1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Luận văn ẩm thực truyền thống của người tày ở chợ đồn bắc kạn với việc phát triển du lịch

92 9 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 1,69 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (1)
  • 2. Mục đích nghiên cứu (2)
  • 3. Đối t-ợng nghiên cứu (3)
  • 4. Phạm vi nghiên cứu (3)
  • 5. Ph-ơng pháp nghiên cứu (3)
  • 6. Nội dung và bố cục của Khoá luận (3)
    • 1.1. Văn hoá ẩm thực truyền thống trong phát triển du lịch . 4 1.Khái niệm “Du lịch” (4)
      • 1.1.2. Khái niệm “Văn hoá” (5)
      • 1.1.3. Văn hoá ẩm thực (7)
    • 1.2. Khái quát về ng-ời Tày ở huyện Chợ Đồn (9)
      • 1.2.1. Đặc điểm về tự nhiên (9)
      • 1.2.2. Đặc điểm môi tr-ờng- xã hội và con ng-ời (12)
  • CHƯƠNG II: TìM HIểU VĂN HOá ẩM THựC TRUYềN THốNG CủA NGƯời tày ở chợ đồn - bắc kạn (0)
    • 2.1. Đặc tr-ng văn hoá ẩm thực truyền thống của ng-ời Tày ở Chợ Đồn (24)
      • 2.1.1. Nguồn nguyên liệu chế biến (24)
      • 2.1.2. Cách chế biến và cách bảo quản thực phẩm (30)
      • 2.1.3 Một số món ăn và đồ uống truyền thống (34)
    • 2.2 Cách tổ chức, ứng xử và kiêng kỵ trong ăn uống (41)
      • 2.2.1 Cách tổ chức bữa ăn (41)
      • 2.2.2. ứng xử và những kiêng kỵ trong tập quán ăn uống (45)
    • 3.1. Những biến đổi và việc bảo tồn các giá trị văn hoá ẩm thực truyền thống phục vụ cho du lịch (50)
      • 3.1.1. Những biến đổi ẩm thực truyền thống của ng-ời Tày ở Chợ Đồn (50)
      • 3.1.2 Các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống phục vụ cho du lịch (53)
    • 3.2. Tiềm năng du lịch ở Chợ Đồn- Bắc Kạn (59)
      • 3.2.1. Ưu thế về điều kiện tự nhiên (59)
      • 3.2.2. Ưu thế về môi tr-ờng- xã hội và con ng-ời (61)
    • 3.3. Khai thác các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống phát triển du lịch (64)
      • 3.3.1. Một số ý t-ởng xây dựng tour du lịch ở Chợ Đồn- Bắc Kạn (64)
      • 3.3.2. Khai thác các giá trị văn hoá ẩm thực truyền thống phát triển du lịch (66)

Nội dung

Mục đích nghiên cứu

Khóa luận này nhằm khám phá sự độc đáo trong phương pháp chế biến, bảo quản và thói quen ăn uống truyền thống của người Tày tại Chợ Đồn, Bắc Kạn Đồng thời, nghiên cứu cũng tập trung vào ẩm thực dân gian của người Tày, từ đó góp phần quảng bá các giá trị văn hóa và phong tục tập quán ẩm thực của cộng đồng miền sơn cước.

Mục tiêu chính của bài viết là khám phá tiềm năng ẩm thực truyền thống của người Tày tại Chợ Đồn, Bắc Kạn, kết hợp với phát triển du lịch Qua đó, chúng tôi mong muốn nghiên cứu và thiết kế những tour du lịch hấp dẫn, góp phần quảng bá văn hóa ẩm thực đặc sắc của cộng đồng này.

Đối t-ợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận tập trung vào các món ăn và đồ uống truyền thống của người Tày tại huyện Chợ Đồn, cũng như cách thức tổ chức bữa ăn của họ Nghiên cứu này không chỉ giúp bảo tồn văn hóa ẩm thực đặc sắc mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch bền vững cho khu vực.

Ph-ơng pháp nghiên cứu

Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu để thu thập tài liệu thực địa tại Chợ Đồn, Bắc Kạn, bao gồm các đợt điền dã dân tộc học Trong quá trình này, tôi đã sử dụng các kỹ thuật như chụp ảnh, ghi chép, phỏng vấn và quan sát để thu thập thông tin một cách hiệu quả.

Phương pháp nghiên cứu bao gồm việc thu thập tài liệu báo cáo, thống kê và phân tích, so sánh các nguồn tư liệu về văn hóa ẩm thực truyền thống của người Tày ở Chợ Đồn Sau đó, các thông tin này sẽ được tổng hợp và biên soạn thành một văn bản hoàn chỉnh.

Nội dung và bố cục của Khoá luận

Văn hoá ẩm thực truyền thống trong phát triển du lịch 4 1.Khái niệm “Du lịch”

Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, đời sống con người ngày càng cải thiện, dẫn đến nhu cầu du lịch trở thành một phần thiết yếu trong cuộc sống Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về du lịch từ nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau.

Theo học giả Ausher thì “Du lịch là nghệ thuật đi chơi của các cá nhân” Đối với I.I Pirôgionic, 1895 cho rằng:

Du lịch là hoạt động giải trí của con người trong thời gian rảnh, bao gồm việc di chuyển và lưu trú tạm thời bên ngoài nơi ở thường xuyên Mục đích của du lịch là nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, đồng thời nâng cao nhận thức về văn hóa và thể thao Hoạt động này cũng liên quan đến việc tiêu thụ các giá trị tự nhiên, kinh tế và văn hóa.

Tài nguyên du lịch tự nhiên thu hút du khách nhờ vẻ đẹp hoang sơ và độc đáo, trong khi tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn bởi sự đa dạng và tính truyền thống Du lịch văn hóa là hình thức du lịch cho phép con người trải nghiệm và thưởng thức những sản phẩm văn hóa đặc sắc của nhân loại, quốc gia, vùng miền hoặc dân tộc.

Du lịch văn hóa được định nghĩa là các hoạt động diễn ra trong môi trường nhân văn, tập trung vào việc khai thác tài nguyên văn hóa Điều này khác biệt với du lịch sinh thái, vốn chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu trở về với thiên nhiên của con người.

Tài nguyên du lịch tự nhiên thu hút du khách nhờ vẻ đẹp hoang sơ và độc đáo, trong khi tài nguyên du lịch nhân văn lại hấp dẫn bởi sự phong phú và tính truyền thống Các yếu tố văn hóa này là nền tảng cho sự phát triển của loại hình du lịch văn hóa đa dạng và hấp dẫn.

Văn hoá là một khái niệm rộng lớn, bao gồm nhiều ý nghĩa và phản ánh các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống Trên toàn cầu, có nhiều quan niệm đa dạng về Văn hoá.

Năm 1970, tại Viên (áo), Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa đã thống nhất:

Văn hóa là yếu tố đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa các dân tộc, bao gồm từ những sản phẩm hiện đại tinh vi đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và phương thức lao động.

Năm 1994, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về Văn hóa dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu hàng đầu, cho rằng Văn hóa là tổng thể các đặc trưng về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm, khắc họa bản sắc của cộng đồng, gia đình, xóm, làng, vùng, miền, quốc gia và xã hội.

Hồ Chủ tịch, lãnh tụ vĩ đại của Nhân dân Việt nam, nhà văn hóa lớn của Việt Nam và của cả Thế giới đã từng nói:

Văn hóa là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình thực tiễn Nó bao gồm ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật và các công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày Những sáng tạo này phản ánh sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội, nhằm phục vụ cho mục đích sinh tồn và phát triển.

Các nhà Nhân học Âu - Mỹ, cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa Có ng-ời chia Văn hóa ra thành các yếu tố:

Các ph-ơng thức kiếm sống

Các hình thức hôn giáo

Một số khác lại cho rằng Văn hóa bao gồm các yếu tố cấu thành: §êi sèng vËt chÊt §êi sèng tinh thÇn

Các hệ thống tôn giáo

Văn hóa đảm bảo đời sống (làng bản, nhà cửa, ăn, mặc )

Văn hóa chuẩn mực xã hội (luật lệ, nghi lễ, phong tục )

(Theo nhóm Makarian ở Êrêvan/Liên Xô cũ)

Theo các nhà Dân tộc học Việt Nam:

Văn hóa là toàn bộ cuộc sống - cả vật chất, xã hội, tinh thần của từng cộng đồng [18, 55]

Nh- vậy, văn hóa tộc ng-ời, hay văn hóa dân tộc bao gồm ba bộ phận chính cấu thành:

Văn hóa vật chất (gồm cả hoạt động kinh tế, tập quán c- trú, làng bản) Văn hóa xã hội (tổ chức, cấu trúc, các quan hệ xã hội )

Văn hóa là một khái niệm đa dạng, phản ánh sự phong phú của nhiều dân tộc, cộng đồng, vùng miền và quốc gia khác nhau Nó không chỉ thể hiện bản sắc riêng của từng nhóm mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc từ thiên nhiên nơi mà các cộng đồng này sinh sống.

Văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc là nền tảng cho sự phát triển và củng cố ý thức tự giác của một cộng đồng Khi một dân tộc bị đồng hóa, họ cảm thấy như mất đi văn hóa của chính mình, dẫn đến sự tiêu vong của ý thức tự giác dân tộc Do đó, trên phương diện văn hóa, dân tộc đó sẽ bị xóa sổ.

Ẩm thực và các tập tục ăn uống của người Tày ở Chợ Đồn - Bắc Kạn là một phần quan trọng trong văn hóa vật thể của họ, góp phần hình thành và khẳng định bản sắc văn hóa Tày Những giá trị này, kết hợp với các yếu tố văn hóa khác và các di tích, danh thắng trong khu vực, tạo ra tiềm năng phát triển du lịch cho vùng Chợ Đồn - Bắc Kạn.

Món ăn và thức uống của mỗi dân tộc là một sáng tạo văn hóa độc đáo, phản ánh trình độ văn minh và phát triển xã hội qua các thế hệ Chúng không chỉ là biểu tượng văn hóa truyền thống mà còn thể hiện kỹ thuật sản xuất và sự phát triển của cộng đồng.

“Ẩm thực” là từ gốc Hán Việt, trong đó “ẩm” có nghĩa là uống và “thực” có nghĩa là ăn, thể hiện hành động ăn uống Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam đã đúc kết nhiều câu thành ngữ về ăn uống, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “ăn” với câu nói “dân sinh dĩ thực vi tiên”.

Trong văn hóa Việt Nam, câu nói “dân ta sống ở đời lấy việc ăn làm đầu” thể hiện tầm quan trọng của ẩm thực trong đời sống con người Các cụm từ như “ăn uống”, “ăn mặc” hay những câu thành ngữ như “miếng ăn là miếng nhục” cho thấy ẩm thực không chỉ là nhu cầu vật chất mà còn là biểu hiện của bản sắc văn hóa Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, “cách ăn uống là cách sống”, và ẩm thực Việt Nam mang đặc trưng của từng vùng miền Mỗi tầng lớp xã hội có những món ăn đặc trưng, từ cao lương mỹ vị cho đến món ăn dân dã, phản ánh sự phân tầng xã hội Ngoài ra, ẩm thực cũng thay đổi theo các dịp lễ hội, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc và vùng miền, tạo nên sự đa dạng và sinh động trong đặc điểm văn hóa và phong tục tập quán.

Khái quát về ng-ời Tày ở huyện Chợ Đồn

1.2.1 Đặc điểm về tự nhiên:

* Vị trí địa lý - địa hình :

Chợ Đồn, trước đây gọi là Bạch Sơn, là một huyện thuộc tỉnh Bắc Kạn, cách thị xã Bắc Kạn 45km về phía tây Huyện này có vị trí chiến lược quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, là một trong những căn cứ địa quan trọng của cách mạng Tại đây còn tồn tại nhiều khu di tích lịch sử như Nhân Pậu, Khau Mạ (xã Lương Bằng) và Khau Bon (xã Nghĩa Tá) Chợ Đồn giáp huyện Ba Bể ở phía Bắc, huyện Định Hóa (Thái Nguyên) ở phía Nam, huyện Bạch Thông ở phía Đông, và huyện Na Hang cùng huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) ở phía Tây.

Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 91.293 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 4.471 ha và có 2.599 ha là đất canh tác lúa n-ớc

Huyện Chợ Đồn bao gồm thị trấn Bằng Lũng và 21 xã, trong đó có Phương Viên, Đông Viên, và Bằng Phúc Địa hình nơi đây rất hiểm trở với nhiều ngọn núi cao thuộc cánh cung sông Gâm, nổi bật là đỉnh Tam Tao cao 1.326m và đỉnh Phia Lểnh cao 1.527m Khu vực này có núi non trùng điệp, chủ yếu là núi đá vôi, tạo nên những hang động với nhiều nhũ đá có hình thù đẹp mắt.

Huyện Chợ Đồn có địa hình miền núi và trung du phức tạp, với đồi núi thấp và vùng núi cao rộng lớn Thời tiết nơi đây thay đổi theo bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, trong đó mùa hạ và thu là mùa mưa, còn đông và xuân là mùa khô Khí hậu chủ yếu là nhiệt đới ẩm gió mùa, với nhiệt độ trung bình năm từ 20-22°C và lượng mưa đạt 2000-2500mm/năm Mùa nóng có nhiệt độ từ 25-27°C, trong khi mùa đông thường lạnh và kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, với nhiệt độ có thể xuống tới 5°C, gây hiện tượng sương muối Độ ẩm cao nhất vào tháng 7, khoảng 87%, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển các loại cây trồng vụ đông.

Địa lý tự nhiên tại huyện Chợ Đồn đặc trưng bởi sự hình thành các cánh cung quay ra biển, tạo ra những thung lũng rộng lớn với sông suối và cánh đồng màu mỡ Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đời sống kinh tế và văn hóa - xã hội của người Tày cũng như cộng đồng dân cư tại đây.

Huyện Chợ Đồn nổi bật với ba con sông chính: sông Cầu, sông Phó Đáy và sông Nam Cường, cung cấp nguồn nước dồi dào cho nông nghiệp lúa nước và đánh bắt thủy sản Trong mùa khô, nước sông thường cạn, nhưng vào mùa mưa, mực nước tăng cao, chảy siết và tạo thành thác lũ lớn Lượng mưa trung bình đạt khoảng 1.600mm, với các sông có độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác và sức xói mòn mạnh, mang lại lượng phù sa phong phú Ngoài ra, khu vực còn có nhiều suối và khe lạch nhỏ, thuận lợi cho việc khai thác đất và tưới tiêu cho sản xuất nông nghiệp.

* Đất đai và hệ động thực vật: §Êt ®ai: Đất đai phong phú về chủng loại gồm có hai loại cơ bản:

Đất feralit chiếm ưu thế nhờ quá trình phân hóa từ núi đá, bao gồm các loại đất như: đất feralit màu vàng nhạt trên núi trung bình với độ ẩm cao và thảm thực vật phong phú, đất feralit màu vàng đỏ ở vùng đồi thấp thích hợp cho nông nghiệp, đất feralit màu nâu sẫm trên đá vôi có độ phì nhiêu cao, và đất bồi tụ phù sa ven sông suối rất thuận lợi cho việc trồng cây lương thực và rau màu.

Đất mùn alít hình thành tại các khu vực núi đá cao, nhờ vào sự tích tụ xác thực vật kết hợp với đất nguyên thủy và đá vôi phong hóa Loại đất này có màu sắc tự nhiên và rất phù hợp cho việc trồng các loại cây củ quả.

Vùng á nhiệt đới với núi non trùng điệp và đất đai phong phú tạo điều kiện lý tưởng cho sự phát triển đa dạng của hệ động thực vật Rừng chiếm 3/4 diện tích huyện, với độ cao trung bình từ 500 - 1200m, tạo ra thảm thực vật phong phú với nhiều tầng cây khác nhau, từ cây cao lớn đến cây thấp và dây leo Nơi đây có nhiều loại gỗ quý như đinh, lim, sến, và các lâm thổ sản như mây, tre, nấm, cùng với nhiều loại hoa quả và rau rừng Động vật phong phú với các loài như hổ, gấu, nai, và nhiều loại chim thú nhỏ, cung cấp nguồn thực phẩm dồi dào và dược liệu quý giá.

1.2.2 Đặc điểm môi tr-ờng- xã hội và con ng-ời:

* Nguồn gốc, tên gọi, quá trình tụ c- :

Người Tày, hay còn gọi là người Thổ, là dân tộc thiểu số đông nhất tại Việt Nam, chủ yếu sinh sống ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn và Hà Giang Sau năm 1954 và đặc biệt là sau năm 1975, một bộ phận lớn người Tày đã di cư vào các tỉnh Tây Nguyên (61.832 người) và Đông Nam Bộ (56.564 người) Tiếng Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái trong ngữ hệ Thái - Kađai, gần gũi với tiếng của người Thái, người Nùng, và người Choang ở phía nam Trung Quốc, cũng như người Lào và người Thái tại Thái Lan và Việt Nam Ngoài nhóm người Tày chính, còn có bốn nhóm địa phương khác là Pa Dí, Thu Lao, Ngạn và Phén.

Nghiên cứu dân tộc học cho thấy người Tày có nguồn gốc từ khối Bách Việt, cư trú lâu đời tại khu vực nam Trung Quốc và bắc Việt Nam Qua thời gian, họ đã chịu ảnh hưởng văn hóa Việt và trở thành người Tày ở Việt Nam Tại huyện Chợ Đồn, hiện có 33.216 người Tày, chiếm khoảng 65% dân số toàn huyện, phân bố chủ yếu ở các xã như Phương Viên, Đông Viên, Rã Bản, Đồng Lạc, Bằng Phúc, Bình Trung, Bằng Lũng, Yên Thịnh và Yên Thượng Họ sinh sống tập trung trong các bản, mỗi bản có từ 50 đến 60 nóc nhà.

