.2.1. Khái quát về thực trạng khai thác cho phát triển du lịch ở Việt Nam (51)
        • 1.3.2.1. Thực trạng khai thác cho phát triển du lịch tại làng Nhân Mục (53)
    • 2.4. Đánh giá về công tác bảo tồn, khai thác nghệ thuật múa rối nước cho phát triển du lịch tại làng Nhân Mục (55)
      • 2.4.1. Thuận lợi - tích cực (55)
      • 2.4.2. Khó khăn – hạn chế (56)
    • 2.5. Tiểu kết chương 2 (59)
  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA, HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH (60)
    • 3.1.1. Định hướng công tác bảo cho tồn nghệ thuật múa rối nước (60)
    • 3.1.2. Định hướng công tác khai thác nghệ thuật múa rối nước cho phát triển du lịch (62)
    • 3.2. Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và khai thác nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục cho phát triển du lịch (65)
      • 3.2.1. Chính sách quan tâm, đãi ngộ đối với nghệ nhân (65)
      • 3.2.2. Chú trọng công tác truyền dạy nghệ thuật múa rối nước (65)
      • 3.2.3. Hình thành tổ chức hội chuyên ngành múa rối nước (66)
      • 3.2.4. Xây dựng những tiết mục biểu diễn hoàn toàn mới (68)
      • 3.2.5. Công tác xúc tiến quảng bá về muá rối nước (69)
      • 3.2.6. Lồng ghép các buổi biểu diễn múa rối nước trong các chương trình du lịch (70)
      • 3.2.7. Xây dựng mới và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ biểu diễn và CSHT, CSVCKT cho phát triển du lịch (71)
      • 3.2.8. Đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên phục vụ du lịch (72)
    • 3.3. Một số kiến nghị (73)
      • 3.3.1. Đối với Sở VH TT & DL Hải Phòng (73)
      • 3.3.2. Đối với Phòng VHTT & DL huyện và UBND xã Nhân Mục (75)
    • 3.4. Tiểu kết chương 3 (76)
  • KẾT LUẬN (77)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (78)
  • PHỤ LỤC (79)

Nội dung

TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TRUYỀN THỐNG

Các hình thức sân khấu dân gian Việt Nam

Sân khấu chèo, xuất phát từ đồng bằng Bắc Bộ, đặc biệt là Nghệ Tĩnh, đã hình thành từ thế kỷ 11 với hình thức trò nhại và diễn xướng dân gian Nghệ thuật chèo kết hợp múa, hát, âm nhạc và văn học, mang đậm tính trữ tình và lạc quan, phản ánh nhân văn qua các vở diễn Các chủ đề như quyền con người và thiện ác luôn được khẳng định, với kết thúc có hậu theo truyền thống phương Đông Dù trải qua nhiều khó khăn, chèo vẫn thu hút mọi thế hệ khán giả và hiện đang được khôi phục để bảo tồn bản sắc dân tộc Nghệ thuật chèo không chỉ là sân khấu mà còn là nguồn sống tinh thần của người nông dân, phản ánh đời sống và ước mơ của họ Những vở chèo, với chất thơ mộng và truyền thống thi ca phương Đông, đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa Việt Nam.

Chèo không chỉ là một nghệ thuật xuất phát từ quần chúng nông dân mà còn chứa đựng nhiều tục ngữ và ca dao dân gian được sáng tạo qua hàng ngàn năm Nghệ thuật múa trong chèo thể hiện sự uyển chuyển và nhịp nhàng của con người, với quan niệm rằng "múa hình tượng đẹp đẽ của nội tâm" Điệu múa trong chèo không hoàn toàn trừu tượng mà phản ánh hình ảnh sinh hoạt và lao động của người dân nông thôn Âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong chèo, với câu nói phổ biến ở Việt Nam rằng "hát chèo" chứ không chỉ "diễn chèo" Âm điệu chèo ngày càng hấp dẫn, kết hợp giữa âm nhạc dân tộc và hiện đại độc đáo.

Nghệ thuật chèo vẫn được yêu thích trong xã hội hiện đại, phản ánh những giá trị đạo đức cao quý như lòng dũng cảm, sự hy sinh và trung thành Mặc dù nội dung của các vở chèo cổ có vẻ xa lạ với thực tế ngày nay, nhưng chúng vẫn chạm đến cảm xúc của nhiều thế hệ khán giả Điều này chứng tỏ sức sống mãnh liệt và tính tươi trẻ của nghệ thuật chèo, đồng thời đặt ra những thách thức mới cho sự phát triển của nó.

Tuồng là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ điển độc đáo của Việt Nam, kết hợp ngôn ngữ văn chương bác học với văn chữ Hán và văn Nôm Theo một số tư liệu, tuồng có nguồn gốc từ hí khúc Trung Quốc, nhưng đã phát triển thành nét riêng biệt của Việt Nam Ban đầu, tuồng chỉ xuất hiện ở miền Bắc, sau đó lan rộng vào Đàng Trong và phát triển mạnh mẽ vào thế kỷ XVII-XVIII Trong triều Nguyễn, tuồng vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa cung đình và dân gian, với nhiều vở diễn đặc trưng như Sơn Hậu và Trưng nữ vương Mặc dù tuồng đã trở thành một phần quý giá của sân khấu truyền thống, nguồn gốc và lịch sử phát triển của nó vẫn là vấn đề cần nghiên cứu thêm Các nhà nghiên cứu như Hồ Lãng và Văn Tân có những quan điểm khác nhau về thời điểm ra đời của tuồng, cho thấy sự phong phú trong nghiên cứu về loại hình nghệ thuật này.

Tuồng, theo "Từ điển tiếng Việt", là nghệ thuật sân khấu cổ của Trung Quốc được truyền vào Việt Nam Giáo sư Phan Huy Lê nhận định rằng vào thế kỷ XV, tuồng và chèo đã phát triển mạnh mẽ Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của tuồng và chèo, nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật hiện nay cho rằng đây là những nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, xuất hiện từ rất sớm Cả tuồng và chèo đều kết hợp ca kịch với vũ đạo, thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc phong phú.

Trong thời Lê sơ, hát tuồng không chỉ được biểu diễn trong cung đình để giải trí cho vua quan trong các buổi tiệc tùng, mà còn được sử dụng trong các lễ tế và thiết triều Tuy nhiên, Hoàng Châu Ký trong cuốn "Sơ khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng" đã phản biện quan điểm cho rằng tuồng xuất hiện vào thời Lê sơ, vì ông cho rằng những đặc điểm như phong cách tự sự, hát múa, hay các chi tiết như ngâm thơ, phú, và múa bằng tay chân không chỉ riêng có ở tuồng mà còn xuất hiện ở nhiều loại hình nghệ thuật khác.

Múa rối nước, một trong những nghệ thuật dân gian cổ xưa nhất của dân tộc, lại là nghệ thuật xuất hiện muộn trong số các truyền thống hiện nay Khác với các loại hình nghệ thuật như tuồng, chèo hay cải lương, nơi con người thực hiện biểu diễn bằng cơ thể và cảm xúc, múa rối nước sử dụng những pho tượng gỗ nhỏ bé, giản dị Tuy nhiên, dưới bàn tay khéo léo của nghệ nhân, những con rối ấy trở nên sống động và đầy tâm hồn trong không gian sân khấu đặc sắc Sự thưởng thức nghệ thuật này mang lại cho khán giả cảm giác thoải mái, tự nhiên, như một hình thức giải trí nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, khó quên.

Múa rối nước là một nghệ thuật độc đáo của cư dân châu thổ sông Hồng, bắt nguồn từ việc cải tạo nước trong nông nghiệp Thường diễn ra vào các ngày lễ hội và thời gian nông nhàn, múa rối nước mang đến cho khán giả những câu chuyện thể hiện sắc thái văn hóa làng quê và những ước mơ giản dị trong cuộc sống Giữa thiên nhiên tươi đẹp, khán giả được chiêm ngưỡng sự hòa quyện giữa đất, nước, cây xanh, và các yếu tố thiên nhiên khác, tạo nên một trải nghiệm nghệ thuật độc đáo Trước khi trở thành một hình thức nghệ thuật sân khấu chính thức, múa rối nước là hoạt động dân gian gắn liền với đời sống của người dân, thể hiện tình yêu và sự gắn bó với nước của những người trồng lúa.