Người Tày ở Việt Nam, đặc biệt là ở Chợ Đồn, tự gọi mình là Cần Tày Tên gọi "Tày" có nguồn gốc không rõ ràng nhưng đã gắn bó với cộng đồng này từ lâu Theo các nhà nghiên cứu, bao gồm TS Trần Bình, "Tày" có nghĩa là "người tự do" Người Tày cổ đã có mặt ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ nửa cuối thiên niên kỷ I trước Công nguyên Qua hàng nghìn năm lịch sử, do ảnh hưởng của các dân tộc khác, họ đã phân hóa thành nhiều bộ phận khác nhau Những người sống ở miền trung du hòa nhập với người Việt và người Mường, trở thành một phần của người Việt với những đặc trưng địa phương rõ nét Trong khi đó, bộ phận cư trú ở miền núi vẫn giữ được nhiều nét văn hóa độc đáo của dân tộc mình.

Hiện nay, trong cộng đồng người Tày có sự hiện diện của một bộ phận người Việt từ vùng đồng bằng lên miền núi, qua nhiều thế hệ đã bị Tày hoá Người Tày cổ đã cùng với người Việt cổ xây dựng nhà nước Âu Lạc, và theo truyền thuyết của người Tày ở Cao Bằng, An Dương Vương Thục Phán được coi là người Tày cổ.

* Đặc điểm kinh tế- xã hội, dân c- ở huyện Chợ Đồn:

Huyện Chợ Đồn có 10.900 hộ gia đình và 238 thôn bản là nơi tụ c- của

Huyện có 6 dân tộc chính: Tày, Nùng, Kinh, Dao, H’mông và Hoa, với tổng dân số đạt 51.072 người Trong đó, dân tộc Tày chiếm số lượng lớn nhất với 33.216 người, là tộc người xuất hiện sớm nhất và định cư lâu đời nhất tại khu vực này Người Tày ở Chợ Đồn chủ yếu sinh sống tại 9 xã, tập trung trong các bản với quy mô từ 50 đến 60 nóc nhà.

Gia đình của người Tày ở huyện Chợ Đồn thường là gia đình phụ quyền, bao gồm vợ chồng và các con, trong khi kiểu đại gia đình nhiều thế hệ không phổ biến Mỗi gia đình hoạt động như một đơn vị kinh tế độc lập, với các thành viên sản xuất riêng dưới sự chỉ đạo của người chủ gia đình, và tài sản sản xuất được coi là của chung Tài sản được kế thừa theo thứ tự từ con trai cả đến con trai thứ hai và út, trong đó con trai cả chịu trách nhiệm thờ cúng tổ tiên Con gái khi lấy chồng sẽ được cha mẹ chuẩn bị một phần của cải gọi là của hồi môn Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình thường mang tính bình đẳng và yêu thương Dòng họ của người Tày ở Chợ Đồn có ba mối quan hệ chính: họ Cha, họ Mẹ và họ bên vợ, với các dòng họ tiêu biểu như Nông và Hoàng.

Hà, Ma Các dòng họ cùng c- trú trong một bản và họ sống rất tình cảm

Văn nghệ dân gian của người Tày nổi bật với những khúc hát sli, lợn, phong sl, mang ca từ đằm thắm và ngọt ngào, để lại ấn tượng sâu sắc cho người nghe Những bài dân ca này thể hiện tình cảm giữa con người trong các dịp lễ hội, đám cưới và đám tang Đặc biệt, cây đàn tính không thể thiếu trong văn hóa của người Tày, được sử dụng để đệm cho bài hát then, trang trí và múa, tạo nên không khí đặc sắc cho các hoạt động văn nghệ.

TìM HIểU VĂN HOá ẩM THựC TRUYềN THốNG CủA NGƯời tày ở chợ đồn - bắc kạn

Đặc tr-ng văn hoá ẩm thực truyền thống của ng-ời Tày ở Chợ Đồn

2.1.1 Nguồn nguyên liệu chế biến

* Nguồn l-ơng thực, thực phẩm từ trồng trọt, chăn nuôi

+ Các sản phẩm trồng trọt

Người Tày sinh sống chủ yếu ở các thung lũng và ven suối, nơi thiên nhiên ưu đãi với ruộng đồng phía trước và đồi núi phía sau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng trọt, đặc biệt là cây lương thực ở cả vùng đồng bằng và trung du miền núi Tuy nhiên, theo tập quán trồng trọt truyền thống, người Tày, giống như nhiều dân tộc thiểu số khác, hiện vẫn chỉ tập trung vào việc trồng một số loại cây lương thực cơ bản như lúa, ngô, khoai và sắn.

Lúa là cây lương thực chính, gắn bó với đồng bào dân tộc Tày từ lâu đời Tại Chợ Đồn, lúa được trồng hai vụ mỗi năm, với vụ đông xuân từ tháng 8 đến tháng 1 Người Tày ở đây trồng nhiều giống lúa như nếp cái, chân châu lùn và khang dân Trong số đó, giống lúa “Bắc thơm”, “Tám thơm” và “Bao thai” nổi bật về độ thơm ngon Những loại gạo này có hạt dài, nhỏ, khi nấu lên cho cơm rất thơm và dẻo, đặc biệt giống gạo “Bao thai” của Chợ Đồn đã trở nên nổi tiếng và được ưa chuộng khắp nơi.

Ngô (bắp) là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa, đóng vai trò thiết yếu trong đời sống của đồng bào Tày, cung cấp nguồn thực phẩm hàng ngày Trong quá khứ, vào mùa giáp hạt, ngô trở thành món ăn thay thế cơm cho người Tày.

Người dân ở Chợ Đồn thường sử dụng ngô như một phần trong bữa ăn, có thể ăn ngô trừ bữa hoặc kết hợp ngô với gạo để nấu Ngô thường được trồng trên nương, bãi đất ven sông hoặc trong vườn, vào khoảng tháng hai âm lịch Có hai loại ngô chính là ngô nếp và ngô tẻ; ngô tẻ cho bắp to nhưng không có hương vị và độ dẻo ngọt như ngô nếp Ngô tẻ chủ yếu được dùng để chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc làm rượu, trong khi ngô nếp được sử dụng làm lương thực cho con người, chế biến thành cháo, độn cơm, xôi, chè ngô và bánh ngô.

Sắn (mằn slẳn) là cây lương thực quan trọng thứ hai sau ngô, dễ trồng và chỉ cần một đoạn thân dài khoảng 20cm để dâm trồng Củ sắn được sử dụng rộng rãi trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, cũng như chế biến thực phẩm như làm bánh, độn cơm và nấu rượu Thời gian trồng sắn thường bắt đầu vào tháng Ba và thu hoạch vào tháng Hai năm sau, với đặc điểm củ to, bở và thơm ngon.

Khoai sọ (ph-ớc) được trồng vào tháng chạp và thu hoạch trước tiết thanh minh để tránh thối do úng nước Có ba loại khoai sọ: khoai tầu (ph-ớc nồng) với củ to, vỏ nâu và màu tím nhạt bên trong, có mùi thơm; khoai trắng (ph-ớc thảo) với củ dài nhỏ, vỏ vàng nhạt và bên trong màu trắng; và khoai thơm (ph-ớc hom) với củ tròn nhỏ, vỏ nâu và bên trong màu trắng, thơm Khoai sọ chứa hàm lượng tinh bột cao, không chỉ được chế biến thành các món ăn mà còn nổi tiếng với đặc sản “Khau nhục” của người Tày.

Khoai lang (mằn bủng) là loại lương thực thứ yếu của người Tày, thường được trồng ở các bãi đất pha cát bên suối Thời điểm trồng khoai lang là vào tháng Chạp và thu hoạch vào tháng T Sau khi thu hoạch, người dân sẽ phủi sạch đất và bảo quản khoai ở nơi khô thoáng để tránh mọc mầm Khoai lang có hai loại củ chính là màu tím và màu trắng.

Khu vực sinh sống của đồng bào Tày có điều kiện tự nhiên đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loại cây thực phẩm khác nhau Họ thường trồng các loại cây thực phẩm chủ yếu để tự cung cấp cho bữa ăn hàng ngày, bao gồm những loại cây đặc trưng phù hợp với nhu cầu dinh dưỡng của gia đình.

Rau cải, bao gồm nhiều giống như cải bẹ, cải canh, cải bắp và cải soong, có đa dạng hương vị như đắng, ngọt, hàn và nhiệt Chúng thường được trồng trong vườn, trên nương và dọc theo các con suối.

Rau muống (phắc bủng): th-ờng đ-ợc trồng ở ruộng bùn, cây nhỏ, màu xanh, là thức ăn quen thuộc của ng-ời Tày

Rau lang (phắc mằn) là loại rau được thu hái từ đọt non, có vị chát ngọt đặc trưng Rau lang thường được chế biến bằng cách luộc và chấm với tương, hoặc xào với tỏi Đây là món ăn phổ biến trong cộng đồng người Tày, thể hiện sự đa dạng trong ẩm thực địa phương.

Rau bao (phắc bao) từng mọc hoang trên nương rẫy, nhưng hiện nay đã được gieo trồng trong vườn Thời gian gieo rau bao từ tháng Giêng đến tháng Hai, sau đó có thể thu hoạch và ăn được Rau bao có vị đắng ngọt, mang lại cảm giác mát mẻ khi thưởng thức Có hai loại rau bao: loại màu tím có vị ngọt hơn so với loại màu trắng.

Bầu (co bầu) là cây trồng truyền thống của người Tày, nổi bật với quả bầu già không chỉ dùng làm thực phẩm mà còn được chế tác thành bầu đàn tính và chứa đựng các loại hạt giống.

Bí có bí đỏ (phặc đeng) lấy quả và ngọn để làm thức ăn bí xanh (phặc moong) thuộc loại dây leo, quả có vị ngọt

M-ớp (buốp): m-ớp đắng (mác kháng) có vị đắng, thơm; m-ớp h-ơng, m-ớp trắng (mắc buốp) ăn rất mát, thơm, dùng để xào hoặc nấu canh

Các loại d-a: d-a chuột (qua mu), d- gang (theng), d-a bở (qua) đ-ợc trồng trong v-ờn, trên n-ơng rẫy, dùng làm thức ăn hoặc giải khát

Các loại đỗ như đỗ xanh (thúa kheo), đỗ t-ơng (thúa xẳng), đỗ đen (thúa đăm), đỗ đỏ (thúa đeng), đỗ trắng (thúa khao) và đỗ co ve (nho nhe) không chỉ đa dạng mà còn rất giàu đạm và vitamin, cần thiết cho sức khỏe con người Những loại đỗ này dễ bảo quản và chế biến thành nhiều món ăn khác nhau, mang lại giá trị dinh dưỡng cao cho bữa ăn hàng ngày.

Lạc, hay còn gọi là thúa đin, là loại cây trồng phổ biến ở những vùng đất xốp ven sông hoặc trong vườn Củ lạc được sử dụng làm thực phẩm cho con người, trong khi lá non có thể dùng để chăn nuôi lợn và trâu Vỏ lạc cũng được tận dụng để đun bếp Hiện nay, có hai giống lạc chính là hạt đỏ và hạt trắng, trong đó giống lạc hạt đỏ được trồng nhiều hơn do có hương vị thơm ngon hơn.

Vừng (ngà): có hai loại vừng đen và vừng trắng Hạt nhỏ, chứa nhiều dầu thực vật dùng làm nhân bánh, làm muối vừng

+ Các sản phẩm chăn nuôi

Người Tày ở Chợ Đồn nổi tiếng với nghề chăn nuôi phát triển mạnh mẽ, thể hiện truyền thống lâu đời Họ chủ yếu thực hiện chăn nuôi gia súc và gia cầm quy mô nhỏ ngay tại gia đình.

Cách tổ chức, ứng xử và kiêng kỵ trong ăn uống

2.2.1 Cách tổ chức bữa ăn:

Người Tày ở Chợ Đồn thường ăn 5 bữa mỗi ngày, bao gồm hai bữa chính là bữa trưa (kin ngài) và bữa tối (kin pjầu), cùng với ba bữa phụ: bữa sáng sớm (kin chạu), bữa giữa buổi chiều (kin lèng) và bữa đêm (xéo dẹ).

Trong các bữa ăn chính ng-ời ta th-ờng ăn cơm tẻ với các loại thực phẩm nh- thịt, cá, trứng, rau, măng, bầu, bí…

Trong những ngày lễ Tết, ngoài hai bữa chính, các gia đình thường có thêm nhiều bữa phụ tùy theo nhu cầu và điều kiện Những bữa ăn phụ này không chỉ phong phú như bữa chính mà còn là dịp để tiếp đón khách từ xa hoặc bạn bè lâu ngày gặp lại.

Mâm cơm của người Tày ở Chợ Đồn được đặt ở giữa nhà, bên bếp lửa, tạo không gian cho mọi người cùng quây quần ăn uống Họ sử dụng đũa và bát nhỏ, giống như nhiều tộc người khác ở Việt Nam Trong bữa ăn, vị trí ngồi được phân chia rõ ràng: người lớn tuổi ngồi ở phía trên, dưới bàn thờ tổ tiên; bên trái dành cho nam giới, bên phải cho phụ nữ và trẻ em Con dâu thường ngồi ở phía dưới, gần nồi cơm, để tiện việc xới cơm và lấy thêm thức ăn cho mọi người.

Việc phân chia chỗ ngồi trong gia đình người Tày ở Chợ Đồn thể hiện tôn ti trật tự và sự phân công công việc rõ ràng Phụ nữ đảm nhận việc bếp núc và quản lý công việc gia đình, trong khi nam giới phụ trách các hoạt động xã hội Người già có vai trò dạy bảo và chăm lo cho con cháu, tạo nên sự hài hòa trong gia đình.

Trong văn hóa ẩm thực của người Tày, bữa ăn thể hiện sự tôn trọng đối với người lớn tuổi, với những món ngon thường được dành cho họ Trẻ em được ưu tiên ăn những món dễ tiêu hóa như thịt, trong khi phụ nữ thường ăn ít hơn và nhẹ nhàng hơn Đặc biệt, trong bữa cơm có thịt gà, trẻ em luôn được nhận phần đùi gà, vì quan niệm rằng điều này giúp trẻ khỏe mạnh và phát triển tốt Việc giành phần đùi gà cho trẻ em được coi là hành động thể hiện tình thương và sự quan tâm.

Trong đời sống của người Tày, lễ hội đóng vai trò quan trọng và đa dạng, mỗi lễ hội mang những cách tổ chức, nội dung, ý nghĩa và mục đích riêng Đặc biệt, ẩm thực trong các lễ hội khác biệt rõ rệt so với bữa ăn hàng ngày, vì nó phải tuân theo các luật tục truyền thống.

C-ới xin là một trong những việc lớn và hệ trọng của đời ng-ời, hầu hết các dân tộc đều quan tâm tới c-ới xin, kể cả vật chất lẫn tinh thần ở ng-ời Tày để đi đến c-ới xin phải trải qua nhiều b-ớc, nhiều thủ tục với nhiều nghi thức khác nhau và mỗi b-ớc ấy đều gắn với hoạt động ăn uống

B-ớc đầu tiên là chuẩn bị vật chất cho lễ c-ới, trong đó chủ yếu là của hồi môn và đồ ăn uống Riêng phần ăn uống bao gồm cả phần thách c-ới và phần để ăn, trong đó quan trọng nhất là thịt lợn Thông th-ờng lợn c-ới đem sang nhà gái phải là bốn con, còn lợn để mổ ở nhà làm cúng cũng từ 4- 5 con

Trong lễ dạm hỏi, đại diện nhà trai mang đến nhà gái một đôi gà và một chai rượu Vào ngày đã chọn, hai bên tổ chức lễ chính thức, nhà trai cử đại diện sang nhà gái cùng với hai cô gái trẻ gánh theo lễ vật gồm 10kg thịt lợn, một đôi gà thiến, xôi đỗ xanh, bánh dày và một vò rượu để nhà gái tiếp đãi khách Trong lễ ăn hỏi, hai bên bàn bạc và thống nhất về số lượng lễ vật, bao gồm tiền mặt, số lượng lợn, bánh, gạo và rượu.

Trong xã hội truyền thống, sau lễ ăn hỏi, thường phải chờ từ 1 đến 3 năm mới tổ chức lễ cưới chính thức Trong thời gian này, nhà trai thực hiện các lễ sêu tết với các lễ vật như 1-2 con gà sống thiến, 10 ống gạo nếp, 2 chai rượu, 2-4 kg miến và 3-4 kg thịt lợn Lễ cưới chính thức diễn ra linh đình trong ba ngày, với hai hoạt động quan trọng liên quan đến ăn uống là mời nước chè và rượu “rửa chân” khi đại diện nhà trai đến đón dâu Nhà gái sẽ mời đại diện nhà trai uống nước chè và rượu, sau đó tiến hành lễ nộp gánh bao gồm bánh, thức ăn chín, tiền, một con lợn và một tấm vải.

Người Tày rất chú trọng đến việc chăm sóc sức khỏe cho sản phụ và tổ chức lễ đầy tháng cho trẻ sơ sinh, gọi là “mãn nhét”, sau một tháng sinh Lễ này có thể được tổ chức lớn hoặc nhỏ tùy thuộc vào điều kiện gia đình, với món ăn chính là gà hoặc lợn để chúc mừng sự khỏe mạnh và phát triển của trẻ Khách mời thường là ông bà ngoại và họ hàng, họ mang theo gà và gạo nếp để chúc mừng Gia đình chuẩn bị một mâm hương cùng lễ vật và mời bà bụt (pụt) đến làm lễ Sau phần cúng lễ, sẽ có một bữa cơm thịnh soạn đãi khách, bao gồm cả món bánh sừng bò (coóc mò) Ngày lễ này cũng gắn liền với các hoạt động ăn uống trong ngày hội xuống đồng (lồng tồng).