1.1.4 Một số loại hình khác

Cải lương, loại hình kịch hát xuất phát từ miền Nam Việt Nam, hình thành từ dân ca miền đồng bằng sông Cửu Long và nhạc tế lễ, là một hiện tượng văn hóa độc đáo Nghệ thuật sân khấu cải lương có sự phát triển nhờ vào các yếu tố khách quan và chủ quan Là một hình thức ca kịch dân tộc, cải lương mang tính chất ước lệ, với ca ra bộ là buổi sơ khai của nó Các động tác múa cơ bản và trình thức đã ra đời từ đây, khi diễn viên sáng tạo thêm các động tác ngoại bộ để làm phong phú cho lời ca Qua thời gian, những động tác này được nâng cao, kế thừa tinh hoa từ nghệ thuật hát bội, và những vở tuồng đầu tiên của cải lương cũng chịu ảnh hưởng từ cấu trúc kịch bản của hát bội Tính ước lệ trong cải lương được thể hiện qua ngôn ngữ kịch bản, tiết tấu âm nhạc và múa, với các động tác cách điệu và sự kết hợp giữa diễn xuất và hình thể để nhấn mạnh đặc điểm của bộ môn.

Võ thuật được các nghệ sĩ trình diễn trên sân khấu thông qua các màn đánh nhau, thể hiện tính ước lệ trong hóa trang Mặc dù có sự kế thừa từ hát bội, nhưng phong cách này đã được tiết chế để gần gũi hơn với đời sống thực tế.

Kịch dân ca là một loại hình sân khấu mới xuất hiện ở Việt Nam sau Cách mạng tháng 8, dựa trên nền tảng âm nhạc của các làn điệu dân ca địa phương như Bài chòi, Huế và Nghệ Tĩnh Loại hình nghệ thuật này tương tự như tuồng, chèo và cải lương, mang đến sự phong phú cho nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam.

Nghệ thuật múa rối

1.2.1 Khái quát chung về nghệ thuật múa rối

Một số nhận định cơ bản về nghệ thuật rối:

Bắt nguồn từ những trò chơi ngẫu nhiên, tự phát đến có chủ định, truyền cảm

Con rối đóng vai trò chính trong nghệ thuật, nhưng thành công của nó phụ thuộc vào sự phối hợp hoàn hảo giữa điêu khắc, kỹ thuật lắp ráp, bài trí sân khấu và nghệ thuật điều khiển.

Có khả năng tập trung, quy tụ nhiều loại hình nghệ thuật (điêu khắc, hội họa, chèo, tuồng…)

Phụ thuộc vào tài điều khiển của diễn viên điều khiển con rối

Múa rối là một loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo, kết hợp giữa kỹ thuật điều khiển và nghệ thuật tạo hình, với con rối là phương tiện chủ yếu Nghệ thuật này có khả năng truyền đạt cảm xúc mạnh mẽ và thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp khán giả Nhân vật rối đóng vai trò trung tâm, trong khi người diễn viên điều khiển thường được giấu kín Để tạo ra một buổi biểu diễn hấp dẫn, sân khấu cần được thiết kế phù hợp với kích thước của cả người và rối, đồng thời phụ thuộc vào tài năng của người diễn viên.

1.2.2 Các loại hình múa rối ở Việt Nam và trên thế giới

Theo P.L Mi-nhon (Mignon) trong cuốn Bách khoa phổ thông, từ "Marionnette" (múa rối) là một biến thể nhẹ của từ "Mariole" trong thời trung cổ, dùng để chỉ những bức tượng nhỏ của Đức Mẹ đồng trinh Từ này không xuất hiện trong các ngôn ngữ khác, trong khi "pupe" trong tiếng Đức và "puppet" trong tiếng Anh được sử dụng để chỉ con rối, do hình dáng của chúng tương tự như con pupe Múa rối bao gồm nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau.

Rối tay ít dùng trên sân khấu, còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền

Rối tay thường được làm từ đầu gỗ và thân bằng vải, không có tay, với nghệ nhân điều khiển bằng cách lồng bàn tay vào đầu rỗng hoặc sử dụng một đoạn cán nối dài Loại hình nghệ thuật này phổ biến ở nhiều quốc gia, chẳng hạn như ghi-nhôn (guinol) và bu-ra-ti-ri (burattini) ở Pháp.

Rối que là một loại hình nghệ thuật truyền thống phổ biến, có kích thước nhỏ khoảng 30-35 cm Đầu rối được tạc liền với thân bằng gỗ, bao gồm các chi tiết như tóc, tai, khăn, mũ và tay được gọt bằng gỗ, kết nối với cổ tay Rối được điều khiển bằng que tre hoặc que sắt cắm vào thân và cổ tay luồn trong áo, không có chân, cần được tạc thêm để gắn ngoài Một số nơi còn có hình nhân lớn dùng trong các nghi lễ, như đồng bào Bana tạc hình nhân bằng gỗ để sử dụng trong lễ bỏ mả Trên sân khấu, nhiều quân rối sử dụng thêm dây mềm để điều khiển các bộ phận chi tiết Nghệ thuật rối que rất phổ biến tại Indonesia với loại hình wayanggolek, và ở Việt Nam, có nhiều đoàn nghệ thuật múa rối nổi tiếng như đoàn nghệ thuật múa rối TP Hồ Chí Minh và Hải Phòng.

Rối máy là một loại hình nghệ thuật phổ biến, được sử dụng trong đồ chơi, trò chơi và biểu diễn sân khấu Các nhân vật rối được chế tác từ gỗ, với từng bộ phận nối với nhau bằng khớp lỏng, thường được trang trí bằng sơn màu thay vì vải Rối máy được điều khiển bằng que hoặc dây, và có thể kết hợp với các loại rối khác như rối tay và rối que Nó thường xuất hiện trong các hình thức như rối nước, đồ chơi trẻ em, rối diều, rối gió và rối pháo, mang đến sự đa dạng và phong phú cho các hoạt động giải trí.

Rối điều khiển ngang: loại bunraku (Nhật) mỗi con rối rất to, từ 8 tấc đến

Chiều cao của thước là 3 bề, với một người điều khiển động tác của đầu, bao gồm cả mắt và miệng; một người phụ trách tay trái; và người thứ ba đảm nhiệm việc điều khiển hai chân.

Rối dây, một loại hình nghệ thuật truyền thống, chủ yếu xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với các tên gọi như Mộc thầu hí và Slương pất lạp Được chế tác từ gỗ, với phần đầu rối bằng gỗ, thân rối được đan từ nan, tay điều khiển bằng gỗ và tre, cùng với dây tơ và dây gai mềm, rối dây không có chân Loại hình này thường được sử dụng để diễn trò và tích trò, với sân khấu được dựng trên chòi ở các chợ và sòng bạc Rối dây có nguồn gốc từ Hợp Dương, Trung Quốc, đã tồn tại hơn 2000 năm, và còn có các loại tương tự như Fan-tô-chi-ni (fantocini) và Ca-tha-ta-li (Kathaputali) ở Rajasthan, Ấn Độ.

Rối bóng mới được phát hiện tại tỉnh Kiên Giang, có khả năng xuất phát từ Campuchia Loại hình nghệ thuật này rất phổ biến ở các nước Đông Nam Á, như Nang-shek ở Campuchia và Wa-yang-ku-lit ở Indonesia cũng như Malaysia.

Nghệ thuật múa rối nước, ra đời từ sự sáng tạo và tìm tòi của cha ông, gắn liền với cuộc sống nông nghiệp ở đồng bằng Bắc Bộ Khác với múa rối thông thường, múa rối nước sử dụng mặt nước làm sân khấu, với buồng rối nước hay thủy đình tượng trưng cho mái đình nông thôn Việt Nam Những tiết mục múa rối đưa khán giả vào thế giới tưởng tượng phong phú, với những chú rối sắc màu, nét mặt vui tươi và động tác linh hoạt trên mặt nước Kết hợp với âm thanh đặc sắc, nghệ thuật này đã trở thành một phần văn hóa không thể thiếu trong các dịp lễ hội của người dân Bắc Bộ qua nhiều thế hệ.

Múa rối nước là một loại hình nghệ thuật sân khấu độc đáo của Việt Nam, diễn ra trên mặt nước như ao, hồ hoặc bể rộng Người biểu diễn ẩn mình dưới nước trong một buồng trò, thường là một ngôi nhà nhỏ, để điều khiển những con rối bằng gỗ qua một tấm mành Các thiết bị điều khiển như que và dây đều được giấu kín dưới nước, tạo nên một màn trình diễn hấp dẫn Có nhiều loại rối nước khác nhau như rối ao, rối bể, và rối nước kết hợp với rối cạn Sân khấu truyền thống của múa rối nước thường là một công trình hai tầng với tám mái, được xây dựng bằng gạch và mang đậm dấu ấn văn hóa lâu đời.

Nghệ thuật múa rối nước truyền thống ở Việt Nam

1.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển

1.3.1.1 Tên gọi và nguồn gốc

Tô Sanh, người đã dành hơn hai mươi năm nghiên cứu về nghệ thuật rối nước Việt Nam, tiếp tục tìm kiếm các bản ghi chép về "văn bia" Tuy nhiên, Trường Viễn Đông Bác Cổ cùng với các nhà khảo cổ Nhật Bản cho rằng những bia đá này đã bị mòn theo thời gian.