Hội lồng tồng là lễ hội xuống đồng của người Tày, diễn ra vào đầu xuân nhằm cầu nguyện cho mùa màng bội thu Lễ hội thường được tổ chức vào ngày 3-5 Tết, đánh dấu sự khởi đầu của vụ lúa mới Ngoài việc cúng lễ, hội còn có các hoạt động ăn uống vui vẻ, tạo không khí phấn khởi Đặc biệt, nhiều đôi trai gái đã tìm được duyên qua những cuộc hát lợn trong lễ hội này.

Hội lồng tồng diễn ra trên cánh đồng vừa cấy xong, do một vị bô lão uy tín đứng ra chủ lễ Mọi người cùng góp gạo, rượu, gà để làm mâm cúng thần Nông Vào ngày hội, chủ lễ ra hiệu để mỗi gia đình mang đến một mâm cúng đã chuẩn bị sẵn, thường gồm một con gà sống thiến luộc, một đĩa xôi, một đôi bánh chưng và các loại bánh ngũ vị với nhân màu sắc đa dạng Sau khi hoàn tất lễ cúng, chủ lễ sẽ đại diện đi chấm giải cho các mâm cỗ ngon và đẹp mắt nhất.

Cuối cùng tất cả mọi ng-ời tham gia lễ hội đều cùng ăn uống, vui chơi

Tết Nguyên đán (kin Chiêng):

Tết Nguyên đán là dịp lễ lớn nhất trong năm, được tổ chức phổ biến ở hầu hết các dân tộc Việt Nam, trong đó đồng bào Tày coi đây là thời điểm quan trọng để chuẩn bị cho cả năm Các gia đình thường bắt đầu chuẩn bị từ nhiều tháng trước, với các hoạt động như gói bánh chưng, sơ chế thực phẩm và chuẩn bị mâm cỗ cúng gia tiên đầy đủ Vào đêm giao thừa, chủ nhà bày mâm cúng lên bàn thờ tổ tiên, và trong hai ngày đầu năm, mọi người thường ở nhà để tránh gặp xui xẻo Ngày mùng 2, các gia đình chuẩn bị lễ vật để đi thăm bà con bên ngoại, bao gồm gà sống, bánh chưng, và một số món ăn truyền thống khác Đặc biệt, vào cuối tháng Giêng, người Tày tổ chức tết cuối tháng Giêng (đắp nọi), với các món ăn như bánh chưng, bánh khảo và mâm cỗ để gia đình cùng thưởng thức, thể hiện sự đoàn kết và ấm cúng trong dịp lễ.

* Ăn uống bồi d-ỡng và chữa bệnh

Sức khoẻ là tài sản quý giá nhất của con người, vì vậy việc chăm sóc sức khoẻ rất quan trọng Người Tày ở Chợ Đồn chú trọng đến sức khoẻ của bản thân và gia đình thông qua chế độ ăn uống Đối với người già và trẻ nhỏ, họ thường sử dụng các món như cháo cao, cháo trứng, và cháo nhộng ong Phụ nữ mới sinh được chăm sóc đặc biệt với thực đơn gồm thịt gà giò nấu canh gừng nghệ và cơm nếp trong khoảng một tháng Ngoài ra, sản phụ còn được bổ sung canh rau ngót và nước sắc từ các loại cây như tầm gửi, hà thủ ô, và huyết lình để tăng cường sức khoẻ, bổ máu, và kích thích sự thèm ăn.

Chợ Đồn có những ph-ơng thuốc từ các loại đồ ăn, đồ uống để chữa bệnh:

- Rau hẹ để chữa rắn độc cắn bằng cách giã nát cả cây vắt lấy n-ớc, còn bã đắp vào vết cắn

- Rau ngót giã vắt lấy n-ớc chữa hóc x-ơng

- Canh cúc tần có tác dụng rất tốt với những ng-ời bị bênh nhức đầu, đau l-ng, hay chóng mặt

- Canh rau đắng có tác dụng giải nhiệt, giã r-ợu mau chóng

- N-ớc ngô luộc thanh nhiệt lợi tiểu tốt cho ng-ời mắc bệnh thận

Những biến đổi và việc bảo tồn các giá trị văn hoá ẩm thực truyền thống phục vụ cho du lịch

3.1.1 Những biến đổi ẩm thực truyền thống của ng-ời Tày ở Chợ Đồn

* Những biến đổi ẩm thực truyền thống của ng-ời Tày ở Chợ Đồn

Hiện nay, sự biến đổi mạnh mẽ diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội không chỉ ảnh hưởng đến dân tộc Tày mà còn đến tất cả các dân tộc khác Sự di cư của người miền xuôi lên miền núi để phát triển kinh tế đã tác động đáng kể đến văn hóa, đặc biệt là tập quán ăn uống của người Tày Cuộc cải cách kinh tế sau này cũng đã làm thay đổi sâu sắc xã hội truyền thống của họ Khảo sát thực tế cho thấy ẩm thực của người Tày hiện nay đã có sự pha trộn với các dân tộc khác, đặc biệt là người Việt (Kinh).

Trong ẩm thực hiện nay, nhiều loại thực phẩm và đồ uống mới đã xuất hiện như cá biển, bánh bao, nước uống có ga, rượu sâm-panh và mì tôm Cách chế biến món ăn cũng đã thay đổi, từ phong cách truyền thống sang phong cách hiện đại Sự biến đổi này chủ yếu đến từ các phụ gia, tác động trực tiếp đến cảm nhận của người thưởng thức, tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa món ăn truyền thống và món ăn mới Đồng bào Tày ở Chợ Đồn đã tiếp thu các phương pháp chế biến từ các dân tộc khác như kho, sốt, om, tần, rim, tạo ra những hương vị đa dạng Tuy nhiên, sự ảnh hưởng này chủ yếu diễn ra ở những khu vực kinh tế phát triển như thị trấn Bằng Lũng, nơi có sự giao thoa văn hóa giữa người Việt (Kinh) và người Hoa Ngược lại, tại các xã khác, sự tiếp thu ẩm thực từ các cộng đồng khác diễn ra chậm hơn, giúp bảo tồn nhiều món ăn truyền thống.

Sự biến đổi trong ẩm thực và cách ứng xử trong bữa ăn chủ yếu diễn ra ở tầng lớp thanh niên, với nhiều người coi món ăn truyền thống là lạc hậu và rườm rà Suy nghĩ tiêu cực này dẫn đến việc họ từ bỏ khẩu vị truyền thống để theo đuổi những lựa chọn ẩm thực mới, phù hợp hơn với cách suy nghĩ cá nhân.

Trước đây, người Tày ở Chợ Đồn có những phong tục như hát lợn, hát sli, và phongsl-, nhưng hiện nay nhiều truyền thống này đã bị mai một, thậm chí ở một số nơi đã hoàn toàn biến mất Việc tiếp thu các phương pháp chế biến món ăn từ các dân tộc khác không phải là điều xấu, vì nhiều món ăn mang lại hương vị ngon miệng và dinh dưỡng Tuy nhiên, việc tiếp thu này cần có sự chọn lọc và chừng mực, nhằm bảo tồn và không làm lấn át các món ăn truyền thống của dân tộc mình.

Sự biến đổi trong thói quen ăn uống của người Tày ở Chợ Đồn xuất phát từ tác động xã hội bên ngoài và sự tự nguyện học hỏi của cộng đồng Sự phát triển kinh tế đã mở ra cơ hội cho người Tày tiếp xúc với văn hóa các dân tộc khác, cũng như các sản phẩm từ nền kinh tế thị trường, dẫn đến những thay đổi đáng kể trong tập quán ẩm thực của họ.

Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập, kinh tế trở thành yếu tố quan trọng, nhiều người Tày ở Chợ Đồn đã rời quê hương để xây dựng vùng kinh tế mới Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến sự ảnh hưởng của các tập quán ăn uống của các dân tộc bản địa, làm mai một truyền thống ẩm thực của dân tộc Tày.

Một trong những nguyên nhân quan trọng là ý thức về văn hóa truyền thống và việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc của một bộ phận giới trẻ hiện nay đã bị xem nhẹ Họ thường có xu hướng hòa nhập với người Kinh, dẫn đến cách ăn, ở và mặc giống với người Việt (Kinh).

Ngành y tế và giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu trong việc nâng cao sức khoẻ cộng đồng và truyền bá tri thức khoa học, góp phần lớn vào thay đổi tập quán ăn uống Người dân hiện nay được chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, không còn phụ thuộc nhiều vào cây thuốc, mà chú trọng vào việc ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng Họ cũng đã nhận thức rõ về vệ sinh an toàn thực phẩm, từ đó loại bỏ những kiêng kỵ không hợp lý trước đây.

*Bảo tồn các giá trị văn hoá ẩm thực

Sự cần thiết phải bảo tồn văn hóa ẩm thực là rất quan trọng, bởi mỗi cộng đồng đều có những phong cách ăn uống, sở thích và khẩu vị riêng, tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo Việc duy trì và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực không chỉ góp phần bảo tồn di sản văn hóa vật chất mà còn bảo vệ các giá trị tinh thần khác của từng cộng đồng.

Bảo tồn văn hoá ẩm thực trong bối cảnh phát triển hiện nay là rất cần thiết, vì nó ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực khác trong đời sống con người Văn hoá ẩm thực không chỉ phản ánh thói quen ăn uống mà còn chi phối suy nghĩ và hành vi của con người Tuy nhiên, trong truyền thống ẩm thực cũng tồn tại những yếu tố tích cực và tiêu cực, do đó cần lựa chọn và gìn giữ những giá trị tốt đẹp Mục đích của việc bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống trong ẩm thực là để duy trì bản sắc văn hoá và nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của ẩm thực trong đời sống xã hội.

Bảo tồn văn hóa ẩm thực không chỉ làm phong phú cuộc sống trong xã hội hiện đại mà còn giúp con người tìm lại sự cân bằng sau những căng thẳng Trong bối cảnh nhịp sống hối hả, con người khao khát trở về với những giá trị gần gũi, gắn bó với thiên nhiên và những truyền thống đã tồn tại hàng ngàn năm Việc thưởng thức ẩm thực cổ truyền trở thành một nhu cầu thiết yếu, giúp con người hòa mình vào thiên nhiên và tận hưởng vẻ đẹp của nó Hơn nữa, việc bảo tồn và truyền bá văn hóa ẩm thực của người Tày, với tính cộng cảm và gắn bó cộng đồng, sẽ là động lực thúc đẩy con người xích lại gần nhau hơn.

Con người luôn tìm kiếm sự thoải mái và giải tỏa mệt mỏi thông qua du lịch đến những nơi có phong cảnh đẹp, khí hậu dễ chịu và ẩm thực phong phú Do đó, việc giữ gìn và phát huy giá trị ẩm thực truyền thống không chỉ đáp ứng nhu cầu của con người trong xã hội hiện đại mà còn góp phần tạo ra một không gian sống tốt đẹp hơn.

Nghị quyết Trung Ương V khoá VIII nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” Trong bối cảnh này, việc bảo tồn và phát huy văn hoá ẩm thực truyền thống của người Tày không chỉ là một di sản quý giá mà còn là một phương thức hiệu quả để thực hiện mục tiêu phát triển văn hoá Việt Nam theo tinh thần của Nghị quyết.

3.1.2 Các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống phục vụ cho du lịch

Văn hóa ẩm thực truyền thống của người Tày ở Chợ Đồn phản ánh sự phong phú của thiên nhiên Việt Nam, nơi có nhiều nguyên liệu độc đáo Mỗi bữa ăn thường gồm hai bữa chính là bữa trưa và bữa tối, bên cạnh đó có thể có bữa sáng hoặc bữa chiều tùy theo nhu cầu gia đình Các món ăn trong bữa ăn được phân chia thành món chính, món phụ và món ăn thêm, với cơm và thức ăn thừa được chuẩn bị để tiếp đãi khách Không khí bữa ăn rất ấm cúng, mọi người từ ông bà đến trẻ nhỏ đều cùng nhau thưởng thức, với sự quan tâm đặc biệt dành cho trẻ em, như việc ưu tiên gắp những miếng ngon cho các em.

Người Tày ở Chợ Đồn coi lương thực là thức ăn chính, trong đó gạo tẻ đóng vai trò chủ đạo, tiếp theo là các loại rau xanh và rau rừng, sau đó mới đến thịt và thủy sản Đây chính là mô hình bữa ăn cơm - rau - cá truyền thống của người Việt Nam.

Tiềm năng du lịch ở Chợ Đồn- Bắc Kạn

3.2.1.Ưu thế về điều kiện tự nhiên

Huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, sở hữu tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng, thu hút mọi du khách Với khả năng đáp ứng nhu cầu của nhiều loại hình du lịch và đối tượng khác nhau, Chợ Đồn có thể phục vụ số lượng lớn khách tham quan và khám phá.

Huyện Chợ Đồn nổi bật với cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, bao gồm núi non và dòng nước hữu tình Thị trấn Bằng Lũng, huyện lỵ của Chợ Đồn, nằm cách thị xã Bắc Kạn 45 km về phía tây, tiếp giáp với huyện Na Hang và huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang) Tuyến giao thông chính của huyện là tỉnh lộ 254, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển về hướng bắc.

Ba Bể, nằm ở phía nam giáp huyện Định Hoá (Thái Nguyên) và phía đông giáp huyện Bạch Thông (Bắc Kạn), sở hữu hệ thống giao thông thuận tiện, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của du lịch.

Huyện Chợ Đồn thuộc tỉnh Bắc Kạn, nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh như Hồ Ba Bể rộng 500 ha, điểm du lịch sinh thái hấp dẫn Vườn Quốc gia Ba Bể, với diện tích 23.000 ha, sở hữu rừng nguyên sinh và hệ động thực vật phong phú, đã được công nhận là di sản ASIAN và đang được đề nghị UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới Ngoài ra, Bắc Kạn còn có nhiều hang động và thác nước đẹp như Động Puông, động Hua Mạ, thác Đầu Đẳng, động Nà Phoòng, thác Bản Vàng và thác Nà Khoang.

Nà Đăng ở huyện Ngân Sơn và thác Bạc áng Toòng thuộc huyện Na Rì nổi bật với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp cùng nhiều di tích lịch sử quan trọng như chiến thắng Phủ Thông, Đèo Giàng, Nà Tu và Cẩm Giàng.

Huyện Chợ Đồn nổi bật với nhiều điểm du lịch hấp dẫn như khu thác Bản Thi, nơi có quần thể bãi đá sông núi hòa quyện với cảnh thiên nhiên hùng vĩ, lý tưởng cho các hoạt động giải trí, thể thao và cắm trại vào cuối tuần Điểm du lịch Phya Khao với khí hậu ôn hòa, trong sạch, nằm ở độ cao 800m, mang đến không gian nghỉ dưỡng lý tưởng với nhiều nhà nghỉ được xây dựng từ thời Pháp thuộc Ngoài thiên nhiên tươi đẹp, Chợ Đồn còn là khu căn cứ địa cách mạng quan trọng với các di tích như ATK, Nà Pậu, Khau Mạ và Khau Bon, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp và hoạt động của Hồ Chủ Tịch Điều này thúc đẩy du lịch văn hóa - lịch sử phát triển, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc Địa hình hiểm trở với nhiều núi cao như đỉnh Tam Tao (1.326m) và đỉnh Phia Lểnh (1.527m) cùng các hang động đá vôi tạo nên cảnh quan độc đáo cho du khách khám phá.

Khu vực này có khí hậu đặc trưng của vùng nhiệt đới gió mùa, với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và nhiệt độ trung bình từ 20-22°C, tạo điều kiện lý tưởng cho du lịch quanh năm Mùa xuân là thời điểm lý tưởng nhất cho du khách, với nhiều lễ hội nổi tiếng như Lồng Tồng, Kỳ Yên, Lẩu Then và hội giã cốm Những lễ hội truyền thống này thu hút đông đảo du khách, mang đến không khí náo nhiệt và cơ hội thưởng thức ẩm thực độc đáo của địa phương, đáp ứng nhu cầu tham quan và nghỉ dưỡng của mọi người.

Vùng đất Chợ Đồn, với thiên nhiên hào phóng, là điểm đến lý tưởng cho du khách yêu thích ẩm thực độc đáo Nằm trong khu vực á nhiệt đới, nơi đây sở hữu rừng núi bạt ngàn và nhiều loại động thực vật đặc sản như măng, nấm hương, thịt chim và thịt thú rừng như hươu, hoẵng, lợn Ngoài ra, huyện còn có nhiều cây thuốc quý như cao xương, quả mác mật và mật ong rừng, cùng với nguồn nước khoáng tự nhiên, phục vụ cho việc chế biến các loại nước giải khát như trà và nước vối Đặc biệt, các loại rượu ngon tại đây không chỉ phục vụ nhu cầu giải khát mà còn có tác dụng chữa bệnh, đáp ứng mọi mong đợi của du khách.

3.2.2.Ưu thế về môi tr-ờng- xã hội và con ng-ời

Huyện Chợ Đồn là nơi giao thoa của nhiều nền văn hóa phong phú, với sự hiện diện của các dân tộc như Tày, Nùng, Kinh, Dao, Hoa Những bản nhà sàn trên sườn núi của người Tày cùng với các làn điệu dân ca và lễ hội truyền thống như lễ hội Lồng Tồng, lễ Kỳ Yên, lễ Lẩu Then, và hội giã cốm tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho du khách.

Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của các bộ, ngành Trung ương và sự phối hợp của các cấp địa phương, ngành du lịch tỉnh Bắc Kạn, đặc biệt là huyện Chợ Đồn, đã có nhiều khởi sắc và đạt được những kết quả đáng kể.

Huyện không chỉ chú trọng vào việc phát triển cơ sở hạ tầng du lịch mà còn đầu tư vào các điểm du lịch sinh thái, văn hóa lịch sử và xây dựng các tour, tuyến du lịch nội tỉnh và liên vùng Lượng khách du lịch ngày càng tăng, với doanh thu từ hoạt động du lịch trong những năm gần đây đạt mức tăng trưởng bình quân 28% mỗi năm.