Tô Sanh đã lên núi Ðọi, mang nước từ chân núi lên chùa Long Sơn để rửa sạch tấm bia cổ, loại bỏ rêu và bụi bẩn tích tụ qua nhiều thế kỷ Ông cẩn thận dùng kim băng để làm sạch từng chữ trên bia, sau đó nhờ cụ Tuấn, một chuyên gia chữ Nho, đọc và chụp ảnh lại Trên văn bia ghi lại hình ảnh một con rùa vàng nổi trên sông Lô, mang theo ba hòn núi, cùng với mô tả về điệu múa của các nàng tiên hoa tay mềm mại Điều này cho thấy múa rối nước đã phát triển tinh vi dưới thời nhà Lý, đủ để trình diễn trước vua và được ghi chép lại trong văn bia.

Múa rối nước, một nghệ thuật truyền thống, đã thịnh hành từ thế kỷ 11 trong cung đình, như ghi chép trên bia đá cho thấy Điều này gợi ý rằng múa rối nước có thể đã tồn tại từ trước đó, đặc biệt ở các làng quê, nơi nghệ thuật này được biểu diễn đầu tiên Các lễ hội nông nghiệp, với tín ngưỡng cầu nguyện thần thánh cho mùa màng bội thu, phản ánh sự phụ thuộc của nông dân vào mùa mưa Các làng vẫn duy trì những nghi lễ độc đáo liên quan đến nước, bao gồm chuẩn bị cho các nghi thức như tắm tượng thần, cầu mưa, phóng sinh và các trò chơi dưới nước như thi bơi và múa rối nước.

Múa rối nước, nghệ thuật sân khấu độc đáo xuất phát từ vùng nông thôn châu thổ sông Hồng, đã được gìn giữ qua nhiều thế kỷ Từ “rối” còn trở thành tên riêng của nhiều địa danh như chùa Rối ở Phú Xuyên và làng Rối ở Ý Yên Tác phẩm của Phan Tường Nguyên và ghi chép của vua Trần Thái Tông khẳng định múa rối nước từng là hình thức giải trí cung đình dưới thời Lý-Trần Dù lịch sử Việt Nam trải qua nhiều cuộc chiến tranh, các nhà hát múa rối nhỏ bé như thủy đình ở chùa Thầy và chùa Đông vẫn còn tồn tại, minh chứng cho sự bền bỉ của nghệ thuật này.

Rối nước, một nghệ thuật truyền thống độc đáo, có nguồn gốc từ hơn mười làng trong khu vực châu thổ sông Hồng Trước năm 1945, trong thời kỳ phong kiến, các phường rối hiếm khi trình diễn những con rối của mình ra ngoài kho của đình làng.

Các phường rối thường chỉ biểu diễn trong các lễ hội xuân và ngày giỗ vị thần bảo hộ nghề rối của làng Người biểu diễn chủ yếu là những người nghiệp dư, tập luyện trong thời gian rỗi và hiếm khi đi biểu diễn ở các nơi khác Mặc dù vậy, các phường rối nước trong làng vẫn tổ chức thành hội và tuân theo quy định chặt chẽ, giữ bí mật về các thao tác điều khiển con rối Nghệ sĩ Đinh Văn Tiêu cho biết, trước đây, chỉ những ai xuất sắc mới được gia nhập phường, phải thực hiện nghi lễ dâng lễ vật lên ông tổ nghề Nghề múa rối truyền từ đời cha sang con, nhưng con gái và con rể không được nhập phường Nếu có thành viên mới, tất cả sẽ uống máu ăn thề và cam kết giữ bí mật nghề nghiệp Khi biểu diễn, mỗi người chỉ biết phần của mình và không được tiết lộ cho người khác, trong khi người ngoài không được phép xem luyện tập Bí quyết quan trọng nhất là cấu tạo con rối và kỹ thuật điều khiển dây, và bất kỳ ai làm lộ bí mật sẽ bị phạt nặng và khai trừ khỏi phường.

1.3.1.2 Một số vị thần bảo hộ của múa rối nước ở các phường rối

Phường rối Ra (Hà Tây)

Phường rối làng Ra, một trong những phường rối lâu đời nhất ở Hà Tây, có nguồn gốc từ 10 thế kỷ trước do pháp sư Từ Đạo Hạnh sáng lập Ông, quê ở huyện Bưởi, đã dành thời gian tu hành và giảng đạo Phật, sau đó sang Trung Quốc và Ấn Độ học tập Khi trở về, ông chọn Sài Sơn làm nơi dựng chùa Thầy, nơi có phong cảnh đẹp và làng mạc trù phú, để nghiên cứu kinh Phật cho đến khi qua đời Từ Đạo Hạnh thường xuyên gần gũi với cộng đồng, khuyến khích nghệ thuật truyền thống và dạy dân làng Ra hát chèo và múa rối nước Ông cũng đã cắt ba mẫu ruộng ở Đồng Vai cho phường rối Lễ hội chùa Thầy kéo dài ba ngày, bắt đầu từ mùng 5 tháng 3 Âm lịch, là dịp phường rối dâng cúng lễ vật và biểu diễn để tôn kính người sáng lập Từ Đạo Hạnh.

Phường rối làng Bùi (Hải Dương)

Truyền thuyết kể rằng múa rối nước ở làng Bùi, Hải Dương ra đời thế kỷ

Vào thời nhà Lý, tướng Trần Bình đã đối phó với cuộc xâm lược của giặc Tống bằng một kế hoạch thông minh Ông ra lệnh cho lính chế tạo các quả cầu gỗ giả làm đầu người bằng cỏ dại, sau đó thả xuống hào quanh thành Khi quân giặc tràn vào, họ hoảng sợ trước những hình ảnh giả này, tạo cơ hội cho tướng Trần Bình tấn công từ phía sau Sau khi đất nước bình yên, ông trở về làng Bùi, nơi ông dạy dân làng nghệ thuật múa rối nước và được tôn vinh làm Thành Hoàng Trước mỗi buổi biểu diễn, các thành viên trong phường rối luôn dâng lễ vật để tạ ơn ông tổ của nghề rối nước.

1.3.3 Đặc điểm của nghệ thuật múa rối nước

Con rối được chế tác từ gỗ, với gỗ sung là chất liệu phổ biến nhờ vào trọng lượng nhẹ, độ bền cao và dễ điều khiển khi biểu diễn dưới nước Sau khi hoàn thiện, con rối được sơn lớp sơn chống thấm để bảo vệ Quá trình tạo ra một con rối hoàn chỉnh đòi hỏi sự tỉ mỉ và công phu qua nhiều giai đoạn, từ việc đục cốt cho đến trang trí Con rối bao gồm hai phần chính: phần thân và phần đế.

Phần thân của rối bao gồm đầu, mình, hai tay và hai chân, được tạc thành một khối liền với đế Khi rối chuyển động, toàn bộ cơ thể sẽ di chuyển nhờ vào các khớp được thiết kế phù hợp với yêu cầu của trò diễn, như khớp cổ cho cử động đầu, khớp vai và khuỷu tay cho cử động tay, và khớp bụng cho cử động thân Máy điều khiển rối được lắp đặt ở bụng, và cấu tạo của rối sẽ ảnh hưởng đến khả năng cử động của nó Ví dụ, các loại rối như trâu, bò, ngựa thường được đục rỗng ở bụng để giảm trọng lượng, giúp dễ dàng hơn trong việc điều khiển.

Phần đế của rối nước, nằm bên dưới và kết nối với thân rối, đóng vai trò như phao giúp rối đứng vững khi biểu diễn trên mặt nước Nó cũng là điểm tựa để luồn các dây từ máy điều khiển bên trong thân rối đến tay cầm của sào Có hai loại máy điều khiển trong múa rối nước dân gian: máy sào và máy dây Máy sào đơn giản, cho phép rối di chuyển linh hoạt trên sân khấu, nhưng hạn chế khoảng cách di chuyển Ngược lại, máy dây với hệ thống dây và cột cho phép các trò diễn được đưa ra xa khỏi buồng trò, tạo sự tò mò cho khán giả Kỹ thuật điều khiển và các hiệu ứng từ máy là yếu tố chính tạo nên hành động của con rối Tại phường rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, con rối được làm từ gỗ cây yến và được sơn nhiều lớp vecni truyền thống có phủ bạc, giúp tăng độ bền cho sản phẩm.

Hình tượng rối trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam thường thể hiện những nhân vật gần gũi với đời sống nông dân như người nông dân giản dị, phụ nữ và cô thiếu nữ Ngoài ra, các nhân vật lịch sử như Bà Trưng, Bà Triệu và Lê Lợi cũng được tái hiện, cùng với những hình ảnh quen thuộc từ ruộng đồng như đàn trâu, đàn vịt, đàn cá, cùng các loài vật như mèo và chuột.