Vùng này có truyền thống sản xuất nông nghiệp và đang tiếp cận các thành tựu kinh tế, khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhằm xây dựng nền kinh tế đa dạng và hiệu quả, cải thiện mức sống của người dân Những nông sản nhiệt đới quý giá được chế biến thành các món ăn đặc sắc, mang hương vị riêng của vùng núi rừng, như gạo tám thơm, bắc thơm và gạo bao thai Chợ Đồn, nổi tiếng với các đặc sản như xôi đỏ đen, xôi trứng kiến, cơm lam, bánh khảo, bánh gio và chè tuyết Ngoài ra, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống như thổ cẩm, thêu, đan cũng đáp ứng nhu cầu của du khách, góp phần phát triển du lịch địa phương.

Huyện Chợ Đồn tự hào có nguồn nhân lực chất lượng cao, với nhiều người có học hàm và học vị cao làm việc tại các bộ ngành Trung ương Nơi đây nổi tiếng với sự hiền hòa của nhân dân các dân tộc, những người cần cù, chịu khó và đoàn kết Với tinh thần yêu thích cuộc sống thanh bình và lòng mến khách, Chợ Đồn tạo ra điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch Công tác đào tạo nhân lực phục vụ du lịch được chú trọng, với các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho hướng dẫn viên và nhân viên trong ngành Huyện cũng luôn quan tâm đến quy hoạch và đầu tư nâng cấp các khu, điểm du lịch để đáp ứng nhu cầu của du khách.

Để thu hút ngày càng nhiều du khách, ngành du lịch đã hợp tác với các địa phương tổ chức các hoạt động văn hóa gắn liền với lễ hội truyền thống Bên cạnh đó, ngành cũng phát triển các loại hình du lịch đi bộ, leo núi và quảng bá ẩm thực truyền thống, đồng thời mở rộng các làng nghề phục vụ nhu cầu tham quan của du khách.

Huyện Chợ Đồn đã cải tạo và xây dựng các cơ sở vật chất phục vụ du lịch để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch Với nguồn thực phẩm phong phú, các nhà hàng như Nhà sàn và Hoàn Cảnh phục vụ những món ăn truyền thống đặc sắc như Khâu nhục và thịt gà nấu trám trắng, thu hút sự yêu thích của du khách Vùng đất này cũng nổi bật với nhiều lễ hội và trò chơi dân gian đặc sắc, tạo cơ hội cho du khách tham gia vào các hoạt động văn hóa độc đáo Để phát triển du lịch, huyện đang phối hợp với Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xây dựng quy hoạch thu hút đầu tư, đồng thời nâng cấp cơ sở hạ tầng và các di tích lịch sử, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ sau.

Khai thác các giá trị văn hóa ẩm thực truyền thống phát triển du lịch

3.3.1 Một số ý t-ởng xây dựng tour du lịch ở Chợ Đồn- Bắc Kạn

* Lịch trình tour du lịch nội vùng:

Xây dựng tour du lịch nội vùng từ thị trấn Bằng Lũng đến các điểm tham quan như thác Bản Thi, khu du lịch Phya Khao, khu di tích Nà Pậu, Khau Mạ (xã Lương Bằng), Khau Bon (xã Nghĩa Tá) và bản dân tộc Tày mang lại lợi thế di chuyển thuận tiện cho du khách Các điểm này cách nhau từ 500m đến 30km, phù hợp cho việc di chuyển bằng nhiều phương tiện như đi bộ, xe đạp, xe máy hay ô tô Việc phát triển tour du lịch này không chỉ thu hút sự quan tâm của du khách mà còn góp phần vào việc khai thác du lịch văn hóa, giúp du khách hiểu rõ hơn về đời sống và văn hóa của người dân bản địa.

+ Chương trình du lịch nội vùng

Chương trình 1: Bắc Kạn – Chợ Đồn – Ba Bể (2 ngày 1 đêm)

Ngày 1: Bắc Kạn – Chợ Đồn

Sáng: Khám phá khu di tích cách mạng ATK tại thị trấn Bằng Lũng, nơi Bác Hồ và các lãnh đạo cấp cao của Đảng đã dẫn dắt dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp, theo quốc lộ 3.

Ăn trưa tại nhà Hoàn Cảnh ở thị trấn Bằng Lũng, du khách sẽ có cơ hội thưởng thức các món đặc sản độc đáo của người Tày tại Chợ Đồn.

Chiều nay, du khách sẽ được tham quan thác Bản Thi và khu du lịch Phya Khao, đồng thời khám phá làng bản văn hóa của người Tày Tại đây, bạn sẽ có cơ hội tìm hiểu về những tập quán ăn uống truyền thống độc đáo của đồng bào dân tộc Tày.

Tối: xem văn nghệ dân tộc, nghỉ tại khách sạn

Ngày 2: Chợ Đồn – Ba Bể

Sáng: Ăn sáng tại Bằng Lũng, tham quan bảo tàng không gian văn hóa Tày, động Puông, thác Đầu Đẳng, ao Tiên

Tr-a:: Ăn trưa tại Ba Bể

Chiều: Quý khách đi thăm rừng quốc gia Ba Bể, xuống thuyền thăm quan hồ Ba Bể, rồi về thành phố Bắc Kạn

*Lịch trình tour du lịch ngoại vùng:

Khởi hành từ Hà Nội, một tour du lịch kết hợp nhiều điểm tham quan sẽ thu hút đông đảo khách du lịch Sự kết hợp này cho phép du khách khám phá văn hóa bản địa của người dân địa phương mà không cần di chuyển nhiều lần Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển mô hình du lịch rộng rãi tại tỉnh Bắc Kạn.

+Chương trình du lịch ngoại vùng

Chương tr×nh 2: Hà Nội – Lạng Sơn – Cao Bằng – Bắc Kạn ( 4 ngày 3 đêm )

Ngày 1: Hà Nội - Lạng Sơn - Cao Bằng

Xe đón quý khách khởi hành đi Lạng Sơn, quý khách tham quan động Tam Thanh và đi mua sắm tại chợ Đông Kinh

Tr-a: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng

Chiều: Quý khách tiếp tục đi Cao Bằng, đến Cao Bằng quý khách nhận phòng khách sạn nghỉ ngơi Quý khách ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn

Ngày 2: Cao Bằng – Bản Giốc –Bắc Pó – Cao Bằng

Sáng, xe đưa khách tham quan Bản Giốc, cách thị xã Cao Bằng khoảng 90km Đây là một trong những thác nước đẹp nhất Việt Nam, với cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và những thác nước khổng lồ cao 30m, tạo nên vẻ đẹp như dải lụa trắng tuyệt mỹ.

Tr-a: Quý khách ăn trưa tại nhà hàng

Chiều: Quý khách tiếp tục đi thăm suối Lê Nin, hang Pắc Pó - nơi Bác

Hồ sống và làm việc từ năm 1941 - 1945, tại đây còn lưu giữ một tấm gỗ là giường nằm nghỉ của chủ tịch Hồ ChÝ Minh

Tối: Quý khách ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn

Ngày3: Cao Bằng – Bắc Kạn

Sáng: Xe đưa quý khách đi thăm rừng quốc gia Ba Bể, xuống thuyền thăm quan hồ Ba Bể - Hồ thiên nhiên nhân tạo lớn nhất Việt Nam

Tr-a: Ăn trưa tại Ba Bể

Chiều, du khách sẽ tham quan động Puông, thác Đầu Đẳng và ao Tiên – một hồ nước trong xanh huyền ảo trên đỉnh núi đá vôi Theo truyền thuyết, nơi đây từng là chốn dừng chân của các tiên nữ để chơi cờ và tắm mát.

Tối: Quý khách ăn tối và nghỉ đêm tại khách sạn

Ngày 4: Bắc Kạn – Hà Nội

Sáng: Quý khách đi thăm quan khu di tích cách mạng ATK ở Chợ Đồn

Khám phá các bản làng du lịch văn hóa tại huyện Chợ Đồn, du khách sẽ có cơ hội tìm hiểu văn hóa ẩm thực truyền thống của người Tày Trong hành trình này, quý khách sẽ thưởng thức những món ăn dân tộc độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào Tày trong bữa trưa tại đây.

Chiều: Xe đ-a quý khách về đến Hà Nội Kết thúc chuyến thăm quan

3.3.2 Khai thác các giá trị văn hoá ẩm thực truyền thống phát triển du lịch

* Những khuyến nghị cho việc phát triển du lịch ẩm thực truyền thống ở huyện Chợ Đồn

Tập quán ăn uống của người Tày chứa đựng những giá trị văn hóa độc đáo, bao gồm món ăn đặc trưng, phương pháp chế biến riêng biệt và cách ứng xử trong bữa ăn Việc bảo tồn và phát huy những giá trị này là rất cần thiết, không chỉ để duy trì những tập quán tốt đẹp mà còn để phát triển hệ thống làng văn hóa du lịch thông qua các món ăn truyền thống Các hội thi văn hóa ẩm thực trong các dịp lễ hội hay việc chế biến và xây dựng thương hiệu sản phẩm cũng có thể góp phần vào việc này Để thực hiện hiệu quả, cần quy hoạch tổng thể các làng văn hóa du lịch, kết hợp thưởng thức ẩm thực với các hoạt động văn hóa khác, đồng thời lựa chọn nội dung phù hợp với nhu cầu của du khách Qua đó, chúng ta sẽ góp phần thực hiện Nghị quyết Trung ương V (khóa VIII) về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Văn hóa ẩm thực dân tộc là một phần quan trọng trong đời sống xã hội, mang đậm bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc Huyện Chợ Đồn cần phát huy giá trị truyền thống ẩm thực để thu hút khách du lịch thông qua việc kết hợp bảo tồn bảo tàng và văn hóa du lịch, xây dựng tour tham quan bảo tàng Sự liên kết này sẽ tạo ra tuyến tham quan phong phú, giúp khách du lịch hiểu rõ hơn về văn hóa lịch sử và dân tộc Ngành bảo tồn cần chú trọng nghiên cứu và trưng bày văn hóa ẩm thực, kết hợp triển lãm và hoạt động ngoài trời để tái hiện cảnh sinh hoạt ăn uống Đề xuất hình thành bảo tàng văn hóa ẩm thực sẽ giúp nghiên cứu sâu hơn về chế biến đồ ăn truyền thống của dân tộc Tày Đồng thời, ngành văn hóa du lịch cần nắm bắt thị hiếu khách du lịch và giới thiệu các yếu tố văn hóa truyền thống, tôn trọng bản sắc văn hóa Tuy nhiên, văn hóa ẩm thực truyền thống của người Tày ở Chợ Đồn vẫn chưa được khai thác triệt để do thiếu kế hoạch đầu tư hợp lý, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và cộng đồng địa phương.

Phòng văn hóa huyện cần xây dựng kế hoạch khảo sát và nghiên cứu để chọn lọc các món ăn đặc sắc của dân tộc Tày tại địa phương Cán bộ cần đến từng gia đình để thực hiện khảo sát thực tế, đồng thời tham khảo ý kiến và tuyên truyền cho người dân về kế hoạch phát triển du lịch kết hợp với bảo tồn văn hóa ẩm thực của cộng đồng Tày.

Khi thực hiện khảo sát thực tế, cần chú ý đến những người có khả năng nấu món truyền thống, nhằm ghi chép tỉ mỉ và tạo ra những “điểm nóng” thu hút du khách.

Để phát triển du lịch "home stay", cần tạo điều kiện cho du khách trải nghiệm cuộc sống cùng người dân địa phương, bao gồm việc ăn uống với gia đình chủ nhà Do đó, cần lập kế hoạch xây dựng các khu nhà nghỉ kiểu nhà sàn truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách Những khu nhà nghỉ này cần được thiết kế theo phong cách kiến trúc truyền thống của người dân địa phương, nhằm giữ gìn sự hài hòa và không làm mất cân đối tại địa điểm du lịch.

Cần phát triển các nhà hàng và quán ăn chuyên phục vụ món ăn truyền thống của dân tộc, vì không phải địa phương nào cũng có khả năng phát triển thành làng du lịch văn hóa Việc này sẽ giúp đáp ứng kịp thời nhu cầu ẩm thực của lượng khách du lịch ngày càng tăng.

Các lễ hội truyền thống của người Tày ở Chợ Đồn như lễ hội Lồng tồng, hội giã cốm, lễ Lẩu then và lễ Kỳ yên đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa ẩm thực Những lễ hội này không chỉ là dịp để trình diễn những đặc sắc ẩm thực mà còn thu hút sự quan tâm của mọi người, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa địa phương.

Ngày đăng: 05/08/2021, 21:13

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Triều Ân, Hoàng Quyết (1995), Tục c-ới xin ng-ời Tày, NXB. Văn hoá dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tục c-ới xin ng-ời Tày
Tác giả: Triều Ân, Hoàng Quyết
Nhà XB: NXB. Văn hoá dân tộc
Năm: 1995
2. Nguyễn Thị Bảy (2004), Văn hoá ẩm thực vùng núi cao phía Bắc, Tạp chí Dân tộc học, số một (127). Tr.22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực vùng núi cao phía Bắc
Tác giả: Nguyễn Thị Bảy
Năm: 2004
3. Ma Ngọc Dung (2007), Văn hoá ẩm thực của ng-ời Tày ở Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực của ng-ời Tày ở Việt Nam
Tác giả: Ma Ngọc Dung
Nhà XB: NXB. Khoa học xã hội
Năm: 2007
4. D-ơng Thị Đào - D-ơng Sách - Lã Vinh (2005), Văn hoá ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, NXB. Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Tác giả: D-ơng Thị Đào - D-ơng Sách - Lã Vinh
Nhà XB: NXB. Văn hóa dân tộc
Năm: 2005
5. Tr-ơng Sĩ Hùng (1999), Văn hoá ẩm thực, Tạp chí Quê h-ơng, số 6, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực
Tác giả: Tr-ơng Sĩ Hùng
Năm: 1999
7. Hoàng Nam (2004), Văn hoá các dân tộc vùng đông bắc Việt Nam, Tr-ờng đại học Văn Hoá Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá các dân tộc vùng đông bắc Việt Nam
Tác giả: Hoàng Nam
Năm: 2004
8. Nguyễn Văn Huyên (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam.Tập 1, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Văn Huyên
Nhà XB: NXB. Khoa học xã hội
Năm: 1996
9. Nguyễn Quang Lê (2003), Văn hoá ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam, NXB. Văn hoá thể thao, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực trong lễ hội truyền thống Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Quang Lê
Nhà XB: NXB. Văn hoá thể thao
Năm: 2003
10. Hải Th-ợng Lãn Ông - Lê Hữu Trác (2008), Hải Th-ợng y tông tâm lĩnh, NXB. Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hải Th-ợng y tông tâm lĩnh
Tác giả: Hải Th-ợng Lãn Ông - Lê Hữu Trác
Nhà XB: NXB. Y học
Năm: 2008
11. Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam (1997), NXB Văn hoá dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam
Tác giả: Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam
Nhà XB: NXB Văn hoá dân tộc
Năm: 1997
12. Hoàng Quyết, Tấn Dũng (1994), Phong tục tập quán các dân tộc Tảy ở Việt Bắc, NXB. Văn hoá dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong tục tập quán các dân tộc Tảy ở Việt Bắc
Tác giả: Hoàng Quyết, Tấn Dũng
Nhà XB: NXB. Văn hoá dân tộc
Năm: 1994
13. Hữu Sơn (1998), Đặc điểm các món ăn trong ngày lễ hội, Tạp chí Dân tộc học, số 1, Tr. 39-45 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đặc điểm các món ăn trong ngày lễ hội
Tác giả: Hữu Sơn
Năm: 1998
14.Tỉnh ủy và UBND Bắc Kạn (2003), Các dân tộc ở Bắc Kạn, NXB. Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc ở Bắc Kạn
Tác giả: Tỉnh ủy và UBND Bắc Kạn
Nhà XB: NXB. Thế giới
Năm: 2003
15.Trà My - Hoài Thu (2005), Ph-ơng pháp chế biến 550 món ăn ngon, dễ làm, NXB. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ph-ơng pháp chế biến 550 món ăn ngon, dễ làm
Tác giả: Trà My - Hoài Thu
Nhà XB: NXB. Văn hóa - Thông tin
Năm: 2005
16.Trần Ngọc Thêm (1983), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ sở văn hoá Việt Nam
Tác giả: Trần Ngọc Thêm
Nhà XB: NXB. Khoa học xã hội
Năm: 1983
17. Nguyễn Minh Tuệ (1999), Địa lý du lịch, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.Trần Quốc V-ợng (chủ biên. 1997), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXBĐại học quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Địa lý du lịch
Tác giả: Nguyễn Minh Tuệ
Nhà XB: NXB Thành phố Hồ Chí Minh. Trần Quốc V-ợng (chủ biên. 1997)
Năm: 1999
20. D-ơng Thị Đào - D-ơng Sách - Lã Vinh (2005), Văn hoá ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, NXB. Văn hóa dân tộc, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hoá ẩm thực các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc
Tác giả: D-ơng Thị Đào - D-ơng Sách - Lã Vinh
Nhà XB: NXB. Văn hóa dân tộc
Năm: 2005
21. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít ng-ời ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc), NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các dân tộc ít ng-ời ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc)
Tác giả: Viện Dân tộc học
Nhà XB: NXB. Khoa học xã hội
Năm: 1978
6. Hồ Chí Minh, toàn tập. Xuất bản lần thứ hai, NXB. CTQG, HN, 1995, tËp3 Khác
18. Trần Quốc V-ợng, Nguyễn Thị Bảy (1999), Về văn hoá ẩm thực Việt nam, Tạp chí văn hoá nghệ thuạt số 7 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w