Nhân vật quan trọng nhất trong múa rối nước

Chú Tễu, linh hồn của rối nước Việt Nam, được yêu mến từ cung đình đến nông thôn, là cầu nối giữa người biểu diễn và khán giả Với hình dáng tròn trĩnh, da trắng hồng và nụ cười tươi, Tễu thường được mô tả với mái tóc trái đào, tượng trưng cho sự trẻ trung dù chỉ mới bảy, tám tuổi Tễu không chỉ là nhân vật mở màn mà còn là người bình luận, kể chuyện và chỉ trích tham nhũng Trong các vở diễn, Tễu thể hiện tính cách táo bạo, diễu cợt và chế nhạo, đồng thời có thể là người phất cờ hay châm pháo Được coi là biểu tượng văn hóa, Tễu mang nhiều ý nghĩa khác nhau như một người giúp đỡ người già hay người đi mổ bò, mổ trâu, nhưng luôn giữ vai trò quan trọng trong mỗi buổi biểu diễn rối nước.

Theo như ông Nguyễn Văn Tước thuộc phường rối Chàng, xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây cũ là con trai của cựu trưởng phường múa rối

Bộ sách này tổng hợp các quy định dành cho nghệ sĩ trong phường rối, bao gồm các câu chuyện, vở diễn, bài hát và cả bài giáo đầu của Tễu Dưới đây là một trích đoạn tiêu biểu:

Xin chúc các khán giả sức khỏe và hạnh phúc Câu chuyện bắt đầu từ xa xưa, khi cờ xanh cờ đỏ phất phới và lính xếp hàng chờ đợi bên những con ngựa và đoàn voi hùng vĩ Những họng súng chỉ chờ đợi để gầm lên tiếng rống hủy diệt Nhưng trên không trung, bầy tiên nữ đang múa lượn, trong khi bên dưới, tiều phu, nông dân, thợ dệt và ngư dân bận rộn với công việc Tại xưởng đúc đồng, một người đang tạo ra chuông và tượng, trong khi các nhà sư và người mộ đạo thắp hương cầu nguyện bên những ngôi chùa tuyệt đẹp Hãy chú ý đến mặt nước, nơi có hình ảnh con lân, con rùa, con phượng, và những sinh vật khác như chuột, rồng, và rắn.

Ai nấy trẻ già đầu nóng lòng chờ đợi Lời của thánh thần đƣợc theo dõi từng chữ Các nhà thơ nói rằng:

“Đông con, có địa vị trong xã hội là phúc, có lộc.”

“Có tài, có may mắn sẽ thọ lâu”

“Anh chị em ơi, nổi trống phách lên nào”

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, khóa luận đã trình bày tổng quan về nghệ thuật múa rối nước truyền thống, bao gồm khái niệm, nguồn gốc và đặc trưng của loại hình nghệ thuật này Qua đó, bài viết đã chỉ ra giá trị văn hóa và nghệ thuật của múa rối nước, một nét độc đáo riêng biệt của Việt Nam Những thông tin này tạo nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn về nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục trong chương 2.

THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA,HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH

Giới thiệu đôi nét về Vĩnh Bảo, Hải Phòng

Vị trí địa lý: Huyện Vĩnh Bảo đƣợc triều đình nhà Nguyễn thành lập năm

Năm 1838, huyện Vĩnh Bảo được thành lập từ việc sáp nhập 3 tổng (Đông Am, Thượng Am, Ngải Am) thuộc huyện Vĩnh Lại với 5 tổng (An Bồ, Viên Lang, Đông Tạ, Bắc Tạ, Can Trì) thuộc huyện Tứ Kỳ, Hải Dương Huyện Vĩnh Bảo có diện tích tự nhiên khoảng 18.054 ha, nằm ở phía Tây Nam thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố 40 km, là huyện đất liền xa nhất của thành phố Vị trí địa lý của huyện giáp ranh với các tỉnh Thái Bình và Hải Dương, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ngoại thành Hải Phòng Điểm cực Đông của huyện là cửa sông Hóa đổ vào sông Thái Bình, trước khi sông Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ Huyện Vĩnh Bảo tiếp giáp tỉnh Hải Dương ở phía Tây Bắc, tỉnh Thái Bình ở phía Tây Nam và Nam, và huyện Tiên Lãng (Hải Phòng) ở phía Đông và Đông Bắc Địa hình của huyện thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ, với khí hậu và hệ thống sông ngòi phong phú.

Vĩnh Bảo, một vùng đất tiêu biểu của Việt Nam, sở hữu đầy đủ đặc điểm về môi trường tự nhiên với địa hình chủ yếu là đồng bằng và khí hậu nhiệt đới gió mùa Nơi đây có mạng lưới sông ngòi dày đặc, nổi bật với các con sông như sông Luộc, sông Hoá và sông Thái Bình, cung cấp lượng lớn phù sa bồi đắp cho vùng đất.

2.2.2 Điều kiện kinh tế - xã hội

Dân cư tại địa phương này đông đảo với tổng số khoảng 200.000 người, trong đó hơn 100.000 người đang trong độ tuổi lao động Chất lượng lao động ở đây khá cao, cung cấp hàng vạn lao động cho các doanh nghiệp cả trong và ngoài huyện.

Huyện có cơ sở hạ tầng hiện đại với đô thị loại 4, bao gồm thị trấn Nam Am thuộc xã Tam Cường Quy hoạch phát triển hệ thống chợ, giao thông và khu vực bãi rác thải theo hướng bền vững Huyện có các tuyến giao thông chính như quốc lộ 10 dài 15km, đường 17A dài 23,7km, đường 17B dài 28km, đường Cúc Phố - Vĩnh Phong dài 8km và đường Hàn - Hoá dài 6km, tất cả đều được rải nhựa và bê tông, đáp ứng nhu cầu giao thông của người dân.

Huyện có 1 trung tâm y tế với 160 giường bệnh, 3 phòng khám đa khoa khu vực và 30 trạm y tế xã Tuy nhiên, y tế xã đang đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là tình trạng xuống cấp của nhiều trạm y tế, thiếu phòng và thiết bị y tế cần thiết cho việc khám chữa bệnh Ngoài ra, nguồn kinh phí đào tạo y bác sĩ cho y tế xã cũng hạn chế Trong số đó, 3 trạm y tế xã Hiệp Hoà, Vĩnh An và Tiền Phong đang trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, không đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân.

Huyện hiện có 31 trường mầm non, 31 trường tiểu học, 31 trường trung học cơ sở, 5 trường trung học phổ thông và 1 trung tâm giáo dục thường xuyên, phục vụ cho hơn 50 ngàn học sinh Tuy nhiên, cơ sở vật chất, phòng học và trang thiết bị dạy học còn thiếu nhiều Đặc biệt, 6 xã như Giang Biên, Vĩnh An, Dũng Tiến, Hiệp Hoà, An Hoà và Trung Lập đang gặp khó khăn trong việc xây dựng trường lớp do điều kiện kinh tế khó khăn của người dân.

Tài nguyên du lịch Vĩnh Bảo rất phong phú, chủ yếu tập trung vào các yếu tố nhân văn như khu di tích lịch sử, lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, sinh hoạt địa phương, nghệ thuật dân gian và các công trình kiến trúc đặc sắc.

2.2.3.1 Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa Đình Nhân Mục (xã Nhân Hòa) Đình Nhân Mục là ngôi đình khá bề thế, đƣợc xây dựng từ thế kỷ XVII Đình Nhân Mục không chỉ là nơi lưu giữ, bảo tồn những di vật nghệ thuật quí mà còn là trung tâm bảo lưu những sinh hoạt văn hoá cổ truyền tốt đẹp của dân tộc Đình không những là nơi tôn thờ vị thành hoàng mà còn là nơi diễn ra các lễ hội của nhân dân địa phương Ngày hội diễn ra từ mồng 10 đến hết ngày 22 tháng 3 âm lịch, trùng với lễ hội giỗ tổ Hùng Vương Đình được Bộ Văn hoá thông tin quyết định công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia ngày 12 tháng 12 năm 1994

Miếu Cựu Điện (xã Nhân Hòa)

Theo thần tích, vị thành hoàng tại miếu Cựu Điện là ông An Tấn, quê Châu Ái (Thanh Hóa), người đã cùng Lý Thường Kiệt và các tướng lĩnh khác đánh bại quân Tống ở thế kỷ XI Hội lễ chính của miếu Cựu Điện diễn ra từ mùng 10 đến 12 tháng 3 Âm lịch, nhằm kỷ niệm chiến thắng Trong những ngày lễ hội, ngoài các nghi lễ truyền thống, còn có nhiều hoạt động vui chơi như đánh cờ, đốt cây bông, đánh vật, hát chèo và múa lân Đặc biệt, nghệ thuật múa rối nước là hoạt động trung tâm, quan trọng trong suốt thời gian diễn ra lễ hội.

Miếu Bảo Hà ( xã Đồng Minh)

Miếu Bảo Hà, nằm tại ba thôn Bảo Động, Hà Cầu và Mai An thuộc xã Đồng Minh, huyện Vĩnh Bảo, còn được biết đến với tên gọi “Tam xã thượng đẳng từ” Ngôi miếu thờ Linh Lang đại vương, và bức tượng của ngài trong hậu cung là một tác phẩm độc đáo, hiếm gặp trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam.

Miếu Bảo Hà, mặc dù có không gian kiến trúc không lớn, nhưng vẫn lưu giữ nhiều di tích quý giá thể hiện nghệ thuật điêu khắc của người Linh Động, Hà Cầu qua nhiều thế hệ Ngày nay, nghề tạc tượng và tạo hình con rối vẫn được duy trì, phản ánh truyền thống nghệ thuật đặc sắc của làng quê Vĩnh Bảo, Hải Phòng Đền Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nằm tại xã Cổ Am, cũng là một điểm nhấn văn hóa quan trọng trong khu vực.

Khu di tích Trạng Trình rộng 4 ha, bao gồm nhiều hạng mục như Tháp bút Kình Thiên, đền thờ Trạng Trình, nhà trưng bày, phần mộ thân sinh Trạng Trình, Am Bạch Vân, tượng Trạng Trình, Hồ bán nguyệt, chùa Song Mai, và Nhà Tổ của chùa với tượng thờ bà Minh Nguyệt, bia và Quán Trung Tân Tháp bút Kình Thiên được xây dựng bởi học trò của Trạng Trình để tôn vinh tài năng của ông như một trụ cột chống trời.

Ngôi đền được xây dựng trên nền nhà cũ của Trạng Trình từ năm 1765 Qua thời gian và chiến tranh, đền đã bị hủy hoại và trải qua nhiều lần xây dựng, trùng tu Hiện tại, đền có ba gian tiền đường và hai gian hậu cung Phía trước hai bên đền có hai hồ tròn và vuông, tượng trưng cho trời và đất Bên trong đền thờ tượng Trạng Trình trong y phục triều chính.

Chùa Phúc Lâm (xã Nhân Hòa)

Chùa Phúc Lâm, nằm ở làng Cựu Điện thuộc xã Nhân Hoà, là một ngôi chùa cổ với bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa đáng tự hào Theo nguyên bản chữ Hán, chùa Cựu Điện được gọi là “Phúc Lâm Tự” Đây không chỉ là một địa điểm tâm linh mà còn là một địa chỉ đỏ về truyền thống cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Mỹ của huyện; trong đó, những nhà sƣ trụ trì chùa là những nhà hoạt động cách mạng khi thì bí mật, lúc công khai

Ngoài các di tích lịch sử - văn hóa nổi bật, khu vực còn có nhiều điểm đến tâm linh như chùa Đông Lâm ở xã Lý Học, chùa Đông Tạ tại Vĩnh Bảo, và chùa Đồng Quan thuộc xã Dũng Tiến Bên cạnh đó, cụm đền chùa Thái Bình, đình Quán Khái ở xã Vĩnh Phong, đình An Quý tại xã Cộng Hiền, đình Lễ Hợp ở xã Tam Đa, cùng đình xã Trấn Dương cũng là những địa điểm không thể bỏ qua.

Từ Lâm (xã Đòng Minh), đền thờ Trình Quốc Công (Đền Trung Am) xã Lý Học

Nghệ thuật múa rối nước tại làng nhân mục, xã Nhân Mục, Vĩnh Bảo Hải Phòng

2.2.1 Lịch sử hình thành và phát triển

Múa rối nước làng Nhân Mục có nguồn gốc từ năm Nhâm Tý 1911, ban đầu được biểu diễn trên cạn với con rối làm từ rơm, rạ và giấy bồi Sau đó, nghệ thuật này phát triển khi các nghệ nhân sáng tạo ra con rối nổi từ củ chuối và tổ chức diễn dưới ao, hồ Gia đình cụ Ngại đã học hỏi từ phường rối Nguyễn (Thái Bình) và mời cụ Phấn, cụ Khiêm đến giúp xây dựng lại phường rối Nhân Mục Mỗi thành viên góp 5 đồng và 3 cân gạo để hỗ trợ cho thầy trong quá trình tập luyện kéo dài 3 tháng, sau đó họ đã biểu diễn các tiết mục như Tễu giáo đầu, bật cờ, múa tứ linh, đấu vật và kéo cá.

Sau thời kỳ chiến tranh loạn lạc, việc tổ chức và biểu diễn rối nước đã tạm ngừng, nhưng vào năm 1921, nghệ thuật này được khôi phục với những con rối cạn làm từ rơm Đến năm 1945, khi hòa bình lập lại, phường rối nước làng Nhân Mục đã tích cực biểu diễn tại nhiều hội làng Đặc biệt, từ năm 1961 đến 1965, phường được mời biểu diễn tại Hà Tây và Hà Nội, phục vụ cho các lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong các sự kiện quan trọng, nhận được sự hoan nghênh nồng nhiệt Điều này đã khuyến khích phường tiếp tục sáng tạo thêm nhiều tiết mục mới như chồng người, múa tiên, lân tranh cầu và thị mầu lên chùa.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, người dân An Hòa đã nỗ lực bảo vệ độc lập dân tộc, nhưng chiến tranh đã gây ra nhiều khó khăn cho đời sống và khiến nghệ thuật múa rối nước rơi vào nguy cơ thất truyền Cậu bé Phước, phường trưởng phường rối làng Nhân Mục, từ nhỏ đã đam mê múa rối nước và theo ông nội, bố đi biểu diễn khắp nơi Những con rối luôn đồng hành cùng cậu trong từng bữa ăn, giấc ngủ, nuôi ước mơ được biểu diễn Phước đã dày công nghiên cứu và khôi phục nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục, đóng góp lớn cho việc gìn giữ di sản văn hóa này.

Từ năm 2000, phường rối Nhân Mục được kết nạp là thành viên thứ 12 của Hiệp hội múa rối “Unima Việt Nam”, nhận được sự hỗ trợ từ Đảng, chính quyền địa phương và Cục nghệ thuật biểu diễn, Bộ văn hóa thông tin Sự hỗ trợ này bao gồm kinh phí xây dựng nhà thủy đình, đào tạo tay nghề cho diễn viên và nhạc công, cũng như tạo hình con rối Nhờ đó, phường rối Nhân Mục đã nâng cao nghệ thuật biểu diễn, phục vụ nhiệm vụ chính trị của đất nước và quảng bá nghệ thuật dân gian truyền thống độc đáo của Việt Nam Trong quá trình tham gia các hội thi, phường rối nước Nhân Mục đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ.

Năm 2002 đƣợc Bộ văn hóa tặng bằng khen

Năm 2004 Cục nghệ thuật biểu diễn tặng bằng khen

Năm 2005, Bộ Văn hóa Thông tin và UBND tỉnh Phú Thọ đã trao tặng bằng khen cho phường rối tham gia hội diễn múa rối nước toàn quốc tại Đền Hùng, nơi Phú Thọ đạt được 3 huy chương vàng và 2 huy chương bạc Ngoài ra, trong Festival Huế, phường đã giành được 4 huy chương vàng và 4 bằng khen, cùng với giấy khen thành tích từ Hội Văn học Dân gian thành phố.

Phường rối Nhân Mục hiện có 18 nghệ nhân, do ông Trần Văn Phước giữ chức phường trưởng, cùng với ông Nguyễn Văn Luận và ông Nguyễn Văn Tuấn là phường phó, và ông Trần Văn Tập đảm nhiệm vai trò thủy quỹ.

Múa rối nước ở làng Nhân Mục thường diễn ra vào những ngày nông nhàn, đặc biệt là trong các lễ hội vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm Các nghệ sĩ rối nước mang đến những câu chuyện thể hiện sắc thái của hội làng, gửi gắm ước mơ bình dị cho cuộc sống Nghệ thuật rối nước được sáng tạo bởi những người nông dân chân lấm tay bùn, phản ánh gần gũi với tự nhiên và công việc nông nghiệp.

2.2.2 Đặc trưng của nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục

2.2.2.1 Nét độc đáo của nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục a) Con rối

Các con rối làng Nhân Mục được chế tác từ những loại gỗ nhẹ như vuông, sung, vàng tâm, đảm bảo tính dẻo dai và thanh mảnh phù hợp với môi trường nước Nghệ nhân cắt gỗ khi còn tươi, sau đó để khô nhằm tránh mục nát khi ngâm nước Quy trình tạo hình bao gồm việc chạm khắc và nối các bộ phận của con rối, cuối cùng được sơn lớp bảo vệ chống thấm Đặc trưng của con rối Nhân Mục là không có quần áo để tăng độ bền và tạo hình dáng tự nhiên Đặc biệt, khuôn mặt con rối phải thể hiện rõ hồn và vai diễn, với hình ảnh tương đồng với con người Việt Nam thời phong kiến Sự tỉ mỉ trong từng chi tiết từ nét mặt đến trang phục giúp con rối trở thành biểu tượng sống động trong nghệ thuật truyền thống.

Việc tạo hình con rối là một nghệ thuật độc đáo, nơi các nghệ nhân thông qua quá trình truyền nghề và quan sát để phát triển ý tưởng cho các vở diễn mới Họ khéo léo đục đẽo theo hình mẫu lý tưởng, tạo ra những con rối vừa đẹp vừa mới lạ, đồng thời đáp ứng yêu cầu của vở diễn Tuy nhiên, trong quá trình này, việc giữ gìn hình dạng và màu sắc của tranh dân gian là điều kiện tiên quyết Các nghệ nhân luôn chú trọng đến việc thể hiện tính cách nhân vật qua hình thức bên ngoài, và tạo hình nhân vật phù hợp với từng tích trò Qua nhiều năm, nghệ thuật múa rối nước ở làng Nhân Mục đã không ngừng phát triển, bổ sung thêm nhiều tích trò mới, làm cho nghệ thuật này trở nên độc đáo và chỉ có tại Hải Phòng.

Múa rối nước là nghệ thuật độc đáo, sử dụng nước làm sân khấu cho các nhân vật, tạo ra sự hòa quyện giữa cản trở và hỗ trợ Trên "chiếc gương lỏng" này, những gì khô cứng trở nên mềm mại và duyên dáng Đây không chỉ là nghệ thuật hội hè mà còn là sự sáng tạo bí truyền của từng phường, hội và nghệ nhân, lưu giữ nhiều hoạt động xã hội và truyền thống dân gian Sân khấu múa rối nước thể hiện rõ khả năng và tài năng của một dân tộc gắn liền với nghề trồng lúa nước.

Sân khấu rối nước ở làng Nhân Mục được đặt tại một cái ao, với khán đài là bãi cỏ rộng rãi, thuận tiện cho người dân thưởng thức nghệ thuật Nơi đây còn được gọi là “thủy đình” hay “nhà rối”, bao gồm hai tầng: tầng trên thờ tổ và tầng dưới là hậu trường, nơi các nghệ nhân biểu diễn Sân khấu là khoảng trống trước buồng trò, được trang trí bằng cờ, quạt, voi trượng và cổng hàng mã, tạo nên không gian sống động cho các buổi biểu diễn.

Vốn là cái nôi của nghệ thuật hát chèo, Thái Bình đã tạo điều kiện cho làng múa rối nước Nhân Mục tiếp thu và làm phong phú thêm các làn điệu chèo từ xa xưa Sự kết hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của con rối và những câu hát chèo không chỉ mang đến sự thú vị mà còn làm tươi mới cuộc sống tinh thần của nhân dân, giúp họ lạc quan hơn giữa những khó khăn Các vở chèo cổ như Quan Âm Thị Kính, Kiều, Trương Viên đã trở thành những trò diễn đặc sắc, thu hút sự chú ý của khán giả.

Nghệ nhân múa rối nước ở làng Nhân Mục không chỉ là những người sáng tạo mà còn là những nông dân chân chất, gắn bó với ruộng đồng Cuộc sống hàng ngày của họ gắn liền với bùn đất, nhưng niềm đam mê múa rối nước mang lại cho họ niềm vui và sự thích thú Với sự khéo léo và trí óc sáng tạo, họ đã tạo ra những con rối với hình dáng và biểu cảm linh hoạt Những nghệ nhân lớn tuổi ở đây coi việc bảo tồn và duy trì nghệ thuật múa rối nước là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

Đoàn rối Nhân Mục hiện có 18 thành viên và thường xuyên lưu diễn khắp các tỉnh trên toàn quốc Mặc dù múa rối nước không chỉ có ở làng Nhân Mục, theo Viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, nhiều làng khác như Thái Bình, Hải Dương, và Hà Nội cũng có nghệ thuật này Mỗi phường có phong cách biểu diễn riêng, nhưng ở Nhân Mục, sự kết hợp giữa những con rối và làn điệu chèo mộc mạc, cùng tinh thần lạc quan, tạo nên nét đặc trưng riêng Sân khấu múa rối nước truyền thống tại làng Nhân Mục là ao làng, nơi đã góp phần tạo nên danh tiếng cho nghệ thuật múa rối nước nơi đây.

2.2.2.2 So sánh đặc điểm nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục với các làng/ vùng lân cận

Hiện nay, ở Việt Nam vẫn còn tồn tại 14 phường rối truyền thống như:

Phường rối Hồng Phong (xã Hồng Phong, Ninh Giang, Hải Dương)

Phường rối Bùi Thượng thuộc xã Lê Lợi, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; phường rối Thanh Hải nằm trong xã Thanh Hải, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; và phường rối Chàng Sơn tọa lạc tại xã Thạch Thất, Hà Nội.

Phường rối Thạch Xá (xã Thạch Xá, huyện Gia Lâm, Hà Nội )

Phường rối Bình Phú (xã Bình Phú, huyện Thạch Thất, Hà Nội)

Phường rối Nhân Mục (xã Nhân Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng)

Phường rối Nghĩa Trung (huyện Nghĩa Hưng, Nam Định)

Phường rối Nam Chấn (xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định)

Phường rối cạn Nam Giang (Nham Trực, Nam Định)

Phường rối Đông Các (xã Đông Các, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) Phường rối Nguyên Xá (Xã Nguyên Xá, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình)

Phường rối Đồng Ngư (xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) Phường rối Đào Thục ( xã Thụy Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội)

Thực trạng công tác bảo tồn và khai thác cho phát triển du lịch

2.3.1 Thực trạng công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước

2.3.1.1 Khái quát về công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước tại ở Việt Nam

Phong trào biểu diễn múa rối nước đang phát triển mạnh mẽ không chỉ ở miền Bắc mà còn lan tỏa đến các tỉnh miền Trung và Nam Bộ, nơi trước đây chưa có truyền thống này Sự mở rộng này là tín hiệu tích cực cho việc gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống, thu hút đông đảo khán giả.

Sự quan tâm của Nhà nước và các tổ chức xã hội

Liên chi hội múa rối Việt Nam (Unima Việt Nam) đã tập hợp các chi hội thành viên từ các phường rối nước dân gian, phường rối cạn dân gian đến các đơn vị rối chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp trên toàn quốc, nhằm thiết lập mối quan hệ nghề nghiệp và chia sẻ kinh nghiệm giữa các nhà hát và nghệ sĩ Tổ chức này không chỉ khuyến khích nghệ sĩ sáng tạo các tác phẩm chất lượng cao và đào tạo tài năng trẻ, mà còn tổ chức các liên hoan múa rối và lưu diễn quốc tế Bên cạnh việc quảng bá nghệ thuật múa rối nước đến du khách trong và ngoài nước, Unima Việt Nam còn tạo nguồn kinh phí từ khách du lịch và nhà đầu tư để bảo tồn nghệ thuật này Hiện tại, cả nước có 4 nhà hát chuyên nghiệp với 196 nghệ sĩ, 2 đoàn múa rối bán chuyên nghiệp, 3 đoàn rối cạn cổ truyền và 14 phường rối nước cổ truyền với hơn 300 nghệ sĩ, nghệ nhân.

Các tổ chức phi chính phủ như Quỹ Việt Nam – Thụy Điển đã hoàn thành sứ mệnh hỗ trợ nghiên cứu với 1.5 triệu USD trong giai đoạn 2004-2007 Quỹ Ford, hoạt động tại Việt Nam từ đầu năm 1990 và có văn phòng đại diện tại Hà Nội từ tháng 10/1996, đã phê duyệt hơn 625 tài trợ với tổng số tiền lên tới 84.5 triệu USD cho các tổ chức và cá nhân Nhiều thủy đình tại các phường như Đồng Ngư, Thanh Hải, Thạch Xá, Chàng Sơn được xây dựng hoặc sửa chữa trong giai đoạn 2000-2003 nhờ sự tài trợ của Quỹ Ford và Quỹ Việt Nam – Thụy Điển.

Vấn đề về cơ sở vật chất – kỹ thuật

Cơ sở vật chất kỹ thuật của sân khấu múa rối nước truyền thống chủ yếu tập trung vào khu vực thủy đình Nhờ sự quan tâm từ chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội, nhà hảo tâm và cư dân bản địa, mỗi phường rối đều đã có thủy đình riêng Kinh phí để xây dựng mỗi thủy đình và tu sửa, làm mới con giống cùng các thiết bị biểu diễn ước tính khoảng 1 tỷ đồng.

Về nguồn nhân lực phục vụ biểu diễn

Số thành viên dao động khoảng 15 – 22 người như phường Đồng Ngư với

Phường rối làng Nhân Mục có 22 thành viên, trong đó phường rố Đào Thục gồm 15 thành viên, chủ yếu là nam giới Hiện nay, nữ giới cũng tham gia, chủ yếu trong vai trò ca nương và nhạc công, trong khi một số ít có khả năng điều khiển con rối Các thành viên có độ tuổi khác nhau, nhưng chủ yếu là người trung niên, với công việc chính là nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Thu nhập và tiền công được tính theo ngày công và chia đều cho các thành viên, không chỉ nhằm mục đích kinh tế mà còn để khuyến khích các nghệ nhân gắn bó với nghề, bảo tồn và gìn giữ văn hóa quê hương, đồng thời mang lại niềm vui và tiếng cười cho khán giả.

Về đào tạo nguồn nhân lực, hiện nay không chỉ tuyển chọn nam giới mà còn cả nữ giới, tuy nhiên tính bí mật vẫn được giữ gìn Một số bạn trẻ được truyền cảm hứng và chỉ có thể học hỏi từ những người đi trước để phục vụ cho công việc điều khiển con rối Ngoài ra, các vị trí như đào hát, đục đẽo, và sơn rối chủ yếu dựa vào những thành viên có năng khiếu và con cháu trong làng được đào tạo.

Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật múa rối nước

Việc bảo tồn nghệ thuật rối nước cần được thực hiện tại nơi phát sinh của nó, tức là trong không gian văn hóa làng xã như tại phường rối Nhân Mục, Đồng Ngư, và Đào Thục Hiện nay, các phường rối nước thường tổ chức biểu diễn vào dịp lễ hội, Tết, hoặc theo lịch đặt trước, nhằm giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.

Nghệ thuật múa rối nước dân gian Việt Nam đang đối mặt với thách thức hiện đại hóa, dẫn đến sự mờ nhạt bản sắc do tác động của cơ chế thị trường và thiếu quản lý định hướng Mặc dù nghệ thuật truyền thống cần cải tiến để phù hợp với thời đại, nhưng mọi thay đổi cần giữ gìn tinh hoa và bản sắc dân tộc Hiện tại, Việt Nam chỉ có khoảng 100 nghệ sĩ múa rối, con số quá ít để phát triển nền nghệ thuật chuyên nghiệp, và lực lượng kế cận càng yếu ớt Hơn nữa, Việt Nam chưa có viện hay trung tâm nghiên cứu chuyên ngành múa rối, cùng với số lượng tác giả và họa sĩ tạo hình rất hạn chế, gây khó khăn cho sự phát triển của nghệ thuật này.

Múa rối nước dân gian hiện đang phát triển một cách tự do và không có sự đồng nhất, với mỗi nghệ nhân theo đuổi theo cách riêng của mình Các nghệ nhân từ Thái Bình, Nam Định, Hà Tây, Hà Nội cho rằng còn rất nhiều trò diễn cổ truyền chưa được khai thác Dù đã có những nỗ lực đổi mới và kết hợp các loại hình nghệ thuật, múa rối nước Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh mẽ và đang trong tình trạng báo động Hiện tại, nhiều tiết mục truyền thống như đánh cá, chăn vịt, đua thuyền và chọi trâu vẫn được lặp lại, trong khi hàng trăm tích trò rối nước trước đây chỉ còn lại hơn mười tích được bảo tồn và biểu diễn.

Yếu tố quyết định sự thành bại của một tiết mục múa rối nằm ở khâu chế tạo bộ máy điều khiển Tuy nhiên, khi những nghệ nhân cao niên qua đời, nhiều bí quyết chế tác quý giá cũng bị thất truyền, dẫn đến sự mất mát của một gia sản văn hóa lớn Kết quả là, các tích trò truyền thống dần biến mất và việc phục dựng trở nên khó khăn Hơn nữa, sự đơn điệu của tích trò cùng với việc một số đơn vị múa rối chú trọng vào lịch sử đã khiến chất lượng nghệ thuật của nhiều tiết mục ngày càng phai nhạt.

Việc sử dụng nghệ thuật truyền thống trong quảng bá du lịch là cần thiết, nhưng nếu mục đích không đúng, có thể gây tác dụng ngược Du khách cần hiểu rõ tinh hoa và đặc điểm của văn hóa nghệ thuật Việt Nam, thay vì chỉ bị cuốn vào những yếu tố thương mại Mục đích thương mại này đã dẫn đến sự mai một và lãng quên của nghệ thuật dân gian, làm cho những tiết mục múa rối ngày càng trở nên nghèo nàn.

Để bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật múa rối nước, cần đầu tư vào trang thiết bị, phục dựng trò cũ và phát triển trò mới Việc khai thác kinh nghiệm của các nghệ nhân cao tuổi và truyền nghề cho thế hệ trẻ là rất quan trọng Đồng thời, củng cố bộ máy tổ chức của các phường rối cũng là một bước thiết thực nhằm bảo lưu nghệ thuật này.

“đặc sản văn hóa” của dân tộc tự ngàn đời nay - múa rối nước

2.3.1.2 Công tác bảo tồn nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục

Năm 1994, múa rối nước tại làng Nhân Mục, xã Nhân Mục được Cục Nghệ thuật thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hỗ trợ 80 triệu đồng để xây dựng nhà thủy tạ (sân khấu múa rối nước) và mua một đôi rối, nhằm bảo tồn nghệ thuật múa rối nước truyền thống.

Năm 1995, Cục Nghệ thuật đã đầu tư vào việc bảo tồn và khôi phục múa rối nước Nhân Mục, nhằm bảo vệ nét độc đáo của văn hóa dân tộc Hoạt động này không chỉ phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân mà còn góp phần phát triển du lịch địa phương.

Đánh giá về công tác bảo tồn, khai thác nghệ thuật múa rối nước cho phát triển du lịch tại làng Nhân Mục

Loại hình nghệ thuật đặc sắc, độc đáo

Múa rối nước là một nghệ thuật độc đáo chỉ có tại Việt Nam, đặc biệt là ở Hải Phòng với đoàn nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục Đây là một loại hình nghệ thuật hấp dẫn, thu hút du khách đến địa phương Do đó, Sở VHTT & DL Hải Phòng, UBND huyện và chính quyền địa phương cần chú trọng phát triển tiềm năng này để phục vụ cho ngành du lịch.

Phường rối nước làng Nhân Mục, thuộc sự quản lý của Ủy ban nhân dân xã Nhân Hòa, do phó chủ tịch Ủy Ban Thường vụ chịu trách nhiệm chính Ban lãnh đạo phường rối gồm một trưởng phường và hai phó phường, có nhiệm vụ quản lý diễn viên và lịch diễn.

Phường rối Nhân Hòa không chỉ được quản lý bởi ủy ban nhân dân xã mà còn dưới sự giám sát của phường trưởng Trần Văn Phước Ông chịu trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động của phường rối, bao gồm ngày công làm việc của các nghệ nhân, thời gian biểu diễn và các tiết mục phục vụ khách.

Phường rối nước làng Nhân Mục hoạt động liên tục với tần suất cao, phục vụ chủ yếu cho người dân địa phương trong các lễ hội và khách thập phương trong dịp Tết Nguyên Đán Hàng tháng, phường có sự hợp tác với nhà hát múa rối Trung Ương và Bảo tàng dân tộc học Việt Nam để tổ chức biểu diễn Hoạt động chính của phường là kết nối với các công ty du lịch, đưa rối nước Nhân Mục trở thành điểm du lịch hấp dẫn trong các tour tại địa phương Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã quan tâm, giúp phường thu hút khách du lịch từ Hà Nội và tổ chức biểu diễn cho các đoàn khách đến Hải Phòng và Vĩnh Bảo Gần đây, phường rối nước rất vinh dự khi đón Tổng bí thư Lê Khả Phiêu và ông Nguyễn Mạnh Cần đến thưởng thức nghệ thuật múa rối nước.

Đoàn rối nước Nhân Mục hiện có 18 thành viên, bao gồm các nghệ nhân tài năng như Trần Văn Phước, Trần Văn Thịnh và hai con trai của ông Trong đội ngũ này, có 3 nữ nghệ nhân và tất cả đều là hội viên Ông Phước đã đào tạo một đội ngũ nghệ nhân khéo léo trong việc chế tác và biểu diễn, tạo ra những tác phẩm rối nước mang tính thẩm mỹ cao và giữ gìn các tích trò cổ truyền Đoàn thường xuyên lưu diễn khắp các tỉnh trên toàn quốc, mang đến những trải nghiệm văn hóa độc đáo cho khán giả.

Chất lượng nội dung chương trình biểu diễn

Phường rối nước Nhân Mục đã xây dựng một kịch bản đa dạng với 38 tích trò, trong đó có 14 tích trò cổ truyền Các tiết mục dân dã như chăn vịt, múa rồng, đánh bắt cá, xay lúa và giã gạo không thể thiếu trong chương trình Chất lượng biểu diễn rối nước được khách du lịch trong và ngoài nước đánh giá cao, thể hiện qua quyển sổ lưu bút của phường Mỗi chương trình kéo dài khoảng 30 phút, và trước khi bắt đầu, phường sẽ phát cho mỗi khán giả một tờ giấy liệt kê 12-14 tích trò để họ dễ theo dõi.

Do nguồn lực kinh tế hạn chế, nhân lực phục vụ cho phường rối cũng gặp nhiều khó khăn Tất cả công việc, từ sửa chữa rối hỏng, chế tạo rối mới, đến tiếp đón khách du lịch và chuẩn bị cho các chương trình biểu diễn, đều do các thành viên trong phường đảm nhiệm.

Phường rối Nhân Mục hiện vẫn chủ yếu có các nghệ nhân kỳ cựu, trong khi đội ngũ nghệ nhân trẻ còn hạn chế và thiếu sự đam mê với nghệ thuật múa rối nước Tình trạng này đang đặt ra mối lo ngại cho việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật múa rối nước của làng.

Phường rối nước Nhân Mục, với 38 tích trò bao gồm 14 tích trò cổ truyền, vẫn thiếu sự đổi mới trong các tiết mục, chủ yếu phụ thuộc vào những tích trò truyền thống Mối liên kết giữa phát triển du lịch và nghệ thuật múa rối nước chưa hiệu quả, dẫn đến việc thiếu các dịch vụ phục vụ du khách Do đó, du khách chỉ dừng lại ở việc xem biểu diễn mà chưa có cơ hội trải nghiệm thực sự như tự tay làm rối hay hòa mình vào đời sống của người dân địa phương.

Công tác bảo tồn chưa được quan tâm đúng mức

Phường rối nước tại xã Nhân Mục đã xây dựng một nhà bảo tồn nhỏ để trưng bày các hoạt động, bằng khen và những con rối cũ từng được sử dụng trong biểu diễn Tuy nhiên, nhà bảo tồn này là một công trình cấp 4, hẹp và không đủ điều kiện để bảo quản các hiện vật và trang thiết bị phục vụ cho nghệ thuật rối nước, khiến nhiều con rối chỉ được lưu giữ trong tủ kính, trong khi phần lớn không có nơi bảo quản thích hợp.

Hoạt động quảng bá du lịch của địa phương gắn với nghệ thuật múa rối nước còn chưa được quan tâm

Múa rối nước là một nghệ thuật độc đáo thu hút du khách mà không gặp rào cản ngôn ngữ, nhưng nghệ thuật này tại làng Nhân Mục vẫn chưa được quảng bá hiệu quả Các cơ quan như Sở VHTT & DL Hải Phòng, chính quyền địa phương và các công ty lữ hành chưa chú trọng vào việc phát triển du lịch tại các phường rối Do đó, lượng khách biết đến nghệ thuật múa rối nước ở làng Nhân Mục vẫn còn hạn chế.

Nguồn nhân lực trong ngành du lịch tại phường Rối đang gặp nhiều thách thức, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống Đội ngũ nhân viên thường có tác phong chậm và thiếu tính chuyên nghiệp, dẫn đến trải nghiệm không tốt cho du khách Hơn nữa, một số nhà nghỉ và cửa hàng ăn còn có hiện tượng tăng giá một cách bất hợp lý, "chặt chém" khách du lịch, đặc biệt là khách quốc tế, điều này không chỉ ảnh hưởng đến hình ảnh của địa phương mà còn tác động tiêu cực đến hình ảnh của người Việt trong mắt du khách.

Cùng với đó là nguồn hướng dẫn viên, thuyết minh viên am hiểu về nghệ thuật múa rối nước để giới thiệu cho du khách không có

Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ biểu diễn và du lịch còn thiếu, chưa đồng bộ

Phường rối Nhân Mục tổ chức biểu diễn tại thủy đình trong khuôn viên đình Nhân Mục, nhưng không gian biểu diễn khá hạn chế do thủy đình nằm trong ao tù hình chữ nhật nhỏ Đường làng xung quanh không tạo được không khí hấp dẫn cho du khách Hơn nữa, các thiết bị phục vụ biểu diễn dưới nước đã xuống cấp, với hệ thống loa và ánh sáng hạn chế, làm giảm sức hấp dẫn của buổi biểu diễn Khu vực biểu diễn cũng thiếu nhà xem, chỉ có ghế ngồi, dẫn đến việc giảm tính độc đáo và thu hút của chương trình.

Cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết định trong việc thu hút du khách đến các điểm du lịch, như xã Nhân Mục trên quốc lộ 37, nơi kết nối giữa Hải Phòng và Thái Bình Mặc dù đường giao thông khá thuận lợi, một số tuyến đường vẫn chưa được nâng cấp, gây khó khăn cho việc di chuyển Đường vào phường rối nước đã được nhựa hóa, nhưng xe 45 chỗ không thể vào do đường quá nhỏ và đông dân cư, buộc du khách phải đi bộ khoảng 500m, gây mệt mỏi Hiện tại, phường chỉ có khu vực gửi xe máy và xe đạp, trong khi khu vực đỗ ô tô chưa được xây dựng, dẫn đến tình trạng đỗ xe ngoài đường và cản trở giao thông Thêm vào đó, việc người dân họp chợ ngay trước cổng làng Đình Nhân Mục làm mất mỹ quan và gây phản cảm cho du khách.

Xã Nhân Mục hiện có bưu điện phục vụ trao đổi thông tin trong khu vực, nhưng không đáp ứng được nhu cầu liên lạc của khách du lịch quốc tế, gây khó khăn trong việc kết nối thông tin Ngoài ra, trạm y tế xã cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân, nhưng trang thiết bị và điều kiện không đạt tiêu chuẩn cho khách quốc tế, thiếu nhân lực y tế, và nếu cần hỗ trợ máy móc, bệnh nhân phải được chuyển lên bệnh viện tuyến trên.

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2, tác giả phân tích đặc trưng nghệ thuật múa rối nước tại làng Nhân Mục, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng, đồng thời so sánh với các làng lân cận để làm nổi bật sự độc đáo của nghệ thuật này Tác giả cũng nêu rõ những thuận lợi và khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển nghệ thuật múa rối nước tại Nhân Mục, từ đó làm cơ sở đề xuất giải pháp cho chương 3.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC TẠI LÀNG NHÂN MỤC, XÃ NHÂN HÒA, HUYỆN VĨNH BẢO, HẢI PHÒNG CHO PHÁT TRIỂN DU LỊCH

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:46

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. Chuyên đề Múa rối nước - nghệ thuật truyền thống độc đáo, http://vhttdlkv3.gov.vn/ Link
10. Èo uột sản phẩm du lịch rối nước Nhân Hòa, Vĩnh Bảo, http://anhp.vn/ Link
12. Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam: Lịch sử và hiện trạng, http://reds.vn/ Link
13. Múa rối nước - một sáng tạo độc đáo của người Việt, http://hanoi.vietnamplus.vn/ Link
14. Múa rối nước ở Nhân Hòa, http://vinhbaoclub.com/ Link
15. Rối nước cổ truyền làng Nguyễn - di sản văn hoá độc đáo, http://www.thaibinh.gov.vn/ Link
1. Lady Borton, Hữu Ngọc –Tìm hiểu văn hóa Việt Nam-Rối nước(Water puppets), thế giới Publishers Khác
2. Lý Khắc Cung (2006) – Nghệ thuật múa rối nước, NXB văn hóa thông tin Khác
3. Hoàng Kim Dung (1992) – Nghệ thuật múa rối và vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho trẻ em, Nhà xuất bản văn hóa dân tộc Khác
4. Nguyễn Huy Hồng (1996) – Rối nước Việt Nam, nhà xuất bản sân khấu Khác
5. Minh Quang – Kinh Dịch và nghệ thuật truyền thống, NXB chính trị quốc gia Khác
6. Tô Sanh – Nghệ thuật múa rối nước (1976), NXB văn hóa – Hà Nội Khác
7. Nguyễn Thanh Vân sưu tầm, dịch (2002) – Những sự kiện sân khấu Việt Nam qua thƣ tịch cổTài liệu internet Khác
9. Đôi điều suy nghĩ về Phát triển nghệ thuật múa Rố i Việt Nam trong thờ i kỳ h ộ i nhập quốc tế Khác
11. Nghệ thuật múa rối đội ngũ kế thừa , http://baothanhhoa.vn Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w